Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghiên cứu xác lập hành lang cấm (setback) phục vụ cho quy hoạch và quản lý bờ biển huyện kỳ anh, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.15 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




Đoàn Thu Phương


NGHIÊN CỨU XÁC LẬP HÀNH LANG CẤM (SETBACK)
PHỤC VỤ CHO QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ BỜ BIỂN
HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC






Hà Nội - Năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



Đoàn Thu Phương



NGHIÊN CỨU XÁC LẬP HÀNH LANG CẤM (SETBACK)
PHỤC VỤ CHO QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ BỜ BIỂN
HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành: Địa mạo & Cổ Địa lý
MS: 60440218

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Văn Phái



Hà Nội - Năm 2014
Lời cảm ơn

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của chính bản thân, em còn nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ của các các cá nhân và tập thể. Em xin được bày tỏ lời tri
ân chân thành nhất của mình đối với các thầy cô, anh chị em, bạn bè và gia đình.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo - PGS.TS.Vũ
Văn Phái, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt thời gian học
tập cũng như trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Em cũng xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Nguyễn Hiệu, PGS.TS.Đặng Văn Bào
và các anh chị em trong Chi Đoàn cán bộ Khoa Địa lý đã luôn nhiệt tình giúp đỡ,
đóng góp những ý kiến quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành luận văn này.
Em trân trọng cảm ơn đề tài đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Đại
học Quốc gia Hà Nội mã số QGTĐ.13.10 do PGS.TS. Nguyễn An Thịnh chủ trì đã hỗ
trợ kinh phí trong quá trình điều tra thực tế ở bảy xã ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà

Tĩnh vào tháng 4/2014.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, những người đã
luôn đồng hành để động viên, giúp đỡ em vượt qua những khó khăn và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.

Hà Nội, tháng 1/2015
Học viên


Đoàn Thu Phương
i

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG iii
DANH MỤC HÌNH iv
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu của đề tài 2
2.1. Mục tiêu 2
2.2. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Cấu trúc của luận văn 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU XÁC LẬP HÀNH LANG CẤM 4
1.1. Hành lang cấm - Khái niệm và tầm quan trọng 4
1.1.1. Quan niệm về hành lang cấm 4
1.1.2. Tầm quan trọng của hành lang cấm trong quy hoạch và quản lý bờ biển 6
1.2. Tình hình nghiên cứu xác lập hành lang cấm 8
1.2.1. Trên thế giới 8
1.2.2. Ở Việt Nam 11
1.3. Phương pháp xác lập hành lang cấm 14

1.3.1. Cơ sở xác lập hành lang cấm 14
1.3.2. Các phương pháp xác lập hành lang cấm 16
1.4. Các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 20
1.4.1. Cách tiếp cận hệ thống 20
1.4.2. Các phương pháp nghiên cứu 20
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO BỜ BIỂN HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ
TĨNH 23
ii

2.1. Vị trí địa lý 23
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi địa hình bờ biển huyện
Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 25
2.2.1. Địa chất và tân kiến tạo 25
2.2.2. Các yếu tố khí hậu - thủy văn lục địa 29
2.2.3. Các nhân tố thủy động lực biển 37
2.2.4. Mực nước biển dâng 40
2.2.5. Hoạt động kinh tế - xã hội 42
2.3. Đặc điểm địa mạo bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 47
2.3.1. Khái quát chung về địa hình khu vực nghiên cứu 47
2.3.2. Đặc điểm địa mạo khu vực nghiên cứu 51
CHƯƠNG 3. XÁC LẬP HÀNH LANG CẤM VEN BIỂN HUYỆN KỲ ANH, TỈNH
HÀ TĨNH 60
3.1. Cơ sở tài liệu 60
3.2. Quy trình xác lập hành lang cấm ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 61
3.2.1. Phân loại bờ biển khu vực nghiên cứu 62
3.2.2. Xác lập hành lang thành phần 66
3.3. Một số đề xuất phục vụ cho quản lý bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 78
3.3.1. Đối với công tác quản lý chung 78
3.3.2. Đối với quản lý bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh 78
KẾT LUẬN 80

TÀI LIỆU THAM KHẢO 82


iii

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Các điểm khảo sát thực địa tại khu vực nghiên cứu
Bảng 2.1. Số ngày mưa trung bình các tháng trong nhiều năm trạm Kỳ Anh
Bảng 2.2. Tốc độ gió trung bình hàng tháng trong năm trạm Kỳ Anh
Bảng 2.3. Tốc độ gió lớn nhất ứng với các chu kỳ (năm) tại trạm Kỳ Anh
Bảng 2.4. Thống kê tần suất xuất hiện của bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Nghệ
An - Quảng Bình từ 1961 - 2013
Bảng 2.5. Thống kê số lượng và cấp bão/áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Nghệ An -
Quảng Bình từ 1961 - 2013
Bảng 2.6. Bão và nước dâng ven bờ Việt Nam
Bảng 2.7. Đặc điểm sóng tháng 1 (1990 - 2009) tại trạm Cồn Cỏ
Bảng 2.8. Đặc điểm sóng tháng 7 (1990 - 2009) tại trạm Cồn Cỏ
Bảng 2.9. Nước biển dâng theo kịch bản phát thải trung bình (cm)
Bảng 3.1. Tên và số hiệu các mảnh bản đồ tỷ lệ 1:25.000 sử dụng trong nghiên cứu
Bảng 3.2. Thông số dữ liệu ảnh Landsat sử dụng cho tính toán


iv

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Quy trình chung xác định hành lang cấm và hành lang kiểm soát
Hình 1.2. Các công trình của các resort ven biển Cửa Đại, Quảng Nam bị biển tấn công
Hình 1.3. Cửa biển Cửa Đại ở xã Nghĩa An, Quảng Ngãi bị sạt lở, bồi lấp do triều cường
Hình 1.5. Máng dẫn ở False Bay (Thành phố Cape Town) được dọn cát liên tục
Hình 1.6. Bờ biển Phan Thiết bị băm nát bởi các resort và sân golf

