Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.58 KB, 51 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
có thế giữ những vai trò với mức độ khác nhau. Ở Việt Nam số doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, đóng góp
khoảng 40% GDP, 37% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế. Đây là bộ phận
kinh tế năng động, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và là trụ cột của
nền kinh tế địa phương. Nhận ra ý nghĩa quan trọng của doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong sự phát triển của đất nước, chính phủ có những chính sách khuyến
khích, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Nhưng trên thực tế, khối
doanh nghiệp vừa và nhỏ này còn gặp rất nhiều trở ngại trong quá trình giải
quyết những tồn tại của bản thân doanh nghiệp, những khó khăn từ môi
trường xung quanh, cũng như trong quá trình hội nhập nền kinh tế. Một trong
những vấn đề của doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề thiếu vốn hoạt động,
thiếu vốn để đổi mới công nghệ và nguồn vốn tài trợ chủ yếu cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là nguồn vốn từ Chính phủ thông qua Ngân hàng thương
Mại. Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành
Công 30-32 Láng Hạ Hà Nội, em đã nghiên cứu, tìm hiểu tình hình hoạt động
của chi nhánh và đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển hoạt động cho vay
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm bổ sung thêm nguồn vốn cho khối doanh
nghiệp này.
Với mục đích như trên, trong chuyên đề tốt nghiệp của mình, em đã
chọn đề tài nghiên cứu: “Phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công”. Ở đề tài này em
sẽ làm rõ những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng hoạt
động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thương Thành Công và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển
hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại
thương Thành Công.


Bài viết được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Lý thuyết chung về cho vay khách hàng doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Do kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những sai
sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo để em có thể
hoàn thiện bài viết này tốt hơn.
Trong thời gian qua, nhờ có sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy
giáo PGS.TS Lê Đức Lữ cùng các cô chú, anh chị cán bộ nhân viên ở chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công đã giúp em hoàn thành chuyên
đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DNV&N : doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNT : Ngân hàng Ngoại thương
NHNTTC : Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
P. : Phòng
BP. : Bộ phận
XNK : xuất nhập khẩu
XNK&BL : xuất nhập khẩu và bảo lãnh
TCKT : Tổ chức kinh tế
VCB : Vietcombank
TCTD : Tổ chức tín dụng

HĐQT : Hội đồng quan trị
CBTD : Cán bộ tín dụng
NQH : Nợ quá hạn
TSCĐ : Tài sản cố định
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Các bảng dữ liệu
1) Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHNT Thành Công
(trang 37)
2) Bảng 2: Tình hình cho vay tại chi nhánh NHNT Thành Công (trang 38)
3) bảng 3: Dư nợ cho vay các DNV&N tại chi nhánh NHNTTC (trang 52)
4) Bảng 4: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn tại chi nhánh NHNTTC
(trang 54)
5) bảng 5: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế tại chi nhánh
NHNT Thành Công (trang 55)
6) Bảng 6: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh NHNT (trang 57)
Các biểu đồ
1) Biểu đồ 1: Dư nợ cho vay phân theo quy mô của chi nhánh NHNTTC
(trang 53)
2) Biểu đồ 2: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn tại chi nhánh NHNTTC
(trang 54)
3) Biểu đồ 3: Cơ cấu dư nợ cho vay DNV&N theo thành phần kinh tế tại
chi nhánh NHNTTC (trang 56)
Sơ đồ
Sơ đồ bộ máy tổ chức chi nhánh NHNTTC (trang 34)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHO VAY KHÁCH HÀNG
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.Hoạt động cho vay của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.Khái niệm, vai trò hoạt động cho vay của các ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của Ngân hàng, để tài trợ cho
chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Đối với hầu
hết khách hàng, cả doanh nghiệp lẫn cá nhân, ngân hàng là một trong những
nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh
nghiệp vừa và nhỏ, ngân hàng thường là nguồn duy nhất cung cấp dịch vụ tư
vấn và nguồn vốn bổ sung. Hoạt động cho vay của các ngân hàng có mối
quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế bởi vì cho vay thúc đẩy sự
tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Cho vay là
chưc năng kinh tế lâu đời nhất của ngân hàng, là hoạt động mang lại nhiều lợi
nhuận cho ngân hàng song cũng mang lại nhiều rủi ro nhất.
Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo
quyết định số 284/2000/QĐ/NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay được định nghĩa như sau : “Cho vay là
một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian
nhất định theo sự thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”.
Hoạt động cho vay có vai trò quan trọng đối với các cá nhân , doanh
nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, đối với ngân hàng, tổ
chức tín dụng và đối với toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể như sau:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ nhất, cho vay là hoạt động cơ bản kết nối những nguồn vốn nhàn
rỗi với những người thực sự có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Hoạt động
này làm tăng thu nhập cho những người chưa có kế hoặch đầu tư nói chung và

