Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

XẤY DỰNG MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH DANH MỤC ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 69 trang )

1
Chuyên đề tốt nghiệp
XẤY DỰNG MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH DANH MỤC ĐẦU TƯ
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
Trong thực tế, danh mục của PTF vẫn đang hoạt động. Tuy nhiên, danh
mục của Công ty vẫn chưa phải là tối ưu. Để chứng minh điều này, em xin đề
xuất một danh mục được xây dựng trên cơ sở phân tích các chỉ số tài chính
phù hợp với yêu cầu của PTF. Để xác định các trọng số của danh mục, sử
dụng các mô hình toán tài chính là mô hình chỉ số đơn – SIM và mô hình định
giá tài sản vốn – CAPM. Phần cuối chương sẽ là đưa ra các so sánh giữa danh
mục tối ưu được lập và danh mục thực tế của Công ty.
I. MỘT SỐ CHỈ SỐ TÀI CHÍNH DÙNG PHÂN TÍCH CHỨNG
KHOÁN
Trên thực tế, người ta sử dụng một số hệ số sau để đánh giá hiệu quả sinh
lợi của doanh nghiệp như: hệ số tổng lợi nhuận; hệ số lợi nhuận hoạt động; hệ
số lợi nhuận ròng; hệ số thu nhập trên vốn cổ phần; hệ số thu nhập trên đầu tư.
Hệ số lợi nhuận cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào
(vật tư, lao động) trong một chu trình sản xuất của doanh nghiệp.
Hệ số tổng lợi nhuận = (Doanh số - Trị giá hàng đã bán tính theo giá
mua)/Doanh số bán
Trong thực tế khi muốn xem các chi phí này có cao hay thấp, ta đem so
sánh tổng hệ số lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty cùng
ngành, nếu hệ số tổng lơi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn,
thì công ty cần có giải pháp tốt hơn trong việc kiểm soát các chi phí đầu vào.
Hệ số lợi nhuận hoạt động cho biết việc sử dụng hợp lý các yếu tố đầu
vào trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Mức lãi hoạt động = Thu nhập trước thuế và lãi / doanh thu
1
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
1
2


Chuyên đề tốt nghiệp
Hệ số này là thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà
một công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ
số biên lợi nhuận hoạt động cho biết số bỏ ra có thể thu về bao nhiêu đồng thu
nhập trước thuế. Hệ số chi phí lợi nhuận cao có nghĩa là quản lý chi phí có
hiệu quả hay có nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động.
Hệ số lợi nhuận ròng phản ánh khoản thu nhập ròng (thu nhập sau thuế)
của một công ty so với doanh thu của nó.
Hệ số lợi nhuận ròng = Lợi nhuận ròng / doanh thu
Thực tế, mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản
thân một ngành, công ty nào quản lý và sủ dụng các yếu tố đầu vào (vốn, nhân
lực..) tốt hơn sẽ có hệ số lợi nhuận ròng cao hơn.
Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần (ROE) phản ánh mức thu nhập ròng trên
vốn cổ phần của cổ đông.
ROE = Lợi nhuận ròng / Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình.
Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ
phiếu khác nhau trên thị trường. Thông thường, hệ số thu nhập trên vốn cổ
phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn. Vì hệ số này cho thấy cách đánh
giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi đem so sánh với
hệ số thu nhập trên vốn cổ phần của các công ty khác.
Hệ số thu nhập trên tổng đầu tư (ROI) được sử dụng để xác định mức độ
ảnh hưởng của biên lợi nhuận so với doanh thu và tổng tài sản.
ROI = (Thu nhập ròng / Doanh số bán) * (Doanh số bán / Tổng tài sản)
Mục đích của việc sử dụng hệ số ROI là để so sánh cách thức tạo lợi
nhuận của công ty và cách thức sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản
được sử dụng có hiệu quả thì thu nhập và thu nhập trên đầu tư sẽ cao.
Hệ số giá trên thu nhập (P/E) là một trong những chỉ số phân tích quan
trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ
2
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45

2
3
Chuyên đề tốt nghiệp
phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số
P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price) và thu nhập của
mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - PM) và được tính như sau:
P/E = PM / EPS
Trong đó giá trị thị trường PM của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu
đang được mua bán tại thời điểm hiện tại. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu EPS là
phần lợi nhuận ròng sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong
năm tài chính gần nhất.
Các hệ số tài chính là nội dung quan trọng trong việc phân tích đầu tư
chứng khoán. Cùng với quá trình phân tích báo cáo tài chính, việc phân tích
và sử dụng các hệ số tài chính là những nội dung quan trọng để định giá cổ
phiếu vào đầu tư chứng khoán. Quá trình phân tích sẽ giúp cho nhà đầu tư
thấy được điều kiện tài chính chung của doanh nghiệp, đó là doanh nghiệp
hiện đang ở trong tình trạng rủi ro mất khả năng thanh toán hay đang làm ăn
tốt và có lợi thế trong kinh doanh khi so sánh với các doanh nghiệp cùng
ngành hoặc các đối thủ cạnh tranh.
Việc sử dụng hệ số tài chính trong phân tích đầu tư vốn trên thị trường
chứng khoán sẽ tạo ra chi phí thấp mà hiệu quả cao hơn, và cũng đúng ngay
cả trên thị trường tiền tệ khi mà các ngân hàng tài trợ vốn cho doanh nghiệp
thông qua cấp tín dụng.
Việc phân tích các hệ số tài chính bao gồm nhóm các hệ số tài chính sau:
1. Nhóm hệ số khả năng thanh toán
Tính thanh khoản của tài sản phụ thuộc vào mức độ dễ dàng chuyển đổi
tài sản thành tiền mặt mà không phát sinh thua lỗ lớn. Việc quản lý khả năng
thanh toán là rất quan trọng, nó quyết định đến nghĩa vụ trả nợ của công ty.
Trong thực tế, hệ số thanh toán được sử dụng nhiều nhất là hệ số khả
năng thanh toán hiện tại và hệ số khả năng thanh toán nhanh.