Hình 1.7. Quan niệm các đường hạn chế phát triển ven biển của huyện Overberg
Hình 1.8. Vành đai an toàn đới bờ từ Vàm Láng đến xã Tân Thành, huyện Gò Công
Đông, Tiền Giang
Hình 1.9. Sơ đồ mặt cắt ngang đới bờ biển
Hình 1.10. Các điểm khảo sát thực địa tại khu vực nghiên cứu
Hình 2.1. Khu vực nghiên cứu - 7 xã ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
Hình 2.2. Bản đồ địa chất dải bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (phóng đại từ bản
đồ địa chất tỷ lệ 1:200.000)
Hình 2.3. Biến thiên lượng mưa trung bình tháng trong nhiều năm (1963 - 2011) tại
các trạm ở Hà Tĩnh
Hình 2.4. Biến thiên số ngày mưa trung bình các tháng trong nhiều năm trạm Kỳ Anh
Hình 2.5. Mạng lưới thủy văn khu vực nghiên cứu
Hình 2.6. Các cơn bão đổ bộ vào Nghệ An - Quảng Bình (1961 - 2004)
Hình 2.7. Tần số và xu thế tuyến tính của bão từng nửa thập kỷ ở vùng biển Thanh
Nghệ Tĩnh
Hình 2.8. Hình thái Cửa Khẩu trên ảnh vệ tinh Google Map 2014
Hình 2.9. Phản ứng của bờ cát (a) và bờ đá (b) dưới ảnh hưởng của mực biển dâng
Hình 2.10. Phần diện tích khai thác đã được hoàn thổ và phần sót lại chưa bị đào xới
(trái) và biển đã tấn công sát vào phần đất đã khai thác (phải)
Hình 2.11. Vị trí khai thác titan chỉ cách bãi biển khoảng 500 mét
Hình 2.13. Tàu hút cát ở vũng Sơn Dương để lấp biển làm cảng Sơn Dương
Hình 2.12. Hiện trường vụ khai thác cát lậu tại KKT Vũng Áng, tháng 10/2014
Hình 2.14. Bản đồ định hướng phát triển không gian khu kinh tế Vũng Áng đến năm 2025
Hình 2.15. Sơ đồ phân bậc địa hình khu vực nghiên cứu
Hình 2.16. Sơ đồ phân bậc độ dốc khu vực nghiên cứu
v

Hình 2.17. Bãi biển ở xã Kỳ Khang (KK-14-01) (a) và Kỳ Phú (KP-14-01) (b)
Hình 2.18. Bản đồ địa mạo bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (thu nhỏ từ bản đồ
địa mạo tỷ lệ 1:25.000)

Hình 2.19. Bề mặt thềm biển 8-15 mét được trồng bạch đàn để chống xói mòn trên
đường ra cảng Vũng Áng (a) và được trồng màu ở xã Kỳ Xuân (b)
Hình 2.20. Bề mặt thềm cao 3-6 mét cấu tạo bởi cát-bột được sử dụng để canh tác ở
Kỳ Ninh (a) và bằng cuội-sỏi đang bị xói lở, sau đó chuyển lên thềm cao 8-15 mét ở
Kỳ Phương (b)
Hình 2.21. Bề mặt tích tụ cao dưới 2 mét ở Kỳ Khang (a) và Kỳ Lợi (b)
Hình 2.22. Bề mặt tích tụ sông - triều ở phía trong Cửa Khẩu (a) và Khe Con Bò (b)
Hình 2.23. Bề mặt cồn cát ở xã Kỳ Lợi (a) và sườn khuất gió cũng tại cồn cát này (b)
Hình 2.24. Cảng (a) và cầu cảng (b) trong Vũng Áng; Đập Khe Bò (c)
Hình 3.1. Sơ đồ quy trình xác lập hành lang cấm ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
Hình 3.2. Bờ đá tại xã Kỳ Nam (KN-14-01) (a) và Kỳ Xuân (KX-14-02) (b)
Hình 3.3. Bờ cát cao tại các xã Kỳ Xuân (KX-14-02) (a), Kỳ Phương (KPg-14-01)
(b), Vũng Áng (KL-14-02) (c), Kỳ Nam (KN-14-01) (d)
Hình 3.4. Bờ cát thấp tại xã Kỳ Khang (KK-14-03) (a), Kỳ Phú (KP-14-01) (b)
Hình 3.5. Phân loại bờ biển khu vực nghiên cứu
Hình 3.6. a) Hệ thống cảng biển và đê chắn sóng cảng Sơn Dương; b) Một cầu cảng
đã được xây dựng trong Vũng Sơn Dương
Hình 3.7. a) Bờ nhân sinh được xây dựng trên bờ đá; b) Bờ nhân sinh được xây dựng
trên bờ cát
Hình 3.8. Ảnh tỷ số (B6+B7)/B2 Landsat 1-MSS năm 1973 (a) và sau khi phân
ngưỡng với giá trị 1.0 (b)
Hình 3.9. Ảnh tỷ số (B5+B6)/B2 Landsat 8-OLI năm 1973 (a) và sau khi phân ngưỡng
với giá trị 1.5 (b)
Hình 3.10. Bảng thuộc tính được xây dựng để tính toán các thông số từ các đường transect
Hình 3.11. Khoảng cách biến động đường bờ biển huyện Kỳ Anh, giai đoạn 1973 - 2014
Hình 3.12. Tốc độ biến động đường bờ biển huyện Kỳ Anh, giai đoạn 1973 - 2014
Hình 3.13. Hành lang cấm xây dựng cho bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh tới
năm 2050