những khoản tiền nhàn rỗi nói riêng, đồng thời làm tăng khả năng hoạt động
của những người có nhu cầu về vốn là doanh nghiệp hay cá nhân. Có thể nói,
hoạt động cho vay tạo ra sự phát triển chung của cả nền kinh tế.
Thứ hai, bằng việc cho vay ngân hàng đã tạo ra khối lượng tiền tệ lớn
trong nền kinh tế. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch
vụ. Toàn bộ hệ thống ngân hàng đã tạo ra khối lượng tiền lớn khi các khoản
tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho
vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì
sẽ tạo nên khoản thu ( tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác
tại một ngân hàng khác tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không có
một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ
thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh
toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Thứ ba, bằng việc cho vay với lãi suất ưu đãi cho một dự án phát triển
mang tính chất chiến lược cũng là hoạt động tài trợ nằm trong chính sách của
chính phủ để phát triển đất nước.
Thứ tư, cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính, lợi nhuận cao
cho ngân hàng, dùng chi trả các khoản lãi tiền gửi huy động và các khoản chi
phí quản lý, trang thiết bị, tiền lương và các khoản chi phí khác để duy trì hoạt
động của ngân hàng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2.Các hình thức cho vay của ngân hàng
Theo các tiêu thức khác nhau có thể phân chia làm rất nhiều loại hình cho
vay khác nhau, cụ thể như sau:
1.1.2.1.Theo hình thức cấp tín dụng
Thấu chi : là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời gian nhất
định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này là hạn mức thấu

chi. Để được thấu chi, khách hàng có thể làm đơn xin ngân hàng hạn mức
thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Khi
khách hàng có số tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và
lãi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử
dụng hình thức này.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản,
phần lớn là không có đảm bảo. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với
những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần : là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay
mở rộng sản xuất đặc biệt thì khách hàng mới vay ngân hàng, tức là vốn từ
ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu ki sản xuất kinh
doanh.
Mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay
vốn cần thiết. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho cho
vay, xác định quy mô cho vay, xác định thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi
suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt thành những
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hồ sơ khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc
và lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối dơn giản. Ngân hàng có thể
kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản
đảm bảo.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó
ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín
dụng có thể cấp cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối thiểu tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoặch sản xuất kinh doanh,
nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể

thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mứac tín dụng.
Mối lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau
khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền
cho khách hàng.
Đây là hình thức vay thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường
xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng không ấn định ngày trả nợ mà sẽ thu nợ khi khách hàng có thu
nhập.. do đó tạo tính chủ động trong quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy
nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân
hàng khó có thể kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
Cho vay luân chuyển : là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng
hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay
để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Việc cho vay dựa trên
luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên
cứu kế hoặch lưu chuyển hàng hoá để dự phòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khi khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng
và số tiền cần vay. Đồng thời khách hàng phải đảm bảo rằng tất cả số tiền cần
vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng trả vào
tài khoản tiền vay trước khi trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng: thủ tục vay chỉ
cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay, khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn
kịp thời. Vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Còn đối
với ngân hàng, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hoá tồn
đọng…) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của
khoản vay không được quy định rõ ràng.
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép

khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho
vay trả góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ
cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người
vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ
của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay
thường là lãi suất cao nhất trong khung hình lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ
chức tín dụng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút
tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức
tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và
khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Nghiệp vụ này tạo khả
năng thanh toán linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế.
Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết
đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng
nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của
hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một
dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ
chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với một tổ chức tín dụng khác.
Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của Quy chế cho vay của các
tổ chức tín dụng và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Hình thức cho vay này thường áp dụng đối với những dự án quy mô
lớn, một ngân hàng không dủ khả năng cho vay đồng thời cũng không thể

chiu đựng được rủi ro khi dự án không thành công. Vì vậy khi nhận được dự
án vay vốn, ngân hàng này liên kết với nhiều ngân hàng khác để cùng tài trợ
cho dự án.
Cho vay khác: Ngoài các phương thức trên, ngân hàng có thể cho vay
theo các phương thức mà pháp luật không cấm, phù hợp với các quy định tại
các Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng, điều kiện kinh doanh của tổ
chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. Ví dụ như cho vay theo dự án
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ các dự án đầu tư phục vụ đời
sống; cho vay gián tiếp - tức là ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức
trung gian tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội Cựu chiến
binh, Hội Phụ nữ…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2.2. Theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian tính từ khi khách hàng nhận vốn
vay cho đến thời điểm khách hàng trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo đó
thì cho vay có thể chia làm thành hai loại:
Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12
tháng. Hơn một nửa số khoản vay thương mại của ngân hàng được thực hiện
dưới hình thức cho vay ngắn hạn. Hầu hết những khoản cho vay là nhằm hỗ
trợ cho việc tăng dự trữ hàng hoá, dịch vụ cho nguời vay hoạt động theo mùa.
Khoản vay này được hoàn trả khi hàng tồn kho của người vay được bán và
các khoản thu của nó được thu hồi; lãi suất chỉ được tính trên số vốn vay thực
Cho vay trung và dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên
12 tháng đến 60 tháng đối với cho vay trung hạn và từ 60 tháng trở lên đối với
cho vay dài hạn. Trong một khoảng thời gian dài, các ngân hàng thương mại
không cho vay dài hạn, thậm chí cũng không cho vay trung hạn, bởi vì thiếu
các công cụ để quản lý rủi ro nảy sinh từ các hình thức cho vay trên, nhất là
thiếu nguồn vốn lâu dài và khó huy động vốn. Nhưng sau này để đáp ứng nhu