3
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
3
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là mối tương quan giữa tài sản lưu
động và các khoản nợ ngắn hạn, hệ số này cho thấy mức độ an toàn của công
ty trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là mối tương quan giữa các tài sản lưu
động và các khoản nợ ngắn hạn, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh sau khi
tài sản đã thanh toán nhanh sau khi tài sản đã được loại bỏ bởi các hàng tồn
kho và tài sản kém tính thanh khoản.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động – Hàng dự trữ) /
Nợ ngắn hạn.
2. Nhóm hệ số hoạt động
Các hệ số hoạt động xác định tốc độ mà một công ty có thể tạo ra được
tiền mặt nếu có nhu cầu phát sinh. Bao gồm các hệ số thu hồi nợ trung bình,
hệ số thanh toán trung bình, hệ số hàng lưu kho.
Hệ số thu hồi trung bình biểu thị thông qua kỳ thu hồi nợ trung bình của
một công ty, cho biết công ty đó phải mất bao nhiêu lâu để chuyển các khoản
phải thu thành tiền mặt.
Kỳ thu hồi nợ trung bình = Các khoản phải thu / (Doanh số bán chịu hàng
năm / 360 ngày)
Hệ số thanh toán trung bình biểu thị thông qua thời hạn thanh toán trung
bình, phản ánh mối tương quan giữa các khoản phải trả đối với tiền mua hàng
chịu mỗi năm.
Thời hạn thanh toán trung bình = Các khoản phải trả / (Tiền mua chịu
hàng năm / 360 ngày
Hệ số hàng lưu kho biểu thị số lượng hàng đã bán trên số hàng còn lưu

kho, hệ số này cho thấy khả năng dùng vốn đầu vào của các hàng hóa luân
chuyển cao, tránh được lưu kho bởi cá mặt hàng kém tính linh hoạt.
4
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
4
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Hệ số hàng lưu kho = Giá trị hàng đã bán tính theo giá mua / Giá trị hàng
hóa lưu kho trung bình.
3. Nhóm hệ số nợ của công ty
Phản ánh tình trạng nợ hiện thời của công ty, có tác động đến nguồn vốn
vay và lãi suất khi đáo hạn. Tình trạng nợ của công ty được thể hiện qua các
hệ số: hệ số nợ, hệ số thu nhập trả lãi định kỳ, hệ số trang trải chung…
Hệ số nợ hay tỷ lệ trên tài sản cho biết phần trăm tổng tài sản được tài trợ
bằng nợ. Hệ số nợ càng thấp thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng ít và ngược
lại hệ số nợ càng cao thì hiệu ứng đòn bẩy tài chính càng cao.
Hệ số nợ = Tổng số nợ / Tổng tài sản
Hệ số nợ được phản ánh thông qua hệ số nợ trên vốn cổ phần và hệ số nợ
dài hạn trên tổng tài sản. Hệ số nợ trên vốn cổ phần biểu thị tương quan giữa
nợ dài hạn và vốn cổ phần. Mức cao thấp của hệ số này phụ thuộc vào từng
lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Hệ số nợ trên vốn cổ phần = (Nợ dài hạn + Giá trị tài sản đi thuê) / Vốn
cổ phần.
4. Chỉ số P/E
Chỉ số P/E phản ánh mối quan hệ giữa thị giá (giá thị trường cổ phiếu
hiện hành) cổ phiếu với lợi nhuận sau thuế trong một năm của công ty.
Chỉ số này là khá phổ biến như một công cụ tài chính để nhà đầu tư xem
xét mình xem chưng khoán đắt hay rẻ. P/Ecang cao nghĩa là chứng khoán mua
càng cao và ngược lại. mặt khác, nhà đầu tư có thể mua với P/E giá cao để hy
vọng trong tương lai lợi nhuận công ty cao thì P/E lúc đó lại thất như ví dụ

dưới dây: lợi nhuận năm 1999 của một công ty bánh kẹo là 12,7 tỷ, P/E là
3,4 ;lợi nhuận 2000 là 14,5 tỷ, P/E là 2,9.
Nhà đầu tư mua cổ phiếu với giá P/E là 3,4 lần so với lợi nhuận là 12,7 tỷ
của năm 1999 . Nếu năm 2000 lợi nhuận là 14,5 tỷ thì nhà đầu tư mua với P/E
5
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
5
6
Chuyên đề tốt nghiệp
chỉ còn 2,9 lần do lợi nhuận của công ty đã tăng lên và đến năm 2001 lợi
nhuận tăng nữa thì lúc này P/E sẽ giảm nữa, khi đó nhà đầu tư này muốn bán
ra cho nhà đầu tư khác và nhìn vào thì thấy tại sao nhà đầu trước mua P/E 3,4
lần thì mình cũng mua 3,4 lần được chứ. Thế là hoàn tất thương vụ.
Nếu nhà đầu tư chấp nhận P/E cao thì rủi ro có thể cao do mua với giá
cao so với lợi nhuận Công ty đạt được.
Mặt khác, mua P/E cao cũng cơ thể rủi ro thấp, vì lúc đó Công ty mua
vào có thể là Công ty có giá. Các Công ty này phát triển rất ổn định, từ đó mới
hoàn thành biên độ chỉ số P/E cho từng loại Công ty, từng lĩnh vực công
nghiệp và từng lĩnh vực thị trường.
Theo xu hướng trên thị trường chứng khoán các nước trên thế giới, thì
các lĩnh vực sau đây thường chấp nhận chỉ số P/E cao: ngân hàng, tài chính
chứng khoán, công nghệ tin học, viễn thông, công nghệ sinh học, các ngành
sản xuất công nghiệp kỹ thuật cao.
Hiện nay, các chuyên viên tài chính Việt Nam nhận định P/E tại thị
trường Việt Nam từ 8 – 15 lần, điều đó có nghĩa lĩnh vực tài chính ngân hàng
hoặc các Công ty có uy tín thì P/E trên thị trường Việt Nam từ 10 – 15 lần và
các lĩnh vực khác có thể dưới 10.
Do đó, P/E chỉ là một gia số tương đối, nhà đầu tư cũng cần phải đánh
giá thêm các chỉ số tài chính khác có liên quan mang tính kỹ thuật nhiều hơn.
5. Chỉ số EPS