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa, con người đã biết bám vào biển để sinh sống và phát triển. Đây là
vùng có nguồn thức ăn dồi dào, hệ động thực vật đa dạng, nguồn tài nguyên phong
phú, vô cùng thuận lợi cho phát triển kinh tế ven biển như cảng, hàng hải, nghề cá,
nuôi trồng thủy hải sản, công - nông nghiệp, du lịch
Tuy nhiên, đới bờ biển là khu vực hết sức nhạy cảm, dễ bị tổn thương và có
tính biến động cao. Hiện nay, các bờ biển đang ngày càng phải chịu nhiều tác động
của biến đổi khí hậu, liên quan đến sự gia tăng mực nước biển và gia tăng tần suất và
cường độ của các cơn bão. Chính vì lý do đó mà những khu vực này cần được quan
tâm đặc biệt khi thiết lập quy hoạch và quản lý đặc biệt khi chúng đang bị khai thác
quá mức và chịu sức ép của sự phát triển. Nhận thức được điều đó, con người đang
nỗ lực tìm ra những giải pháp để ứng phó với hệ quả của những tác động từ thiên
nhiên và từ chính những hoạt động của mình.
Từ những năm 1990 đến nay, toàn bộ dải bờ biển trên 3.200km của Việt Nam
đều có xu hướng bị xói lở mạnh. Hà Tĩnh cũng không nằm ngoại lệ. Theo số liệu
thống kê của Trung tâm Hải văn (Tổng cục Biển và Hải đảo, Bộ Tài nguyên & Môi
trường) tỉnh Hà Tĩnh hiện có 60 km trên tổng số 137 km bị xói lở với tốc độ trung
bình từ 13 - 30 m/năm. Bờ biển của huyện Kỳ Anh - một huyện phía nam Hà Tĩnh -
trong những năm gần đây cũng bị xói lở mạnh do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu,
của các hoạt động kinh tế trong vùng như: khai thác titan, xây dựng các khu công
nghiệp, khu kinh tế Hậu quả là tại nhiều đoạn bờ thuộc các xã Kỳ Xuân, Kỳ Khang,
Kỳ Ninh, hàng loạt rừng phi lao ven biển đã bị xóa sổ, tại một số đoạn bờ thuộc thôn
Trung Tân, Trung Tiến (xã Kỳ Khang), biển đã tiến sâu vào khu vực nhà dân khiến
cho gần 30 hộ phải di dời và trong tương lai, biển sẽ còn tiếp tục lấn vào đất liền.
Người dân trong vùng đang phải chịu sự đe dọa từ các nguy cơ tai biến thiên nhiên
như xói lở, ngập lụt
Chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài “Nghiên cứu xác lập hành lang cấm
(setback) phục vụ cho quy hoạch và quản lý bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh”

2

nhằm bảo vệ con người và tài sản liên quan khỏi các rủi ro tai biến ven biển, bảo vệ
hệ bờ khỏi các hoạt động của con người, đồng thời cung cấp cho các nhà quản lý một
công cụ để ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu
Xác lập hành lang cấm ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh tới năm 2050
nhằm phục vụ cho việc quy hoạch và quản lý bờ biển.
2.2. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
- Tổng quan tài liệu và lý thuyết hành lang cấm, các phương pháp xác định
hành lang cấm.
- Phân tích tổng hợp các nhân tố có ảnh hưởng tới sự biến động địa hình đới
bờ khu vực nghiên cứu
- Phân tích các đặc điểm địa mạo bờ biển huyện Kỳ Anh
- Xây dựng quy trình xác lập hành lang cấm ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà
Tĩnh
- Đưa ra các đề xuất và kiến nghị.
2.2.2. Nhiệm vụ
- Thu thập tài liệu về lý thuyết và các phương pháp, hướng dẫn xác định hành
lang cấm, các công trình về xác lập hành lang cấm đã được thực hiện; các tài liệu về
điều kiện tự nhiên, địa chất, địa mạo, bản đồ có liên quan đến khu vực nghiên cứu đã
được công bố, các thuyết minh quy hoạch chung của tỉnh, xã, các khu công nghiệp,
khu kinh tế trong khu vực nghiên cứu; Ảnh Landsat khu vực nghiên cứu năm 1973
và 2014.
- Xây dựng bản đồ địa mạo và phân loại bờ biển khu vực nghiên cứu.
- Sử dụng các phần mềm GIS để chiết xuất, tính toán kết hợp với phân tích địa
mạo nhằm xác lập các hành lang thành phần và hành lang tổng.
3


- Khảo sát thực địa để điều tra số liệu và hiệu chỉnh kết quả nghiên cứu.
- Viết báo cáo
3. Đối tượng & phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Địa hình bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
7 xã ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, bao gồm: Kỳ Xuân, Kỳ Phú, Kỳ
Khang, Kỳ Ninh, Kỳ Lợi, Kỳ Phương, Kỳ Nam.
- Ranh giới về phía đất liền: theo ranh giới hành chính của xã
- Ranh giới về phía biển: đường đẳng sâu 5m, giới hạn của đới sóng vỗ bờ tại
khu vực nghiên cứu.
4. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận & kiến nghị và tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc làm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu xác lập hành lang cấm
- Chương 2: Đặc điểm địa mạo bờ biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
- Chương 3: Xác lập hành lang cấm ven biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở
nghiên cứu biến động địa hình




4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
XÁC LẬP HÀNH LANG CẤM
1.1. Hành lang cấm - Khái niệm và tầm quan trọng
1.1.1. Quan niệm về hành lang cấm
Trước hết, cần nhấn mạnh rằng, “hành lang cấm phát triển ven biển” là một

bộ phận của “hành lang hạn chế phát triển ven biển” (Coastal development setback).
Trên thế giới, thuật ngữ này đã xuất hiện từ nửa sau của thế kỷ XX. Ý nghĩa của
chúng là: toàn bộ sự phát triển sẽ được thiết lập ở phía sau đường biên của hành lang
(Setback line) này. Đây là công cụ quy hoạch quan trọng đối với nhiều quốc gia Châu
Úc, Châu Mỹ, Châu Âu, Nam Phi và Địa Trung Hải Chúng được sử dụng để ngăn
cấm hay hạn chế việc xây dựng và sử dụng đất trên bãi biển, nơi nằm trong khu vực
tiềm ẩn nguy cơ bị đe dọa bởi các tai biến ven biển hoặc để cảnh báo về mối nguy
hiểm tiềm tàng để di dời các công trình, nhằm đảm bảo an toàn cho con người, các
công trình xây dựng, cũng như bảo vệ bờ biển và hệ sinh thái.
Mỗi quốc gia, thậm chí mỗi vùng trong một quốc gia lại có cách định nghĩa,
gọi tên khác nhau khi phân loại hành lang hạn chế phát triển. Nhưng nhìn chung, hành
lang hạn chế phát triển là một đới đệm ở phía sau đường bờ, đường biên về phía đất
liền của nó là ranh giới phân định một dải ven biển, nghiêm cấm hoặc hạn chế xây
dựng. Chiều rộng của đới đệm này phụ thuộc vào các tiêu chí về môi trường và kinh
tế - xã hội.
Thông thường, dựa trên mức độ giới hạn đối với sự phát triển, hành lang hạn
chế phát triển ven biển được chia thành hai loại (Hình 1.1).
- Loại thứ nhất: Hành lang cấm xây dựng ven biển (Các thuật ngữ được sử
dụng ở Nam Phi: “hành lang quá trình bờ” (Coastal Processes Setback) hay “hành
lang không có phát triển” (no development setback), ở New Zealand: “hành lang tai
biến ven biển” (Coastal Hazard Setback), ở Nevis là “hành lang bờ” (Coastal
setback). Hành lang cấm xây dựng ven biển được xác định dựa trên những tính toán
và dự báo về xói lở bờ biển, sự xâm nhập của dòng sóng trong bão, và vận chuyển
5