cầu khách hàng một cách tốt nhất, các ngân hàng phải dần chú ý đến phần thị
trường cho vay trung, dài hạn và thay đổi phương thức của họ phù hợp với bối
cảnh mới, đặc trưng bởi sự khuyến khích của chính quyền cũng như sự phức
tạp hoá của thị trường tiền tệ hoặc tác động của sự rối loạn gắn chặt với thói
quen. Cho vay trung và dài hạn thưòng dùng để tài trợ cho việc mua tài sản cố
định hoặc mở rộng sản xuất với quy mô lớn, cấp tài chính cho việc thay đổi
về công tác kiểm soát công ty hoặc mua lại khoản vay tín dụng tuần hoàn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2.3.Theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản
đảm bảo khi vay. Lí do là khách hàng luôn phải đối đầu với những rủi ro
trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng..Những biến cố
không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy,
trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo
khi nhận tín dụng của ngân hàng. Yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng
muốn có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt
động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Theo đó, cho vay cũng được phân
làm hai loại sau:
Cho vay có tài sản đảm bảo: đây là hình thức cho vay có đảm bảo
đối vật, tài sản có thể được đảm bảo theo hình thức thế chấp hoặc cầm cố. Các
tài sản đảm bảo thường là giấy tờ có giá, hàng hoá trong kho, nhà cửa, thiết
bị…Ngân hàng chỉ chấp nhận những tài sản hợp pháp, có khả năng bán được
làm đảm bảo.
+ Cho vay có tài sản đảm bảo theo hình thức thế chấp: là hình
thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu
(hoặc sử dụng) của các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời
gian cam kết song vẫn được quyền sử dụng tài sản với cam kết giữ nguyên
hiện trạng.
Đảm bảo bằng thế chấp thuận lợi cho người đi vay có thể sử dụng

tài sản đảm bảo để thực hiện hoạt động kinh doanh, tuy nhiên có thể gây khó
khăn cho ngân hàng trong việc quản lý và kiểm soát tài sản đảm bảo bởi quá
trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản hoặc khách hàng có thể lợi dụng phân
tán, làm giảm giá trị tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng. Vì vậy ngân hàng
phải tăng khả năng đánh giá, xem xét kĩ vật thế chấp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Cho vay có tài sản đảm bảo theo hình thức cầm cố : là hình thức
cho vay theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm
soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết ( thường gọi
là thời gian tài trợ). Ngân hàng quản lý toàn bộ tài sản đó, mọi chi phí liên
quan đến việc quản lý do người vay chịu.
Các tài sản cầm cố thưòng gọn nhẹ, dễ quản lý, ít chiu ảnh hưởng của
các yếu tố môi trưòng tự nhiên. Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân
hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời viêc ngân
hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài
trợ. Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ
hợp pháp của vật cầm cố, sau đó ngân hàng cùng với khách hàng định giá vật
cầm cố, kí hợp đồng cầm cố quy định quyền và nghĩa vụ liên quan đến vật
cầm cố.
Cho vay không có tài sản đảm bảo: là hình thức đảm bảo đối nhân bao
gồm cho vay tín chấp và cho vay có bảo lãnh
+ Cho vay theo tín chấp: là hoạt động cho vay trong đó ngân hàng
không yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo mà chỉ dựa trên uy tín của
khách hàng. Trong trường hợp này, khách hàng phải là khách hàng truyền
thống của ngân hàng, có uy tín lớn và tiềm lực tài chính mạnh.
+ Cho vay có bảo lãnh: Trong hình thức cho vay này có sự xuất
hiện của người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân
hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được. Đối với
người bảo lãnh có uy tín (Nhà nước, các tổ chức tài chính lớn, các công ty