EPS có thể hiểu đơn giản là một chỉ số nhằm đánh giá bản thân Công ty
tạo khả năng sinh lời từ đồng vốn của cổ đông đóng góp. Đây là chỉ số dánh
giá trực tiếp phản ánh hoàn toàn nội tại của Công ty về khả năng tạo ra lợi
nhuận ròng (lợi nhuận có thể trả cho các cổ đông) trên một cổ phần mà cổ
đông góp vốn chứ không từ việc lên hay xuống giá cổ phiếu Công ty trên thị
trường chứng khoán. Chỉ số EPS càng cao thì công ty tạo ra lợi nhuận cổ đông
6
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
6
7
Chuyên đề tốt nghiệp
càng lớn và ngược lại. Ví dụ, nếu đạt lợi nhuận 5.000 đồng trên một cổ phần
thì điều đó có nghĩa là Công ty tạo ra lợi nhuận 5% trên cổ đông (giả sử mệnh
giá cổ phần là 100.000 đồng. Như vậy, nếu một Công ty chỉ đạt EPS chỉ 8 –
9% / 1 năm thì chỉ bằng lãi suất tiền gửi ngân hàng thì bạn có nên mua hay
không. Đó là điều mà bạn cần cân nhắc trước khi quyêt định đầu tư nếu bạn
mua. Khi bạn biết và hy vọng là Công ty trong thời gian tới có thể tăng lợi
nhuận do nhiều lý do như Công ty đang mở rộng thị trường, đưa vào thị
trường sản phẩm mới, nâng cấp bộ máy quản lý đạt hiệu quả hơn… Đây là
quyết định phản ánh thực tế công ty.
6. Chỉ số thu nhập
Chỉ số current Yield (tỷ xuất thu nhập trên thơi giá cổ phần ) là một cộng
cụ giúp nhà đầu tư tự quyết định ch mình lên chọn đầu tư voà doanh nghiệp
nào.
Chỉ số current Yield hay người ta còn ngọi là Yield là chỉ số dùng để
phan ánh mối quan hệ giữa cổ tức nhà dầu tư nhận được từ Công ty với giá cổ
phiếu mà nhà đầu tư mua vào. Đó là tỷ lệ cổ tức mà cổ đông nhạn được trên
giá chứng khoán mà cổ đông mua vào.
Phân tích mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận được từ Công ty và
giá nhà đầu tư mua cổ phiếu chúng ta thấy có hai trường hợp sau:

Trường hợp một: khi nhà đầu tư mua chứng khoán xong rồi chờ chứng
khoán để hưởng chênh lệch giá gọi là lãi vốn (capital gain) thì nhà đầu tư sẽ
không quan tâm gì đến Yield. Lúc này, Yield không có ý nghĩa gì thực sự
quan trọng với họ so với chỉ số P/E và EPS như đã đề cập.
Trong trường hợp này, nhà đầu tư sẽ phân tích mối quan hệ giữa Yield và
EPS. Nếu Yield thấp, EPS cao thì họ hy vọng Công ty sử dụng phận lợi nhuận
để tái đầu tư tăng lợi nhuận cho các năm tiếp theo giúp P/E giảm. Lúc này, họ
dễ dàng bán lại cổ phiếu với P/E cao để có lãi vốn.
7
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
7
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Trường hợp hai, nếu nhà đầu tư mua chứng khoán để đầu tư lâu dài (như
để mua làm của) thì tất nhiên họ sẽ quan tâm tới việc thu lợi nhuận hàng năm,
hàng quý. Lúc này, chỉ có cổ tức họ thu được. Khi đó, Yield là mục tiêu chính
để họ quan tâm.
Khi Công ty chia cổ tức cao nghĩa là công ty không cần sử dụng lợi
nhuận để lại do Công ty sử dụng vốn vay, công ty chưa có kế hoạch mở rộng
sản suất hoặc thị phần công ty đã bão hoà. Khi lợi nhuận không được dự đoán
tăng lên trong nhiều năm tới đồng nghĩa P/E không giảm nhiều dẫn đến việc
mà nhà đầu tư không hy vọng sẽ tăng giá cổ phiếu của công ty minh trong
tương lai.
Thông thường, lợi nhuận thu được từ cổ tức Công ty trả thấp hơn nhiều
so với lợi nhuận thu được từ việc bán cổ phiếu. Do vậy, đối với các nhà đầu tư
chứng khoán trên thị trường thì điều quan tâm nhất của họ là lãi vốn, có nghĩa
trong đại hội cổ đông hàng năm để quyết định chiav cổ tức thì họ thường bỏ
phiếu không chia cổ tức nhiều.
Nói tóm lại, khi đầu tư, bạn nên tìm hiều và đánh giá hết các loại chỉ số
để có một cái nhìn tổng thể hơn mối quan hệ của các chỉ số này để có một