cát do gió. Trong khu vực này nghiêm cấm hoàn toàn tất cả các hoạt động xây dựng
công trình và sử dụng đất cho các mục đích khác để đảm bảo an toàn cho con người
và tài sản trước rủi ro do các tai biến gây ra hay tránh việc lãng phí do phải bảo trì
các công trình.
- Loại thứ hai: Hành lang kiểm soát xây dựng (Ở Nam Phi: “Hành lang kiểm

soát/hạn chế xây dựng” (limited/controlled development setback), ở Châu Âu & Địa
Trung Hải: “hành lang sinh thái ven bờ” (coastal ecosystem setback). Hành lang kiểm
soát xây dựng được xác lập dựa trên các yếu tố bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn di
sản, cảnh quan, bảo tồn các giá trị thẩm mỹ Trong khu vực này, chính quyền sẽ ưu
tiên việc bảo vệ các giá trị cảnh quan và nhân sinh để giới hạn hoặc kiểm soát quy
mô xây dựng của các công trình [46].

Hình 1.1. Quy trình chung xác định hành lang cấm và hành lang kiểm soát [55]

Công việc sơ bộ
Dữ liệu thu thập
Các nghiên cứu được cấp phép
Xác định
ranh giới
Tham gia của
cộng đồng
Xác định các
hành lang hạn
chế
A: HL xói
lở
B: HL cát
bay
C: HL
ngập
D: HL
ĐDSH
E: HL di
sản
F: HL

khác
Tư vấn với chính quyền địa
phương
Xác định hành lang cấm A - C

Tư vấn với chính quyền địa
phương
Xác định các hành lang kiểm soát D - F

Dự thảo báo cáo lần 1
Dự thảo báo cáo lần 2
Báo cáo chính thức
Hội thảo tập trung
Tham vấn cộng đồng
Đệ trình cuối
Xem xét
Kết quả
Vấn đề đi kèm
Tham gia của
các bên liên quan
6

1.1.2. Tầm quan trọng của hành lang cấm trong quy hoạch và quản lý bờ biển
Đới bờ biển là khu vực có độ nhạy cảm, tính dễ tổn thương và tính biến động
rất cao. Hơn nữa, chúng còn chịu tác động sâu sắc của biến đổi khí hậu, đặc biệt là
sự dâng cao của mực nước biển và sự gia tăng tần suất cũng như cường độ của các sự
kiện bão. Trước đây, việc quản lý bờ biển chủ yếu mang tính “phản ứng”, nghĩa là
đối phó và khắc phục các hậu quả từ rủi ro tai biến. Điều này gây ra nhiều bất cập
cho người dân và chính các nhà quản lý. Vì vậy, trong nhiều năm qua, các nhà nghiên
cứu và các nhà quản lý đã cố gắng tìm ra những phương pháp, cách thức, hay còn gọi

là giải pháp “phòng ngừa” để có thể chủ động phòng tránh mọi nguy cơ từ tai biến
thiên nhiên, nhằm giảm thiệt hại đến mức tối thiểu cho nhân dân. Hành lang cấm
chính là một trong những phương pháp, là công cụ quan trọng của quy hoạch để thực
hiện mục tiêu đó.
Các quốc gia ở Châu Úc, Mỹ và Nam Phi đã bắt đầu xây dựng các hành lang
hạn chế phát triển ven biển, trong đó có hành lang cấm, từ khoảng 40 năm trước.
Những năm gần đây, việc xác định các hành lang cấm cho bờ biển ở Châu Âu và Địa
Trung hải được xem là vấn đề quan trọng trong chương trình nghị sự của EU và của
UNEP/MAP [53]. Ý nghĩa của việc xác lập hành lang cấm xây dựng ven biển có thể
kể đến như là:
- Tạo ra một vùng đệm giữa biển và cơ sở hạ tầng ven biển: trong đó phần bãi
biển có thể mở rộng hoặc thu hẹp một cách tự nhiên, không cần phải kè bờ, xây đê
hay các công trình khác, điều này có thể gây nguy hại đến cả hệ thống bãi biển. Vì
vậy, nó thực sự có ý nghĩa làm giảm thiểu xói lở bờ biển.
- Giảm thiệt hại về người và tài sản: Các hành lang cấm là tư tưởng cơ bản để
bảo vệ các hoạt động của con người khỏi các quá trình vật lý cực đoan, dài hạn và
biến đổi khí hậu, đặc biệt là các sự kiện bão. Trong quá khứ, phần lớn các thành tựu
phát triển đã được đặt ở quá gần biển sẽ có nguy cơ bị phá hủy nghiêm trọng bởi xói
lở hay do tác động của sóng (Hình 1.2). Ngoài ra, ở các vùng cửa sông, các động lực
không lường trước có thể gây ra xói lở - tích tụ các khu vực xung quanh (Hình 1.3).
Nếu tại các vị trí đó, các nghiên cứu về bờ biển và xu thế biến đổi của nó được thực
7

hiện và các hành lang cấm xây dựng ven biển được thiết lập có tính đến mực nước
biển dâng, sự gia tăng tính dễ tổn thương trước sóng bão thì sẽ tránh được rất nhiều
mất mát.