lớn…) , ngân hàng chấp nhận bảo lãnh không cần có tài sản đảm bảo. Trường
hợp còn lại, khi cho vay ngân hàng yêu cầu phải có tài sản đảm bảo.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2.4. Theo mục đích sử dụng vốn
Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá : là hình thức cho vay đối với
các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để bổ sung vốn đầu tư, mở rộng
hoạt động sản xuất lưu thông hàng hoá.
Cho vay tiêu dùng : là hình thức cho vay để thanh toán các chi phí hợp
pháp phục vụ cho các mục đích tiêu dùng cá nhân bao gồm : mua sắm nhà
cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như tủ lạnh, điều hoà, máy giặt, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, sửa chữa nhà, cho vay du hoc...
1.1.2.5. Theo đối tượng cho vay
Đối tượng cho vay được xét trên các khía cạnh là qui mô vốn, qui mô
lao động là chủ yếu và được chia ra làm hai loại : cho vay doanh nghiệp lớn
và cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp lớn là những doanh
nghiệp có qui mô vốn trên 10 tỷ, qui mô lao động trên 300 lao động. Còn lại
là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc phân loại như thế này sẽ giúp cho
việc quản lý, việc cho vay đối với những đối tượng này có hiệu quả hơn
Sau đây là những vấn đề nghiên cứu liên quan đến DNV&N
1.2.Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.Khái niệm DNV&N
Trong phần các hình thức cho vay của ngân hàng thì doanh nghiệp
vừa và nhỏ được đề cập dưới tiêu thức phân loại là đối tượng cho vay. Trên
thực tế, ở các quốc gia khác nhau, ở các địa phương khác nhau, ở các thời
điểm kinh tế xã hội khác nhau thì DNV&N lại được xác định trên những cơ
sở về quy mô vốn, số lượng lao động khác nhau. Có nghĩa là mặc dù được
xác định trên cơ sở những số tuyệt đối ( quy mô vốn, số lượng lao động)
nhưng khái niệm DNV&N lại vẫn mang tính chất tương đối. Vậy nên khi nói
đến một doanh nghiệp là lớn hay vừa và nhỏ thì ta phải đặt doanh nghiệp vào

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những điều kiện cụ thể là quốc gia nào, địa phương nào, thời điểm nào, tình
hình kinh tế nào, hoạt đông trong lĩnh vực kinh doanh nào.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu cho thấy có rất nhiều tiêu thức phân loại
DNV&N phổ biến như số lượng lao động thường xuyên, số vốn sản xuất kinh
doanh, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng..trong đó thì hai tiêu thức được sử
dụng nhiều nhất là quy mô vốn và lao động.
Ở Việt Nam: theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11 của Chính phủ
về trợ giúp phát triển DNV&N đã đưa ra khái niệm: “ DNV&N là những cơ
sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký theo pháp luật hiện hành, có số
vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người”
Như vậy, DNV&N ở Việt Nam bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt đông theo Luật doanh nghiệp, Luật
doanh nghiệp Nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí kinh doanh theo Nghị định
02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2001 về đăng kí kinh doanh
1.2.2.Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Một nền kinh tế không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu những cá
nhân, những hộ kinh doanh, những doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Trong đó các DNV&N là đối tượng năng động, nhanh nhạy
với cơ chế thị trường, phát huy được những ngành nghề truyền thống, tạo việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động. Những doanh nghiệp này đã đóng
góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm tăng tổng thu nhập
quốc nội, giải quyết việc làm và góp phần làm ổn định xã hội.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Theo số liệu các nước trên thế giới thì số DNV&N chiếm
khoảng 96% tổng số các doanh nghiệp, thu hút 74-92% số công nhân làm việc
trong các doanh nghiệp và đóng góp 43-57% GDP ở mỗi nước. Riêng tại Việt
Nam, tính đến cuối năm 2005 cả nước có trên 200.000 doanh nghiệp trong đó
số lượng DNV&N chiếm 90%, đóng góp 40% tổng sản phẩm xã hội (GDP),
37% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế, 31% giá trị tổng sản lượng công
nghiệp, 78% mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra 49%
việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và thu hút hơn 90% lao động. Sự phát
triển của các DNV&N đang ngày càng mở rộng cơ hội việc làm cho người lao
động. Do sự phân bố của các DNV&N rộng khắp trên cả nước nên lực lượng
lao động cũng thu hút từ nông thôn đến thành thị. Các DNV&N chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực dịch vụ, lao động chân tay, sản xuất thủ công nên cần rất
nhiều lao động. Khi có việc làm, đời sống ngày càng được cải thiện, các tệ
nạn xã hội sẽ có chiều hướng giảm, góp phần ổn định xã hội phát triển.
Thứ hai, DNV&N là bộ phận doanh nghiệp năng động, hoạt động
trong rất nhiều lĩnh vực, nhạy cảm với sự biến động của thị trường, DNV&N
cung cấp ngày càng lớn và đa dạng sản phẩm phục vụ cho đời sống và xuất
khẩu. Những lĩnh vực hoạt động chính của các DNV&N là ngành nghề thủ
công truyền thống, mỹ nghệ, giầy da, may mặc, sản xuất gia công chế biến,
đại lý khai thác những sản phẩm cho xuất khẩu. Đây là một yếu tố đặc biệt
nổi bật của các DNV&N bởi sự phân bố của các DNV&N là rộng khắp trên
cả nước nên có thể khai thác nguồn nguyên liệu riêng lẻ, trong khi đó các
doanh nghiệp lớn thì chỉ thường tập trung khai thác nguồn nguyên liệu, hạn
chế về khu vực địa lý nên khó tiếp cận với nguồn nguyên liệu. Trên thực tế,
nhiều DNV&N lại trở thành đầu mối thu gom nguyên vật liệu cho các doanh
nghiệp lớn hoặc thực hiện một số công đoạn khác như chế biến, đóng gói…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các công đoạn dịch vụ khác cho doanh nghiệp lớn. Vậy ở một khía cạnh khác,
DNV&N có vai trò tích cực đối với các doanh nghiệp lớn.