quyết định đầu tư chính xác.
II. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH DANH MỤC
ĐẦU TƯ
1. Các lý thuyết cơ bản áp dụng trong việc xác định danh mục đầu tư
1.1. Lý thuyết thị trường hiệu quả - EMH (Efficient Market Hypothesis)
Trong nghiên cứu, các nhà kinh tế nhận thấy rằng: việc quan sát các biến
số kinh tế có thể lý giải và dự đoán được sự phát triển của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán cũng vậy, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng giá
chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên. Giả thiết rằng giá chứng khoán
phản ánh triển vọng của tổ chức phát hành, sự biến đổi ngẫu nhiên của giá
8
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
8
9
Chuyên đề tốt nghiệp
chứng khoán theo tình hình của công ty chính là một bằng chứng của một thị
trường hoạt động tôt, hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên, giá chứng khoán
biến động dựa vào các thông tin mới của thị trường, không dự đoán được. Do
đó ta có thể lập luận rằng giá của chứng khoán là một chuỗi ngẫu nhiên. Khi
giá của chứng khoán không thể dự đoán được thì đó là bằng chứng của thị
trường không hiệu quả.
Vậy, thị trường hiệu quả là gì? Thị trường hiệu quả là thị trường mà ở đó
giá của các chứng khoán phản ánh toàn bộ thông tin của thị trường.
Giả thuyết về thị trường hiệu quả bao gồm ba cấp độ:
EMH cấp thấp. Khi giá chứng khoán phản ánh toàn bộ các thông tin
trong quá khư. Thị trường chứng khoán là thị trường phải đảm bảo nguyên tắc
công khai và minh bạch, công bằng. Do đó, các nhà đầu tư tham gia vào thị
trường đều biết mọi thông tin trong quá khứ. Khi đó, các thông tin trên thị
trường đều được mọi nhà đầu tư sử dụng.
EMH cấp trung. Khi giá chứng khoan không những phản ánh toàn bộ

thông tin trong quá khứ mà còn phản ánh các thông tin ở hiện tại như: tình
hình sản xuất của công ty, cơ cấu tài sản của công ty…Nhà đâu tư có thể nhận
thấy giá chứng khoán phản ánh các thông tin công khai của công ty.
EMH cấp cao. Giá chứng khoán phản ánh mọi thông tin của công ty
không những ở tron quá khứ mà cả thông tin nội bộ không được công bố.
Thông thường, những nhà đầu tư có được các thông tin này là các thanh viên
trong nội bộ của công ty hoặc các thành viên có quan hệ nhất định đối với các
thành viên trong nôi bộ của công ty. Khi này, các thông tin nội bộ có thể được
mua trên thị trường nhằm tận dụng cơ lợi về chênh lệch thông tin trên thị
trường.
Do đó, mặc dù thị trường hiệu quả như thế nào nữa thì việc đầu tư vào cổ
phiếu vẫn chứa đựng những rủi ro. Vì vậy, chỉ còn cách là nhà đầu tư phải
9
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
9
10
Chuyên đề tốt nghiệp
giảm thiểu rủi ro. Đó chính là đa dạng hóa, rủi ro đầu tư chỉ bằng rủi ro của
toàn thị trường – là rủi ro mà nhà đầu tư kỳ vọng.
1.2. Rủi ro của nhà đầu tư, rủi ro của danh mục đầu tư và phân tán rủi
ro trong đa dạng hóa danh mục đầu tư
Trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư luôn mong muốn đạt
được mức lợi suất mà mình kỳ vọng trong giới hạn rủi ro mà nhà đầu tư chấp
nhận được. Do đó, mỗi nhà đầu tư khác nhau sẽ có một mức e ngại rủi ro khác
nhau, tương ứng với các mức lợi nhuận kỳ vọng.
a. Mức e ngại rủi ro và hàm hữu dụng của nhà đầu tư
Trên thực tế, mỗi nhà đầu tư đều có mức độ e ngại rủi ro khác nhau. Các
nhà kinh tế học hiện đại đã chứng minh được các mức độ e ngại của từng nhà
đầu tư có thể lượng hóa được. Đó là hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư. Để
xác định được các dạng hàm hữu dụng này, các nhà phân tích phải tiến hành

khảo sát, nghiên cứu đối với từng nhà đầu tư. Với các số liệu thống kê được,
các nhà phân tích ước lượng được các hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư.
Các nhà phân tích tài chính đưa ra công thức thể hiện mối tương quan
giữa mức độ rủi ro, lợi suất kỳ vọng và hàm hữu dụng của nhà đầu tư. Giá trị
của hàm hữu dụng tăng lên khi lợi suất kỳ vọng của nhà đầu tư tăng lên, đồng
thời mức độ rủi ro tăng làm cho giá trị của hàm hữu dụng giảm. Khi nhà đầu
tư tiến hành lựa chọn đầu tư, sẽ lựa chọn phương án đầu tư nào có cặp lợi
nhuận và rủi ro đem lại giá trị của hàm hữu dùng lớn nhất.
Để ý rằng, trong phương trình hàm hữu dụng trên, đối với các danh mục
đầu tư không có rủi ro thì khi đó, giá trị của hàm hữu dụng chính là giá trị của
lợi suất kỳ vọng (hay ước tính) của nhà đầu tư: U = E ( r )
Trong phân tích để tiến hành đầu tư, giá trị của hàm hữu dụng của danh
mục đầu tư còn gọi là tỷ lệ tương đương chắc chắn (kí hiệu là CE) của danh
mục đầu tư.
10
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
10
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ tương đương chắc chắn của danh mục đầu tư là mức tỷ suất lợi
nhuận đạt được chắc chắn của một danh mục đầu tư không rủi ro được nhà
đầu tư chấp nhận và được xem xét là có mức độ hấp dẫn tương đương với
danh mục đầu tư có rủi ro.
Trên thực tế, đối với các nhà đầu tư thờ ơ với rủi ro thì họ lựa chọn quyết
định đầu tư dựa trên cơ sở là mức độ lợi nhuận, lợi nhuận càng cao càng tốt
bất cứ mức độ rủi ro như thế nào. Nhưng đa số các nhà đầu tư trên thị trường
là e ngại rủi ro. Do đó, việc xác định danh mục đầu tư đối với các nhà phân
tích là dựa theo quy luật số đông, tức là lập danh mục đầu tư đối với các nhà
đầu tư e ngại rủi ro.
b. Lợi suất và rủi ro của danh mục đầu tư

Lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu tư là bình quân gia quyền (theo
tỷ trọng của từng loại tài sản) của lợi suất thu được từ mỗi chứng khoán trong
danh mục đầu tư. Hay nói cách khác, lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu
tư là bình quân có trọng số của các tài sản có trong danh mục đó.
E(r
p
) = W
1
E(r
1
) + W
2
E(r
2
) +…….+ W
n
E(r
n
)
với danh mục có n tài sản.
Rủi ro của danh mục đầu tư là khả năng biến động trong tương lai của lợi
nhuận thu được từ danh mục đầu tư.
1.3. Nguyên lý đa dạng hóa danh mục đầu tư
Quá trình phân tán và tối thiểu hóa rủi ro là một hình thức đa dạng hóa.
Theo đó, các nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau để
tạo thành một danh mục đầu tư sao cho tổng mức rủi ro trên toàn bộ danh mục
sẽ được giới hạn ở mức nhỏ nhất. Nghĩa là “không nên bỏ trứng vào một giỏ”.
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa doanh lợi và rủi ro, chúng ta đã chỉ
ra rằng mỗi một loại chứng khoán đều tiểm ẩn hai loại rủi ro là rủi ro hệ thống
và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống là rủi ro do thị trường gây ra và ảnh

11
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
11
12
Chuyên đề tốt nghiệp
hưởng đến tất cả các chứng khoán trên thị trường. Do vậy, rủi ro hệ thống là
rủi ro không thể tránh được bằng hình thức đa dạng hóa. Ngược lại, rủi ro phi
hệ thống là loại rủi ro bắt nguồn từ chính tổ chức phát hành. Do đó, có thể hạn
chế được bằng cách đa dạng hóa đầu tư. Điều này là do nguyên lý khi hai hay
nhiều chứng khoán tham gia tạo thành một danh mục đầu tư, các chứng khoán
này sẽ tương tác với nhau tạo thành một kết quả chung cho cả danh mục. độ
rủi ro là cao hay thấp là phụ thuộc vào mối tương tác của các chứng khoán với
các chứng khoán khác trong danh mục.
Như vậy, rủi ro có hệ thống là một trong những yếu tố quyết định mức
doanh lợi dự kiến của một tài sản, vì thế chúng ta cần biết cách thức đo mức
độ rủi ro có hệ thống cho các khoản đầu tư khác nhau. Thước đo mà chúng ta
sẽ sử dụng là hệ số Bêta (β). Đây là lý do vì sao khi phân tích rủi ro của từng
cổ phiếu riêng lẻ để đưa vào danh mục đầu tư, nhà đầu tư cần phải quan tâm
nhiều tới rủi ro hệ thống.
Hệ số β cho ta biết mức độ rủi ro có hệ thống của một loại tài sản là bao
nhiêu. Theo định nghĩa này, một tài sản nào đó có β = 0,5 nghĩa là: mức độ rủi
ro có hệ thống của tài sản này bằng một nửa so với mức rủi ro trung bình của
một tài sản. Cách xác định rủi ro hệ thống được xác định dựa vào mô hình
CAPM.
12
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
12
Số lượng chứng khoán
Rủi ro phi hệ thống
Rủi ro hệ thống

Rủi ro tổng thể
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Đồ thị trên thể hiện mối quan hệ giữa số lượng chứng khoán trong danh
mục và rủi ro của danh mục. tổng rủi ro của danh mục bằng tổng của rủi ro hệ
thống và rủi ro phi hệ thống. Mối quan hệ này là ngược chiều nhau. Khi số
lượng chứng khoán càng nhiều thì rủi ro phi hệ thống của danh mục càng nhỏ,
kéo theo rủi ro của danh mục càng nhỏ. Rủi ro này sẽ có rủi ro bằng với rủi ro
của thị trường. Vì vậy, đa dạng hóa giúp giảm thiểu rủi ro, tuy nhiên các danh
mục vẫn phải chịu một mức rủi ro tiềm ẩn đó là rủi ro hệ thống
2. Các mô hình xác định danh mục đầu tư
2.1. Lý thuyết cơ bản xác định danh mục đầu tư theo mô hình
Markowitz
Thực tế, các nhà đầu tư luôn quan tâm là nên đầu tư như thế nào để danh
mục đầu tư được đa dạng hóa. Để làm được những điều đó, các nhà đầu tư cấn
phải xác định đuợc mối quan hệ giữa giá và lợi suất của tài sản có trong danh
muc đầu tư cũng như bản chất của từng tài sản.
Trên nguyên tắc cân bằng cung cầu trên thị trường để phân tích và định
giá tài sản, Harry Markowitz mới đưa ra một mô hình chính thức trong việc
lựa chọn danh mục đầu tư, trong đó phản ánh nguyên tắc về đa dạng hóa rủi
13
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
13
14
Chuyên đề tốt nghiệp
ro, từ đó mở đường để ông nhận giải Nobel về kinh tế vào năm 1990. Mô hình
của ông chính là bước đi đầu tiên của quản lý danh mục đầu tư: xác định một
hệ thống các danh mục đầu tư hiệu quả, tập hợp các danh mục này sẽ có một
đường cong biên hiệu quả các danh mục chứng khoán rủi ro, thường được gọi
là đường cong biên hiệu quả.