- Giảm chi phí bảo trì các công trình: việc xác lập hành lang cấm có tính đến
ảnh hưởng của các quá trình bờ có thể giúp tránh cho việc bảo trì các công trình như
dọn dẹp cát bay hay các mảnh vụn bị phá hủy bởi sóng bão. Ví dụ như ở Cape Town,

chính quyền đã phải dành ra nhiều nỗ lực cũng như tiền bạc để dọn cát ở Baden Power
Drive vì các công trình (trong trường hợp này là các con đường) được xây dựng trong
vùng hoạt động của gió, hay đôi khi dọn các mảnh vỡ tích tụ do sóng lớn kết hợp với
nước dâng (Hình 1.4).
- Bảo tồn chức năng của hệ sinh thái, di sản và cảnh quan dọc bờ biển: Vùng
đệm giữa mực nước cao và khu vực xây dựng cần được quy định để tách các hoạt
động của con người với các quá trình vật lý và sinh thái một cách tự nhiên, nhằm bảo
vệ và duy trì các mẫu, các quá trình đa dạng sinh học và các hệ sinh thái liên quan.
Các hành lang cấm có thể xem là công cụ để tránh những phát triển mới trên bờ biển,
bảo vệ di sản văn hóa của loài người và các cảnh quan nhân sinh có giá trị. Việc xây
dựng hàng loạt các khách sạn, resort ngay sát bờ biển (Nha Trang, Vũng Tàu, Phan
Thiết ) đã làm thay đổi bộ mặt bờ biển, lấy đi khung cảnh hoang sơ, mênh mông,
thoáng đãng của bãi biển , các bãi biển trở thành tài sản riêng, khiến du khách gặp
nhiều khó khăn để tiếp cận (Hình 1.5).
Hình 1.3. Cửa biển Cửa Đại ở xã Nghĩa An,
Quảng Ngãi bị sạt lở, bồi lấp do triều cường
(Ảnh: 11/2014)
Hình 1.2. Các công trình của các resort
ven biển Cửa Đại, Quảng Nam bị biển tấn
công (Ảnh: thanhnien.com.vn, 10/2014)

8


Do đó, điều cần thiết để xác định đường biên hành lang cấm xây dựng ven
biển với cách tiếp cận kỹ thuật mạnh mẽ, là một mặt, có thể đưa ra cái nhìn rõ ràng
về phương diện vật lý và sinh thái của các quá trình, mặt khác, với cách tiếp cận tham
gia hệ thống có thể đưa ra cái nhìn rõ ràng về những liên quan kinh tế - xã hội ở địa
phương.
1.2. Tình hình nghiên cứu xác lập hành lang cấm

Việc xác định hành lang cấm có ý nghĩa quan trọng trong quản lý đới bờ vì nó
hỗ trợ chính quyền địa phương trong việc đưa ra những quyết định, hoạch định chính
sách trên cơ sở phát triển bền vững nhằm tránh hoặc làm giảm thiểu rủi ro tai biến
vùng ven biển trong lập quy hoạch sử dụng đất và xây dựng các chiến lược phát triển
ở ven biển.
1.2.1. Trên thế giới
Biến động địa hình bờ biển, đặc biệt là do xói lở bờ, có tác động rất lớn đến
các cộng đồng dân cư và các hệ sinh thái ven bờ trên toàn thế giới. Ngay từ cuối thế
kỷ 20, trong quá trình thu thập các bằng chứng về biến đổi đường bờ biển, các nhà
khoa học đã nhận ra rằng xói lở bãi đã trở nên phổ biến rộng rãi trên thế giới. Giờ
đây, hiện tượng xói lở bờ biển đã trở thành vấn đề rất nghiêm trọng và chiếm ưu thế
hơn hẳn so với bồi tụ và được các quốc gia có biển, được các tổ chức khoa học và
nhiều nhà khoa học quan tâm. Ước tính, hiện nay có khoảng trên 70% đường bờ cấu
tạo bởi các vật liệu bở rời trên toàn thế giới đang bị xói lở nghiêm trọng. Những đánh
Hình 1.5. Máng dẫn ở False Bay
(Thành phố Cape Town) được dọn cát liên
tục [55]

Hình 1.5. Bờ biển Phan Thiết bị băm nát bởi
các resort và sân golf (Ảnh vệ tinh Google
Map)
9

giá gần đây cho rằng, hầu hết các đường bờ biển cấu tạo bởi cát đều bị giật lùi trong
thế kỷ 20 và kéo dài cho đến nay. Mặc dù ít có khả năng gây thiệt hại về người, nhưng
tai biến xói lở bờ biển gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế (phá hủy cơ sở hạ
tầng, các di tích và di sản) và mất diện tích canh tác của các cộng đồng dân cư ven
biển, đặc biệt là các vùng đã phát triển.
Ngoài thiệt hại do xói lở gây ra, các quốc gia ven biển còn phải dành ra một
lượng ngân sách lớn để phòng và chống lại hiện tượng này. Bởi vậy, trong khoảng

vài chục năm trở lại đây, nhiều nước, nhiều tổ chức Quốc tế và các nhà khoa học đã
xây dựng các chiến lược, chương trình, dự án và đề tài nghiên cứu khoa học nhằm
đánh giá hiện trạng, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp quản lý biến đổi bờ biển
một cách hữu hiệu. Việc xác lập hành lang cấm xây dựng ven biển cũng là một trong
những giải pháp đó. Theo Cơ quan quản lý tài nguyên Bờ và Đại dương của NOAA,
đới đệm này giúp giảm nhu cầu xây dựng các công trình kiểm soát xói lở bờ tốn kém,
giảm thiểu thiệt hại do xói lở bờ biển và duy trì động lực tự nhiên khu bờ. Dưới đây
là tình hình xác lập hành lang cấm của một số quốc gia trên thế giới:
* Ở Mỹ: 23 trên 29 bang và lãnh thổ ven biển có quy định về hành lang cấm
[48]. Chính quyền tại các khu vực ven biển đã phát triển 2 hướng khác nhau để xác
định 2 loại hành lang cấm [50]: hành lang tùy ý và hành lang cố định. Trong 23 bang
có quy định về hành lang cấm, có 15 bang áp dụng phương pháp hành lang cố định,
4 bang áp dụng phương pháp hành lang tùy ý và 4 bang còn lại áp dụng kết hợp cả 2
phương pháp.
* Ở Úc: Một hướng tiếp cận đáng quan tâm được ứng dụng ở Tây Úc, đó là
chính sách ở đây phân biệt giữa bãi bảo tồn và hành lang cấm cho các quá trình tự
nhiên. Bãi bảo tồn là giải pháp chính sách có xem xét đến giá trị sinh thái, cảnh quan,
phong cảnh bờ biển và di sản văn hóa bên cạnh các quá trình vật lý. Mặt khác, các
hành lang cấm của các quá trình vật lý tập trung vào nguy cơ bị phá hủy của các thành
tạo trên bờ biển. Trong chính sách quy hoạch bờ biển của bang Tây Úc, mục tiêu của
hành lang cấm là bảo vệ sự phát triển khỏi các quá trình bờ dưới tác động của một
chuỗi những cơn bão nghiêm trọng và có tính đến cả sự dịch chuyển đường bờ, mực
nước biển dâng và dao động tự nhiên của các quá trình bờ. Hành lang cấm được xác
10