Thứ ba, DNV&N góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế địa
phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng.
Chỉ có các DNV&N hoạt động trên khắp các vùng mới có điều
kiện hiểu rõ về tiềm năng cũng như thế mạnh riêng có của các vùng. Cùng với
các lĩnh vực hoạt động chính vốn có cộng với sự năng động của chính mình
thì các DNV&N có những điều kiện và cơ sở để phát huy những thế mạnh đó
của vùng. Ngoài ra, các DNV&N còn có điều kiện khai thác triệt để nguồn
nguyên nhiên liệu trong vùng, tránh tình trạng lãng phí cho xã hội. Thêm vào
đó, các DNV&N cũng góp phần khôi phục, duy trì và phát triển các ngành
nghề thủ công truyền thống bởi mô hình DNV&N phù hợp với điều kiện sản
xuất kinh doanh của làng nghề thủ công.
Thứ tư, là một bộ phận kinh tế năng động nên các DNV&N góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thúc đẩy đô thị
hoá.
Mặc dù được coi là bộ phận quan trong để khôi phục, duy trì và
phát triển các ngành nghề truyền thống nhưng các DNV&N lại rất nhạy bén
với tình hình phát triển kinh tế. Hiện nay các DNV&N ngày càng triển khai,
phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp, giảm bớt tỷ trọng nông nghiệp, đặc
biệt là ở vùng nông thôn. Một bộ phận lớn lao động trong ngành nông nghiệp
đã được thu hút và chuyển sang làm các ngành công nghiệp, dịch vụ cho các
DNV&N ngay tại các địa phương chứ không cần phải chuyển lên các khu vực
thành thị, gây áp lực về các vấn đề xã hội lên khu vực đô thị.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.3. Đặc điểm chủ yếu của các DNV&N
Hiện nay ,trong nền kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam , số lượng
DNV&N chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp. Đặc biệt là
trong giai đoạn này, nền kinh tế phát triển rất nóng, cơ sơ pháp lý cũng được
mở rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển. Nhìn
chung loại hình DNV&N cũng đa dạng, có thể là công ty trách nhiệm hữu

hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty hợp danh và một số là
doanh nghiệp Nhà nước.
Loại hình DNV&N là một bộ phận doanh nghiệp không thể thiếu
trong nền kinh tế, đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng GDP
hàng năm, tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế, sử dụng số lượng lớn lao động
thường xuyên. Vì vậy, để phát triển DNV&N cần nắm rõ được những điểm
mạnh, và hạn chế, khó khăn của loại hình doanh nghiệp này.
Những điểm mạnh của DNV&N
Thứ nhất, không như các doanh nghiệp lớn, các DNV&N đi vào hoạt
động chỉ cần lượng vốn ban đầu ít, sản xuất các mặt hàng có khả năng thu hồi
vốn nhanh, tránh được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn. Với lưọng vốn không
quá 10 tỷ đồng, số lao động không quá 300 lao động, thủ tục pháp lý đễ dàng
cùng những điều kiện đơn giản sẽ là cơ sở cho sự hình thành ngày càng nhiều
các DNV&N .
Thứ hai, với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất
cũng như bộ máy quản lý, kiểm tra, giám sát trong các DNV&N tương đối
gọn, không có quá nhiều khâu trung gian. Đặc điểm này tiết kiệm chi phí
quản lý cho doanh nghiệp và làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, với số lượng lao động không nhiều, mối quan hệ giữa người quản lý
và người lao động trong DNV&N tương đối chặt chẽ, có thể dễ dàng trao đổi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ý kiến, nhờ đó người lãnh đạo có thể nắm bắt được trình độ chuyên môn cũng
như nguyện vọng, tâm tư của người lao động để phân công công tác hợp lý.
Các quyết định, chính sách, tư tưởng của người lãnh đạo sẽ nhanh chóng được
tiếp cận và triển khai bởi người lao động.
Thứ ba, phần lớn các chủ DNV&N là nhừng người có tính sáng tạo,
bản thân họ phải vất vả gây dựng sự nghiệp trong cơ chế thị trường nên họ có
xu hướng tạo ra tính năng động cho các DNV&N, thích nghi trước những
thay đổi của nền kinh tế. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp quá lớn, Nhà nước