Danh mục P có N tài sản với tỷ trọng :
1 2
( , ,..., )
N
w w w w=
Véc tơ lợi suất các tài sản:
1 2
( , ,..., )
N
R r r r=
Lợi suất danh mục :
1
. ( , )
N
p k k
k
R w r R W
=
= =

Với V là ma trận covarian của danh mục P
(quy ước : R,V,W,…là vectơ cột; R’,V’,W’,…là vectơ hàng )
Phương sai của danh mục:
2
1 1
'. .
N N
p i j
i j
w w ij W V W

σ σ
= =
= =
∑∑
Bản chất của việc xác các danh mục đầu tư hiệu quả là: tại mỗi mức rủi
ro nhất định, chỉ quan tâm đến các danh mục có lợi tức lớn nhất. Hoặc ngược
lại, danh mục nhà đầu tư quan tâm là danh mục có mức rủi ro thấp nhất đối
với mỗi mức lợi tức dự tính. Trên thực tế hai phương pháp xác định này đều
cho kết quả như nhau.
Để định lượng mức độ biến thiên của chứng khoán trong danh mục đầu
tư được đa dạng hóa, ta dùng công thức tính hệ số tương quan ( correlation
coefficient, ký hiệu là
ρ
):
Công thức cho hai cặp chứng khoán:

1 2
1 2
1 2
cov( , )
( , )
.
r r
r r
ρ
σ σ
=
14
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
14

15
Chuyên đề tốt nghiệp
1 2
( , ) 1r r
ρ
= −
: mối tương quan âm tuyệt đối
1 2
( , ) 1r r
ρ
= +
: mối tương quan dương tuyệt đối
Công thức cho cả danh mục đầu tư :

2
1 2
...
p
p
N
σ
ρ
σ σ σ
=
Hệ số tương quan của cả danh mục P dương thể hiện lợi nhuận của các
chứng khoán có trong danh mục có quan hệ cùng chiều nhau, và hệ số tương
quan dương càng lớn thì các chứng khoán đó càng có dao động giống nhau.
1
p
ρ

= +
nghĩa là các chứng khoán trong danh mục hoàn toàn có dao động
giống nhau.
Hệ số tương quan
p
ρ
âm chỉ sự dao động ngược chiều của các chứng
khoán trong danh mục.
p
ρ
càng lớn nghĩa là các chứng khoán trong danh mục
có dao động ngược chiều nhau càng nhiều. Khi nó đạt giá trị -1, các chứng
khoán trong danh mục quan hệ hoàn toàn ngược chiều nhau.
Khi
0
p
ρ
=
thì các chứng khoán trong danh mục P là không có tương quan
với nhau.
Để giảm rủi ro của danh mục, các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục bằng
cách tăng đầu tư vào các tài sản có hiệp phương sai thấp và giảm đầu tư vào
tài sản có hiệp phương sai cao.
Nếu hệ số tương quan của các chứng khoán trong danh mục đầu tư ( hay
tương quan của danh mục đầu tư) nhỏ hơn 1 thì danh mục đầu tư sẽ đạt hiệu
quả đa dạng hóa. Sự phân biệt giữa đường thẳng và đường cong trên đồ thị
15
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
15
M

V
P
P
B/A
1/A
σp2
E
(
r
p
)
S
16
Chuyên đề tốt nghiệp
chính là hiệu quả của đa dạng hóa đầu tư trong danh mục. Khi hai tài sản có
dao động hoàn toàn giống nhau, các danh mục gồm hai tài sản này không có
hiệu quả đa dạng hóa mà chỉ đơn thuần là sự phân bổ vốn giữa các tài sản có
rủi ro giống nhau.
Người đầu tư càng có mức ngại rủi ro cao thì sẽ càng có xu hướng chọn
các danh mục có rủi ro thấp. tức là lựa chọn danh mục nằm gần MVP- danh
mục có phương sai hay độ lệch chuẩn nhỏ nhất.
2.1.1. Xác định biên hiệu quả
Khi nhà đầu tư mong muốn đạt được mức lợi nhuận mong đợi ở mức rủi
ro thấp nhất. Khi đó nhà đầu tư quyết định đầu tư tại danh mục MVP.
Trong đó:
A = [1]’.V
-1
. [1]
16
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45

16
17
Chuyên đề tốt nghiệp
B = [1]’.V
-1
. [E(R)] Với [E(R)] là ma trận lợi suất trung bình của các tài
sản trong danh mục.
Tìm danh mục MVP : giải hệ phương trình tuyến tính:
V.x = [1]
Ta được nghiệm của hệ là:
1 2
( , ,..., )
N
x x x x=
Đặt :
1
i
i
N
i
i
x
w
x
=
=

(
1,i N=
)

=> danh mục cần tìm là :
* * * *
1 2
( , ,..., )
N
P w w w=
Đoạn cong từ S đến MVP chỉ ra rằng nếu ta càng thêm tỷ trọng của tài
sản rủi ro vào danh mục thì lợi suất ước tính của danh mục sẽ tăng thêm trong
khi độ lệch chuẩn giảm đi. Điều này được giải thích bởi hiệu quả của đa dạng
hóa đầu tư. Lợi nhuận của hai tài sản có mối quan hệ ngược chiều nhau nên
khi thêm một tỷ lệ nhỏ tài sản rủi ro vào danh mục là tạo ra rào chắn rủi ro cho
danh mục.
2.1.2. Biên hiệu quả
Có thể thấy rằng không người đầu tư nào muốn đầu tư vào danh mục
nằm trong đoạn S đến MVP vì rõ ràng các danh mục từ MVP trở lên chiếm ưu
thế hơn. Ta gọi đoạn cong từ MVP trở lên là đường cong hiệu quả (efficient
set) hay còn gọi là biên hiệu quả hay biên hiệu dụng của danh mục đầu tư gồm
tài sản rủi ro.
Hiệu quả của đa dạng hóa danh mục thể hiện qua độ cong của đường hiệu
quả. Độ cong càng tăng khi hệ số tương quan càng giảm. Đường hiệu quả
cong nhất khi hệ số tương quan bằng -1.
Trên thực tế, hầu hết các cặp chứng khoán có hệ số tương quan dương,
nghĩa là chúng dao động cùng chiều với nhau. Các danh mục đầu tư được
17
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
17
18
Chuyên đề tốt nghiệp
chọn do chủ quan của từng người đầu tư, mỗi người có cách suy nghĩ khác
nhau, cách lựa chọn khác nhau và có độ e ngại rủi ro khác nhau.