lập trên cơ sở khung thời gian quy hoạch là 100 năm và xem xét đến các động lực
biển và các quá trình bờ có xác suất 1%. Các đường này sẽ được gắn vào một đường
đã xác định là đường bờ trong. Đường bờ trong được xác định liên quan đến đặc tính
vật lý hay sinh học của các kiểu bờ biển - bờ cát, bờ đá và các kiểu bờ đặc biệt khác
ở khu vực. Hành lang cấm của đường bờ trong được tính toán tùy ý hay sử dụng các

mô hình mà có sẵn dữ liệu. Hành lang cấm tổng là phép cộng của ba yếu tố: D1 -
Khoảng cách xói lở ngắn hạn (dưới tác động của chuỗi bão cực đoan), D2 - Khoảng
cách xói lở dài hạn (xói lở hoặc tích tụ thường xuyên), D3 - Khoảng cách xói lở do
mực nước biển dâng [58].
* Ở Nam Phi: Việc xác lập hành lang cấm bắt đầu được tiến hành xác lập từ gần
30 năm trước, từ cho khu vực nhỏ vài km tới khu vực lớn hơn khoảng vài chục km.
Công ty kỹ thuật bờ Nam Phi WSP (WSP Africa Coastal Engineers) và Viện nghiên
cứu công nghiệp và khoa học CSIR (Council for Science and Industrial Research) là
các cơ quan chính thức phát triển các hành lang cấm này [42, 43, 44, 46, 56, 60, 61, 62,
63] với mục đích chính là để đảm bảo an toàn cho sự phát triển dưới ảnh hưởng của
các quá trình bờ, chủ yếu tập trung vào các hành lang cấm xói lở bờ. Các nghiên cứu
này đã tính đến các yếu tố: thay đổi đường bờ biển dài hạn, ngắn hạn, mực nước biển
dâng, đặc điểm hải dương học, đặc điểm bãi biển, đặc điểm trầm tích, vận chuyển trầm
tích do sóng, gió, thảm thực vật Ngoài ra, các nghiên cứu này cũng đưa ra các nguyên
tắc để phát triển ở các vị trí đặc biệt như cửa sông, khu bờ có công trình bảo vệ, khu bờ
có đá lộ Chẳng hạn, ở huyện Overberg, của tỉnh Cape Town, Nam Phi, người ta đã
đưa ra quan niệm đường hành lang cấm ven biển với cấu trúc gồm: đới tai biến tức
thời, đới rủi ro lâu dài, đới nhạy cảm và đới không liên quan (Hình 1.6).

Hình 1.6. Quan niệm các đường hạn chế phát triển ven biển của huyện Overberg [46]

11

1.2.2. Ở Việt Nam
Nội dung chủ yếu của việc xác lập hành lang cấm bao gồm có xác định đới tai
biến ven bờ (xói lở - bồi lấp), xác định khu vực dễ bị ngập ven bờ dưới ảnh hưởng
của bão, xác định các vùng chịu ảnh hưởng của vận chuyển do gió. Việc xác định này
cần dựa trên các nghiên cứu biến động bờ biển và các phân tích về địa mạo khu vực.
Nghiên cứu biến động bờ biển ở nước ta mới được các nhà khoa học quan tâm từ thập
niên 90 của thế kỷ XX đến nay. Một số công trình nghiên cứu có đề cập đến biến

động bờ biển Việt Nam như: đề tài “Hiện trạng và nguyên nhân bồi xói dải bờ biển
Việt Nam. Đề xuất các biện pháp khoa học kỹ thuật bảo vệ và khai thác vùng đất ven
biển” do Nguyễn Thanh Ngà chủ trì, thuộc Chương trình Môi trường, có mã số KT-
03-14 [16], luận án Phó tiến sỹ “Xói lở bờ biển Việt Nam” của Lê Xuân Hồng vào
năm 1997 [11], công trình nghiên cứu tổng quan về hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển
Việt Nam [35, 36] và đánh giá biến động đường bờ biển các tỉnh Nam Bộ dưới ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng của vũ Văn Phái [34].
Trong thập niên thứ nhất của thế kỷ XXI, việc nghiên cứu biến động bờ biển
ở Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các cơ quan Nhà nước và các
tổ chức khác quan tâm một cách đặc biệt. Trong hầu hết các Chương trình, các Dự án
và các Đề tài nghiên cứu khoa học thuộc các cấp quản lý khác nhau đều ít nhiều có
các nội dung về biến động bờ biển và quản lý thống nhất đới bờ biển như “Nghiên
cứu, dự báo, phòng chống sạt lở bờ biển Miền Trung (từ Thanh Hóa đến Bình
Thuận)”, đề tài độc lập cấp Nhà nước, mã số 5B (2000-2001) do Nguyễn Văn Cư chủ
trì [18], “Dự báo hiện tượng xói lở, bồi tụ bờ biển, cửa sông và các giải pháp phòng
tránh”, mã số KC-09-05 (2001-2005) do Nguyễn Văn Cư chủ trì [19] và đề tài
“Nghiên cứu quy luật và dự đoán xu thế bồi tụ-xói lở vùng ven biển và cửa sông Việt
Nam”, mã số KHCN-06-08 (1999-2000) do Lê Phước Trình chủ trì [10]. Trên cơ sở
các kết quả nghiên cứu, Nguyễn Văn Cư và Phạm Huy Tiến đã cho xuất bản cuốn
sách “Sạt lở bờ biển Miền Trung, Việt Nam” [20].
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu đã được công bố trong các hội
nghị, hội thảo trong nước và Quốc tế [12, 13, 27] hầu hết đã đánh giá được hiện trạng
biến động (xói lở và bồi tụ) bờ biển và biến đổi các cửa sông ven biển, cũng như đề
12

xuất cách tiếp cận trong quản lý môi trường đới bờ biển nước ta trong những năm gần
đây, khẳng định về xu thế gia tăng xói lở trong thời gian tới, liên quan tới biến đổi
khí hậu toàn cầu (cụ thể là liên quan tới sự gia tăng mực nước biển, sự gia tăng của
bão )
Mặc dù việc xác định hành lang cấm chủ yếu dựa trên cơ sở nghiên cứu biến