không kham nổi, những điều khoản ưu đãi mà Nhà nước dành cho các
DNV&N là không dễ dàng đạt được. Hiểu được tình hình đó, DNV&N phải
đề cao tinh thần tự lực, tự cường cao, đi lên trong cạnh tranh.
Thứ tư, do vốn đầu tư nhỏ, vốn thiết bị công nghệ không lớn, các
DNV&N dễ dàng đổi mới thiết bị, công nghệ và đối tượng kinh doanh để
nâng cao chất lưọng, hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, DNV&N có thể dễ
dàng chuyển hướng kinh doanh kịp thời khi gặp những điều kiện bất lợi trong
kinh doanh và nền kinh tế có những biến động bất thường.
Những hạn chế, khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thứ nhất, điều kiện thành lập nên các DNV&N là rất đơn giản, không
đòi hỏi quá cao nên nhìn chung trình độ kĩ năng quản lý, trình độ tay nghề
công nhân còn hạn chế. Hiện nay, khoảng một nửa số chủ doanh nghiệp chưa
qua đào tạo chính thức, hầu hết là tự đào tạo lấy. Khả năng quản lý doanh
nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân, vào cách nhìn chủ quan của
các chủ doanh nghiệp, họ chưa thực sự hiểu đầy đủ về việc quản lý doanh
nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thêm vào đó, tỷ lệ lao động
qua đào tạo còn ít, đặc biệt là tại một số vùng nông thôn, những vùng xa
thành phố..tỷ lệ lao động qua đào tạo có khi chỉ chiếm hơn 10%, không đáp
ứng được yêu cầu của công việc. Tình trạng này làm giảm năng suất lao động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và hiệu quả làm việc của các DNV&N . Vì vậy, tại một số DNV&N luôn có
những chính sách đào tạo lại lao động khi vào làm hoặc vừa lao động vừa đào
tạo để nâng cao chất lượng lao động. Tuy nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp
chưa quan tâm đến trình độ nhân sự, đào tạo và bồi dưỡng lao động đã gây
khó khăn và giảm hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Thứ hai, trình độ khoa học công nghệ ở Việt Nam nhìn chung là rất
thấp, thường yếu kém, lạc hậu, chậm đổi mới; và các DNV&N ở Việt Nam
không nằm ngoài thực trạng chung đó. Khả năng tiếp cận và xử lý thông tin
trên thị trường của các DNV&N còn hạn chế. Do qui mô nhỏ, hoạt động trong

phạm vi hẹp nên khả năng tiếp cận và xử lý thông tin là hạn chế gây trở ngại
trong quá trình phân tích và đưa ra dự đoán chiến lược kinh doanh cụ thể cho
doanh nghiệp.
Thứ ba, các DNV&N hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực nhưng năng
lực về thị trường của các DNV&N còn yếu, thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ
bé, không có chiến lược kinh doanh dài hạn và ổn định cũng như chưa có kế
hoặch chi tiết dài hạn về phát triển thị trường, thiếu hiểu biết đầy đủ pháp luật
về thương mại quốc tế và các nước. Nhiều doanh nghiệp chưa tiến hành
nghiên cứu thị trường nên không biết rõ về khách hàng và đối thủ cạnh tranh ,
chưa tạo lập được những hình ảnh riêng cho doanh nghiệp, chưa tạo được uy
tín lớn trên thị trường, các doanh nghiệp vẫn chưa có khă năng quan hệ trực
tiếp với khách hàng để xuất khẩu, hầu như phải thông qua đối tác thứ ba …
Nhìn chung năng lực cạnh tranh của các DNV&N là còn rất yếu.
Thứ tư, nguồn vốn tiếp cận của các DNV&N là rất hạn chế. Đối với
nguồn vốn vay từ bạn bè, sử dụng tín dụng thương mại của các đối tác kinh
doanh( mua trả chậm, nợ gối đầu…) thì thường có lãi suất cao,rủi ro lớn,
không ổn định, số lượng vốn nhỏ, phân tán không đáp ứng được yêu cầu mua
sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với nguồn vốn vay từ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các ngân hàng thương mại và nguồn vốn viện trợ của các tổ chức trong và
ngoài nước, các DNV&N gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các
khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đặc biệt là các khoản tín dụng
trung và dài hạn. Khi vay vốn thì các DNV&N luôn được yêu cầu phải có thế
chấp hoặc không thì phải có 2-3 năm làm ăn có lãi và dự án có khả thi hay
không. Ngoài ra các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi được dành cho các
DNV&N. Bên cạnh đó các ngân hàng thường mong muốn giữ mối quan hệ
với một số lượng nhỏ các doanh nghiệp lớn thay vì một số lớn các DNV&N
và tư tưởng thời bao cấp vẫn còn tồn tại nên ngân hàng chủ yếu cho các doanh
nghiệp Nhà nước vay vì cảm thấy có sự đảm bảo hơn các DNV&N ngoài