Chú ý rằng tất cả các chứng khoán đơn lẻ đều nằm ở phía bên phải đường
cong biên. Điều này có nghĩa là các danh mục đầu tư chỉ có một chứng khoán
riêng lẻ đều không hiệu quả. Việc đa dạng hóa đầu tư sẽ tạo đựơc các danh
mục có lợi tức cao hơn và rủi ro thấp hơn.
Tất cả các danh mục nằm ở phần trên của đường cong biên ( kể từ đỉnh
của đường cong) là các danh mục được kết hợp rủi ro – lợi tức tốt nhất, là các
danh mục đầu tư tối ưu. Phần đường cong biên này được gọi là đường cong
biên hiệu quả. Với bất kỳ danh mục nằm trên phần dưới của đường cong biên,
sẽ có danh mục khác có cùng mức rủi ro mà lại có lợi tức lớn hơn nhiều. Do
vậy phần dưới của đường cong biên không có hiệu quả, sẽ bị loại bỏ qua khi
nghiên cứu.
Lựa chọn giữa các danh mục đầu tư khả thi thì các danh mục đầu tư tốt
nhất luôn nằm trên đường cong biên hiệu quả. Phương pháp lựa chọn trên do
Markowitz khởi xướng, do vậy được gọi là mô hình lựa chọn Markowitz. Các
danh mục nằm trên đường cong biên hiệu quả này còn được gọi là danh mục
tối ưu Markowitz.
Ý nghĩa của đường biên này là: với bất cứ mức độ rủi ro nào, chúng ta
luôn chọn những danh mục đầu tư trên đường biên mang đến lợi nhuận ước
tính ( hay lợi nhuận kỳ vọng ) cao nhất tương ứng. Nói cách khác, đường biên
hiệu quả chứa các danh mục có các phương sai thấp nhất với bất kỳ mức lợi
nhuận ước tính nào.
Như vậy, một nhà đầu tư muốn lựa chọn một danh mục cổ phiếu để đầu
tư thì tùy vào khả năng chấp nhận rủi ro (hay mức ngại rủi ro) của người đó để
xác định danh mục cổ phiếu tối ưu nhất cho người đầu tư đó. Mỗi người đầu
tư đều có một mức ngại rủi ro riêng và thể hiện trong mối tương quan với lợi
18
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
18
19
Chuyên đề tốt nghiệp

suất ước tính đạt được, diễn tả bằng đường bàng quan. Điểm tiếp xúc giữa
đường bàng quan với đường biên hiệu quả chính là điểm xác định của danh
mục tối ưu của người đầu tư đó.
Hạn chế việc bán khống ảnh hưởng nhiều đến đường cong biên hiệu quả,
làm đường cong này dịch chuyển vào phía trong và trở nên “ lồi hơn” đường
cong biên ban đầu, có nghĩa là với mức rủi ro như trước thì nay chúng ta lại
chỉ có được mức lợi tức thấp hơn. Các cơ quan quản lý chứng khoán, đơn vị
thực hiện nghiệp vụ tự doanh, quản lý danh mục đầu tư và các nhà đầu tư cần
được biết rõ ảnh hưởng của những hạn chế này, trên cơ sở đó cân nhắc để đưa
ra quyết định.
Một lưu ý quan trọng về mặt toán học khi nhà đầu tư lựa chọn danh mục
đầu tư sử dụng phương pháp Markowitz, đó là giả thiết lợi suất của tài sản
phân phối chuẩn. Tuy nhiên, có thể thấy giả thiết này trên thực tế là giả thiết
chặt. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phần lớn các tài sản có lợi suất
không phân phối chuẩn. Ngoài ra, ta có thể mở rộng bằng cách kết hợp hai
hay nhiều danh mục đầu tư chứng khóan vào một danh mục lớn thay vì chỉ kết
hợp những chứng khoán riêng lẻ với nhau. Ví dụ, kết hợp danh mục đầu tư
các chứng khoán trong nước với danh mục đầu tư các chứng khoán nước
ngoài. Các quy luật của mô hình quản lý danh mục đầu tư đơn vẫn được áp
dụng trong trường hợp danh mục đầu tư kép.
2.2. Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM)
Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM) là cốt lõi của lý thuyết kinh tế tài
chính hiện đại. Harry Markowitz là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết
đầu tư hiện đại vào năm 1952. Mười năm sau, Wiliam Sharpe, John Lintner và
Jan Mossin đã phát triển mô hình CAPM. Mô hình CAPM cho phép dự đoán
mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất kỳ vọng. Mô hình CAPM cung cấp một lãi
suất chuẩn dùng để đánh giá và lựa chọn các phương án đầu tư, giúp phán
19
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
19

20
Chuyên đề tốt nghiệp
đoán lợi suất kỳ vọng đối với những tài sản chưa được giao dịch trên thị
trường.
Trong phần này, sẽ đề cập đến dạng đơn giản nhất của mô hình định giá
tài sản vốn.
2.2.1. Những giả thuyết kinh tế cho thị trường vốn
Trong mô hình CAPM, các giả thuyết được chia thành 2 loại: các giả
thuyết về tâm lý của nhà đầu tư và các giả thuyết của thị trường vốn.
Những giả thuyết về tâm lý của các nhà đầu tư
• Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của mình đều lựa dựa trên
việc phân tích hai yếu tố: lợi suất ước tính và rủi ro của chứng
khoán.
Giả thuyết này cho biết những nhân tố dẫn tới quyết định đầu tư. Một
nguyên tắc trong việc lựa chọn các phương án đầu tư là mức độ rủi ro càng
cao thì lợi nhuận càng phải lớn để bù đắp cho các rủi ro phải gánh chịu.
• Nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng cách kết hợp
nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp danh mục đầu tư
của mình.
• Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc trong khoảng thời
gian nhất định.
• Các nhà đầu tư có chung các kỳ vọng về các thông số đầu vào sử
dụng để tạo lập danh mục đầu tư hữu hiệu Markowitz. Đó là các
thông số như : mức lợi suất, độ rủi ro hay các quan hệ tương hỗ.
Những giả thuyết về thị trường vốn:
• Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Điều này có
nghĩa là trên thị trường có rất nhiều người bán và người mua.
Năng lực của một nhà đầu tư riêng lẻ thì rất nhỏ so với cả thị
trường và vì vậy hoạt động của họ không làm ảnh hưởng đến thị
20

Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
20
21
Chuyên đề tốt nghiệp
trường. Giá cả trên thị trường chỉ chịu sự quyết định bởi mối
quan hệ cung cầu.
• Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất kỳ
một sự cản trở nào trong cung và cầu của một loại chứng khoán.
• Trên thị trường có loại chứng khoán không rủi ro. Đồng thời nhà
đầu tư có thể vay với lãi suất đúng bằng lãi suất không rủi ro đó.
Nói một cách khác, lãi suất vay mà lãi suất cho vay bằng nhau và
bằng lãi suất không rủi ro.
Về cơ sở toán học
Giả thiết quan trọng là lợi suất của tài sản có phân phối chuẩn.

2
( , )
i i i
r N r
σ
:

( 1,i N
=
)
Trước khi đi vào nghiên cứu mô hình CAPM, điều trước tiên cần phải đề
cập đến khái niệm danh mục đầu tư thị trường.
2.2.2. Danh mục thị trường ( Market Porfolio)
Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khoán đang được
giao dịch trên thị trường, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hay bất động sản…

Danh mục thị trường là một danh mục đầu tư bao gồm tất cả những tài sản có
nguy cơ chiếm rủi ro trên thị trường và mỗi tài sản trong danh mục này chiếm
một tỷ lệ đúng bằng giá trị thị trường của tài sản đó trong tổng giá trị của toàn
bộ thị trường.
Ký hiệu:
i
V
(
1,i N=
) là giá trị thị trường (hay thị giá) của tổng số tài sản i
Ta có
1
N
i
i
V
=

: là tổng giá trị thị trường của tất cả các tài sản rủi ro có trên
thị trường.
21
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
21
22
Chuyên đề tốt nghiệp

1
M
i
i

N
i
i
V
w
V
=
=

(
1,i N
=
)
=>
0
M
i
w
>
(
1,i N
=
)
=>
1
1
N
M
i
i

w
=
=

Ta được danh mục hiệu quả
1 2
( , ,..., )
M M M
N
M w w w
gọi là danh mục thị trường.
Xác định danh mục dựa trên trạng thái cân bằng của thị trường:
Giả sử thị trường có K nhà đầu tư và nhà đầu tư k chọn danh mục tối ưu
P: là điểm thuộc biên hiệu quả và là tiếp điểm giữa đường mức và đường thờ
ơ (đường bàng quan).
Gọi
k
V
là giá trị thị trường của tất cả tài sản của nhà đầu tư k.
ki
V
là giá trị thị trường của tài sản i do nhà đầu tư k nắm giữ.
Nếu danh mục có tài sản phi rủi ro thì:
0
1
K
ko
k
V V
=

=

Ta có :
1
1 1 1
K
ik
M
i k
i
K N K
i ki
k i k
V
V
w
V V
=
= = =
= =

∑ ∑∑
22
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
22
23
Chuyên đề tốt nghiệp
2.2.3. Mô hình CAPM
2.2.3.1. Đường thị trường vốn ( The Capital Market Line- CML)
Nếu thị trường tồn tại loại chứng khoán phi rủi ro (với lãi suất

f
r
) và giả
thiết rằng cá nhân nhà đầu tư có thể vay và mượn không hạn chế trên cơ sở lãi
suất này (giả thiết 3 của thị trường vốn) thì kết quả về lý thuyết lựa chọn danh
mục đầu tư sẽ được mô tả như hình vẽ sau đây:
23
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
23
M
P
P
σp2
E
(
r
p
)
Rf
24
Chuyên đề tốt nghiệp

24
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
24
25
Chuyên đề tốt nghiệp
Trên hình vẽ, đường thẳng xuất phát từ điểm
f
R

tiếp tuyến với đường
cong hiệu quả Markowitz thể hiện mọi danh mục khả thi có thể tạo ra được từ
sự kết hợp giữa chứng khoán phi rủi ro (tín phiếu kho bạc) với danh mục đầu
tư có rủi ro (danh mục tối ưu Markowitz). Tiếp điểm của chúng được ký hiệu
M là danh mục thị trường, được coi là tối ưu nhất trong số các danh mục tối
ưu.
Phương trình :

M f
p f P
M
r r
r r
σ
σ
 

= +
 ÷
 ÷
 
Trong đó :

M f
r r−
: risk premium of market

M
σ
: market risk


M f
M
r r
σ
 

 ÷
 ÷
 
: giá của rủi ro thị trường ( được tính theo thị giá). Đây
cũng chính là độ dốc của đường CML. Hệ số này được dùng để thể hiện đánh
giá của thị trường về rủi ro.
2.2.3.2 Đường thị trường chứng khoán
Trong mô hình CAPM, khi các chứng khoán tham gia vào danh mục đầu
tư thì triệt tiêu bớt phần rủi ro phi hệ thống, danh mục thị trường được coi là
đa dạng hóa hoàn hảo. Vì vậy, rủi ro phi hệ thống của từng chứng khoán được
triệt tiêu hết, chỉ còn lại phần rủi ro hệ thống.
25
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
25

×