động bờ biển tuy nhiên ở Việt Nam thì khái niệm này vẫn còn tương đối mới mẻ. Đa
số các nghiên cứu về biến động đường bờ hay tai biến xói lở - bồi tụ bờ biển đã xác
định được hiện trạng, lịch sử biến đổi đường bờ, phân tích các nhân tố gây ra biến đổi
đường bờ, lý giải được nguyên nhân dẫn đến xói lở bờ biển và đưa ra các bản đồ cảnh
báo tai biến xói lở dạng phân vùng các khu vực có nguy cơ tai biến cao, thấp, trung
bình căn cứ vào hiện trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xói lở bờ biển, tuy
nhiên việc tính toán dự báo xu thế biến động bờ biển ở nước ta trong những năm tới
vẫn còn sơ sài. Gần đây, Nguyễn Thế Tưởng và nnk [17] đã đưa ra sơ đồ vành đai an
toàn cho đoạn bờ của huyện Gò Công Đông, thuộc tỉnh Tiền Giang (từ thị trân Vàm
Láng đến xã Tân Thành) (Hình 1.7). Tuy nhiên, trên toàn bộ đoạn bờ này, địa phương
đã đầu tư xây dựng đê biển kiên cố. Vì vậy, những dự đoán này cũng còn chưa chắc
chắn.
Do đó, các kết quả nghiên cứu biến động bờ biển của các dự án, đề tài, v.v.
vẫn chưa được đưa vào nội dung quy hoạch và quản lý môi trường bờ giống như các
nước trên thế giới đã thực hiện trong những năm qua. Bên cạnh đó, chưa có một
nghiên cứu chính thức nào về xác định hành lang cấm cho đới bờ biển ở Việt Nam,
một phần quan trọng đối với công tác thiết lập quy hoạch và quản lý bờ biển.
* Đối với khu vực nghiên cứu: Huyện Kỳ Anh - tỉnh Hà Tĩnh
Hiện tại, các nghiên cứu khoa học được thực hiện tại huyện Kỳ Anh cũng như
tỉnh Hà Tĩnh còn rất hạn chế. Gần đây, một số các công trình của Nguyễn Quang Tuấn
[14] và Nguyễn Minh Nguyệt [15] nghiên cứu tại khu vực này nhưng đều theo hướng
xác lập cơ sở địa lý cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đối với
hướng nghiên cứu biến động bờ biển, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ
thể trên phạm vi khu vực, chỉ có một vài công trình nghiên cứu về biến động bờ biển
13

trên toàn Việt Nam, trong đó có đề cập đến khu vực này. Trong cuốn sách “Sạt lở bờ
biển miền Trung” [20], Nguyễn Văn Cư và Phạm Huy Tiến đã nghiên cứu hiện trạng,
thống kê vị trí, số đoạn bờ bị sạt lở và tốc độ sạt lở trên toàn bộ dải bờ biển miền Trung,
trong đó có huyện Kỳ Anh tuy nhiên số liệu còn sơ sài và chưa có đầy đủ ở tất cả các

xã ven biển. Ngoài ra, ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ nghiên
cứu nào về hành lang cấm.


Hình 1.7. Vành đai an toàn đới bờ từ Vàm Láng đến xã Tân Thành, huyện Gò Công Đông,
Tiền Giang [19]

14

1.3. Phương pháp xác lập hành lang cấm
1.3.1. Cơ sở xác lập hành lang cấm
Việc nghiên cứu xác lập hành lang cấm chủ yếu dựa trên cơ sở nghiên cứu địa
mạo, cụ thể là nghiên cứu lịch sử biến động của địa hình, quá trình địa mạo đang diễn
ra và xu thế phát triển của nó dưới ảnh hưởng của các tác động nội - ngoại sinh.

Theo như định nghĩa đã trình bày ở phần 1.1.1, hành lang cấm là hành lang
các quá trình vật lý ở đới bờ biển, trong đó, đới bờ biển được hiểu là một dải tương
đối rộng, trên đó diễn ra tương tác biển - lục địa [5]. Giới hạn trên và dưới của đới bờ
được xác định như sau: Giới hạn về phía lục địa của đới bờ được xác định là đường
sóng leo cực đại (sóng bão) hàng năm; giới hạn dưới là đường có độ sâu mà ở đó
sóng bắt đầu biến dạng do ảnh hưởng của địa hình đáy và ngược lại, thường bằng ½
bước sóng (Hình 1.8).
Hành lang cấm được xác định bao gồm có các hành lang thành phần như: hành
lang xói lở, hành lang cát bay, hành lang ngập lụt. Để xác định mỗi hành lang thành
phần này cần phải nghiên cứu chi tiết các tai biến ở đới bờ. Đó là:
Hình 1.8. Sơ đồ mặt cắt ngang đới bờ biển (theo Shore protection manual, 1984)

15

* Xói lở - bồi tụ bờ biển/cửa sông

Xói lở - bồi tụ là một tai biến phổ biến ở trên các bờ biển và các vùng cửa
sông. Đặc biệt, đối với Việt Nam, đất nước có trên 3.200km đường bờ biển với mật
độ cứ 20km lại có 1 cửa sông, tai biến này diễn ra hết sức phức tạp với nhiều mức
cường độ và quy mô.
Bờ biển là một hệ thống cân bằng động, chịu sự tác động tương tác của nhiều
yếu tố, quá trình. Vì vậy, tồn tại đương nhiên ba trạng thái động lực bờ là bồi tụ, ổn
định và xói lở tại cùng một thời điểm. Tuy nhiên, khó có thể tồn tại sự ổn định của
một đoạn bờ nào đó nếu xét trong khoảng thời gian lâu dài. Quá trình xói lở bờ biển
xảy ra khi lượng trầm tích cung cấp cho khu vực nhỏ hơn lượng vật liệu sóng mang
đi, ổn định khi lượng trầm tích cung cấp cho khu vực bằng với lượng vật liệu mang
đi và bồi lấp khi lượng trầm tích cung cấp lớn hơn so với lượng vật liệu mang đi. Xu
hướng gia tăng tai biến bồi lấp và xói lở gần đây là sự kết hợp của quá trình tiến hoá
bờ tự nhiên và những tác động bất thường do con người gây ra tại chỗ, ở lưu vực
thượng nguồn, hoặc thậm chí ở quy mô toàn cầu như hiệu ứng nhà kính gây dâng cao
mức nước hay nhiễu loạn khí hậu do sự ấm lên của trái đất.
Xói lở bờ biển làm mất đất đai, đe dọa các khu dân cư, các công trình xây dựng
ven bờ. Ở ven bờ châu thổ sông Hồng, xói lở bờ làm vỡ đê biển, thường xảy ra khi
có bão lớn, triều cường, nước dâng gây ngập lụt, nhiễm mặn cho những vùng dân cư
và kinh tế trù phú, rộng lớn trong đê. Thiệt hại về người và tài sản trong những lần
vỡ đê, ví dụ vào các năm 1955 (bão KATE) và 1996 là cực kỳ to lớn.
Xói lở bờ biển cũng làm thu hẹp nơi ở và cư trú của sinh vật biển, đó là những
bãi triều, bãi cát, ở nhiều nơi còn làm mất cả rừng ngập mặn tự nhiên. Bùn cát và vật
chất hữu cơ giải phóng từ quá trình xói lở bờ gây đục và ô nhiễm các vùng nước.
Nhiều khi khối lượng bùn cát giải phóng rất lớn di chuyển dọc bờ đến vùng lân cận
gây nên tai biến bồi lấp. Ở vùng cửa sông Bạch Đằng, hàng năm bùn cát từ các sông
ra trên 4 triệu tấn, còn bùn cát giải phóng từ xói lở bờ bãi đến hơn 2 triệu tấn và khối
lượng nạo vét luồng cảng hàng năm tới 3-5 triệu tấn.
16