quốc doanh. Cũng chính vì thiếu vốn mà các DNV&N không có điều kiện
mua đất đai, cơ sỏ hạ tầng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh như các doanh
nghiệp lớn, họ chủ yếu phải đi thuê để hoạt động.
Như vậy đối với các DNV&N thì vấn đề lớn nhất chính là vấn đề thiếu
vốn. Giải quyết được vấn đề này đồng nghĩa với việc nâng cao trình độ công
nghệ, năng lực cạnh tranh cho các DNV&N .
1.2.4. Sự cần thiết phát triển hoạt động cho vay DNV&N
Thứ nhất, Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thị trường tiềm năng với các
Ngân hàng.
Số liệu thống kê gần đây cho thấy các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là
khu vực có nhiều tiềm năng phát triển:
- Số lượng DNV&N đang tăng lên rất nhanh:
Đến cuối năm 2005 cả nước có trên 200.000 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh (trong đó hầu hết là các DNV&N), gấp 4 lần năm 2000, gấp 5 lần tổng
số Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập từ năm 1991 đến 1999
cộng lại. Số lượng doanh nghiệp đăng kí thành lập trung bình hàng năm gấp
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.75 lần trung bình hàng năm thời kì 1991-1999, tốc độ tăng trưởng số lượng
doanh nghiệp bình quân khoảng 10%/ năm. Ngoài ra cả nước còn có gần 2.5
triệu hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp và 11 triêu hộ nông dân sản xuất
hàng hoá (Nguồn số liệu: Phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Khải tại Hội
nghi các doanh nghiêp tại Hà Nội ngày 9/2/2006)
- Các DNV&N được đánh giá là bộ phận năng động, hoạt động có hiệu
quả của nền kinh tế. Điều này xuất phát từ lợi thế của quy mô nhỏ, gọn nên
việc chuyển hướng trong kinh doanh của cac DNV&N dễ dàng hơn các doanh
nghiệp lớn. Các DNV&N hoạt động trên hầu hết mọi địa bàn, mọi ngành nghề
của nền kinh tế (trong đó tập trung lớn nhất vào các ngành thương mại, dịch
vụ và công nghiệp). Thêm vào đó, phần lớn các chủ DNV&N là lớp trẻ, rất
năng động, nhạy bén với những thay đổi trên thị trường; họ có nhiều ý tưởng

mới lạ có thể phát triển thành các dự án kinh doanh hiệu quả. Một số doanh
nghiệp tại các làng nghề truyền thống được tiếp thu nhưng kinh nghiệm, bí
quyết gia truyền để tạo ra những sản phẩm đặc thù, riêng biệt, có sức cạnh
tranh.
- Mức độ đóng góp của DNV&N vào nền kinh tế ngày càng lớn: Không
chỉ tăng trưởng về mặt số lượng, các DNV&N đang trở thành bộ phận quan
trọng có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy các
doanh nghiệp này đóng góp khoảng 40% GDP, 37% tổng vốn đầu tư toàn nền
kinh tế, sử dụng trên 90% số lao động có việc làm thường xuyên. Đây là bộ
phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các
doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
Phát triển DNV&N đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất chú
trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của nước ta. Trong tương lai, môi trường hoạt động của
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các doanh nghiệp này sẽ được cải thiện, các chính sách hỗ trợ sẽ được thực thi
tốt hơn, có hiệu quả hơn và do đó các DNV&N sẽ có điều kiện phát triển
mạnh mẽ hơn nữa.
Thứ hai, các ưu thế của nhiều doanh nghiệp lớn đang giảm sút
- Việt Nam đang trong xu hướng xoá bỏ độc quyền, tạo lập môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Trước sức ép của hội nhập, qui mô của một số Tổng
công ty đang độc quyền hiện nay sẽ thu hẹp, song song với việc cổ phần hoá
từng phần hoặc toàn bộ các Tổng công ty này thì các công ty mới, nhỏ hơn
cùng ngành ra đời.
- Chính bản thân một số doanh nghiệp được coi là lớn hiện nay không có
tiềm lực kinh tế thực sự, điển hình là các Tổng Công ty khối Giao thông- Xây
dựng cơ bản.
- Khu vực Nhà nước, nơi tập trung hầu hết các doanh nghiệp lớn hiện nay,