* Vận chuyển cát do gió

Động lực gió diễn ra rất mạnh mẽ ở các vùng ven biển và vùng có khí hậu khô
nóng. Hoạt động chính của gió là thổi mòn và vận chuyển trầm tích như cát, bột, sét,
tro từ nơi này đến nơi khác. Các công trình xây dựng trong vùng hoạt động của gió
đòi hỏi công tác bảo trì thường xuyên hơn. Đặc biệt, trong các cơn bão, gió có năng
lượng rất mạnh, có khả năng cuốn đi những vật thể lớn, nặng, điều này có thể gây
nguy hiểm cho cộng đồng dân cư sinh sống ven biển.
* Nước dâng do bão
Nước dâng là hiện tượng nước biển dâng cao hơn mức nước triều bình thường
do ảnh hưởng của bão.
Bão lớn thường đi kèm với nước dâng do bão, đây là một hiện tượng thời tiết
nguy hiểm ở ven biển. Nước dâng là hiện tượng dâng lên của mực nước biển lớn hơn
so với mực nước nền bình thường khi có gió thổi vào bờ. Khi vận tốc gió vượt quá
33m/s (thường xảy ra trong bão lớn, cuồng phong), độ cao nước dâng rất đáng kể, gọi
là nước dâng do bão. Nước dâng do bão có thể vượt qua các cồn cát cao phía ngoài,
tràn ngập và gây úng ở các dải bờ trũng bên trong đê, vùng đồng bằng trù phú thường
sử dụng để trồng lúa, hoa màu, hoặc định cư của người dân. Thời gian ngập ven biển
do bão thường không kéo dài (thông thường từ vài ngày đến nửa tháng) tuy nhiên
cũng đủ làm cho các cây lương thực chết úng, gây thiệt hại về tài sản cho người dân.
Nước dâng do bão xảy ra trong thời kỳ triều cường trên nền nước cao là nguyên nhân
gây ra những thiệt hại to lớn về người và của cải tại các khu vực bão đổ bộ và vùng
lân cận. Ngoài ra, do ảnh hưởng của bão thường gây mưa lớn đến 100-200mm/cơn
bão, có nơi 400-500mm/cơn bão nên dễ gây ngập lụt lớn. Nước mưa kết hợp với nước
dâng ven biển khi rút đi thường tạo vận tốc dòng chảy lớn gây xói lở bờ.
1.3.2. Các phương pháp xác lập hành lang cấm
Như đã trình bày ở trên, các hành lang cấm cần được xem như một công cụ
quy hoạch và thi hành trong quản lý đới bờ. Việc xác định chiều rộng của hành lang
cấm cần dựa trên cách tiếp cận tích hợp bao trùm nhiều phương diện, như hiểu biết
17

và điều chỉnh các quá trình vật lý, hiệu quả của các hệ sinh thái, sự an toàn bờ biển

cho các hoạt động kinh tế và nghỉ dưỡng và bảo vệ cảnh quan trên quan điểm di sản
thiên nhiên và văn hóa.
Xác định đường hành lang cấm cho đới bờ biển có quan hệ chặt chẽ với 2 quá
trình tự nhiên có thể đe dọa các hoạt động của con người và môi trường: xói lở bờ và
ngập lụt có thể tạo ra phá hủy mãnh liệt cơ sở hạ tầng và hạn chế các hoạt động dọc
bờ biển. Ngoài ra, xác định các đường hành lang cấm cũng có thể liên quan đến tác
động tương hỗ của các khu dân cư với các hệ sinh thái bờ. Do đó, có thể nhận ra 2
tiêu chí chung cho việc xác định các đường hành lang cấm: bảo vệ tài sản trên bờ biển
khỏi các rủi ro và bảo vệ hệ sinh thái bờ khỏi tác động của con người. Cả hai cách
tiếp cận nên được tích hợp trong phương pháp luận chung để xác định đường hành
lang cấm.
Trên thế giới, đi đầu trong việc thiết lập các hành lang cấm ven biển phải kể
đến New Zealand, tiếp đến là các nước châu Âu, Nam Phi và Mỹ Hiện tại, trên thế
giới đã có rất nhiều nghiên cứu xác lập hành lang cấm cho các khu vực cụ thể và có
thể áp dụng cho những khu vực có điều kiện tương tự.
Nhìn chung, trong quá trình xác lập hành lang cấm ven biển, các nghiên cứu
đều cân nhắc đến các yếu tố sau:
- Khoảng xói lở dài hạn (xu thế lịch sử);
- Khoảng xói lở ngắn hạn (theo mùa hay do sóng bão);
- Khoảng xói lở do sự dâng lên của mực nước biển;
- Đặc điểm địa hình đáy, đặc điểm bãi biển, đặc điểm trầm tích, đặc điểm di
chuyển bồi tích;
- Cát bay do gió;
- Sự có mặt và đặc điểm của thảm thực vật.
Dưới đây là một số công thức được xây dựng để xác lập chiều rộng của hành
lang cấm của một số nước trên thế giới:

×