đã và đang bộc lộ tính kém hiệu quả.
Thứ ba, những lợi ích của ngân hàng từ phát triển cho vay đối với
DNV&N
Các DNV&N từ trước đến nay vẫn bị coi là nhóm khách hàng có độ
rủi ro và chi phí giao dịch lớn. Tuy nhiên nếu thực hiện tốt công tác thẩm định
và sàng lọc thì ngân hàng có thể duy trì một danh mục khách hàng hiệu quả.
Việc ngân hàng phát triển cho vay đối với DNV&N đem lại các lợi ích
cơ bản sau :
- Phân tán rủi ro : Do số lượng khách hàng DNV&N lớn, quy mô từng
khoản vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên việc cho
vay các đối tượng này sẽ giúp phân tán rủi ro của các danh mục cho vay.
- Tạo điều kiện để tăng thu dich vụ ngân hàng do tổng số lượng giao dịch
lớn, các DNV&N lại thường có xu hướng sử dụng trọn gói dịch vụ tại một
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi dần cơ cấu thu
nhập.
- Ngân hàng dễ dàng quản lý do DNV&N thường có quy mô nhỏ, gọn, địa
bàn hoạt động hẹp.
- Khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên cả nước : Do các
DNV&N có địa bàn hoạt động trải rộng trên cả nước nên các ngân hàng có
thể khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các tỉnh, thành phố.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hoạt động cho vay các
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Có rất nhiều nhân tố tác động tới việc phát triển hoạt động cho vay
của các ngân hàng đối với các DNV&N. Các nhân tố này có thể từ phía ngân
hàng hoặc từ bản thân các doanh nghiệp hoặc từ môi trường kinh tế vĩ mô.
1.2.5.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng
Thứ nhất, chính sách tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay
của ngân hàng đối với các DNV&N. Chính sách tín dụng bao gồm các quy

định của ngân hàng về hạn mức cho vay tối đa với một khách hàng, kỳ hạn
của khoản vay, chính sách lãi suất, các hạn mức kiểm soát rủi ro tín dụng,
chính sách ưu đãi khách hàng, chính sách cạnh tranh… Chính sách tín dụng
của ngân hàng thường thay đổi qua từng thời kì, phụ thuộc vào sự điều tiết vĩ
mô của Ngân hàng Trung Ương và khả năng, điều kiện của bản thân các ngân
hàng. Khi chính sách tín dụng được nới lỏng: hạn mức cho vay tối đa với một
khách hàng được mở rộng, kỳ hạn của một khoản vay dài hơn, ngân hàng lại
đang phải đối mặt với sự cạnh tranh lớn nên chính sách ưu đãi khách hàng tốt,
lãi suất phù hợp, hạn mức kiểm soát rủi ro không quá khắt khe…sẽ khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sử dụng vốn của ngân hàng.
Tuy nhiên trong một só trường hợp, nền kinh tế lại phát triển quá nóng,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NHTW muốn kiềm chế sự phát triển đó hoặc tình hình các doanh nghiệp hoạt
động kém, ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng tín dụng… thì chính sách
tín dụng sẽ bi thắt chặt hơn, gây khó khăn trong quá trình tiếp cận vốn ngân
hàng của doanh nghiệp.
Thứ hai, một nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến việc phát triển hoạt
động cho vay của ngân hàng đối với các DNV&N là tâm lý phân biệt cho vay
giữa doanh nghiệp lớn và DNV&N. Thực tế cho thấy rằng tỷ trọng cho vay
các DNV&N tại các ngân hàng thương mại cổ phần cao hơn so với các ngân
hàng thương mại Nhà nước trên cùng địa bàn. Tâm lý phân biệt cho vay giữa
doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ bắt nguồn từ nguyên nhân e sợ rủi ro
và chi phí giao dịch lớn của các ngân hàng. Ngân hàng luôn đặt mục tiêu an
toàn lên hàng đầu, coi trọng chất lượng hơn số lượng, vì vậy ngân hàng luôn
có tâm lý giữ mối quan hệ với một lượng nhỏ các doanh nghiệp lớn thay vì
một số lượng lớn các DNV&N. Với lại cũng đã từng có những bài học về sự
lừa đảo của các DNV&N gây tổn thất cho ngân hàng nên họ luôn e ngại cho
các đối tượng này vay. Mặc dù hiện nay đã có rất nhiều sự thay đổi trong cách
nhìn nhận đối với các DNV&N song các NHTM Nhà nước vẫn chưa hoàn

toàn thoải mái về mặt tâm lý khi cho các DNV&N vay. Điều này cho thấy
rằng, nếu còn kéo dài tình trạng phân biệt giữa các doanh nghiệp lớn và các
DNV&N thì sẽ gây khó khăn rất lớn, cản trở hoạt động cho vay DNV&N,
đồng thời cũng cản trở sự phát triển của các DNV&N bởi loại hình doanh
nghiệp nào khi bước vào kinh doanh đều có thể gặp những rủi ro. Ngay cả các
doanh nghiệp lớn, khi thực hiện hoạt động kinh doanh đều có thể xảy ra rủi ro
và đặc biệt là nếu loại doanh nghiệp này mà xảy ra rủi ro thì tổn thất sẽ lớn
hơn các DNV&N rất nhiều. Vì vậy chỉ cần các ngân hàng quan tâm hơn đến
loại hình doanh nghiệp này, tổ chức kiểm tra thẩm định tốt thì việc cho vay
DNV&N sẽ có thể được mở rộng và thu được kết quả tốt.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×