Văn bản pháp luật là phương tiện chủ yếu, có tác động trực tiếp và sâu sắc đến
hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau
mà trong số các văn bản pháp luật hiện hành luôn tồn tại những văn bản pháp
luật khiếm khuyết, đó là những văn bản “ còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không
đảm bảo về chất lượng mà Nhà nước yêu cầu. Do đó, một trong những đòi hỏi
bức thiết đặt ra đó là cần đề ra các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm
khuyết nhằm đảm bảo văn bản pháp luật được ban hành đúng thẩm quyền, hợp
pháp và có tính khả thi…. từ đó, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật Việt
Nam. Hai trong số những biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết được
quy định trong pháp luật Việt Nam đó là: hủy bỏ và bãi bỏ. Hai biện pháp này có
nhiều điểm khác biệt. Tìm ra những điểm khác biệt giữa chúng cũng là nội dung
chính được trình bày trong bài viết dưới đây.
Hủy bỏ và bãi bỏ là hai khái niệm pháp lí khác nhau. Nhưng hai khái niệm này
lại chưa được quy định rõ trong luật. Các quy định của pháp luật hiện hành, liên
quan đến vấn đề xử lí văn bản khiếm khuyết chỉ có quy định chung chung mà
không có ranh giới để xác định trường hợp nào thì văn bản pháp luật bị hủy bỏ,
trường hợp nào thì bị bãi bỏ và hậu quả pháp lí của hai biện pháp này có gì giống
và khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu, ta có thể chỉ ra những điểm
khác biệt trong hai biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết: “hủy bỏ và
bãi bỏ” như sau:
Hủy bỏ VBPL Bãi bỏ VBPL
Khái
niệm
Hủy bỏ là ra quyết định làm
mất hiệu lực cả về trước của
một văn bản pháp lí kể từ khi
văn bản đó được ban hành.
Hủy bỏ VBPL là hình thức
xử lí nhằm phủ nhận hoàn
toàn hiệu lực pháp lí của
VBPL kể từ thời điểm văn
bản đó được ban hành.
Bãi bỏ là “ bỏ đi, không thi hành
nữa”. Bãi bỏ VBPL là hình thức xử
lí nhằm chấm dứt hiệu lực pháp lí
của một VBPL đang được thi hành
trên thực tế kể từ thời điểm văn bản
đó bị bãi bỏ.
Đối
tượng
áp dụng
Hủy bỏ là biện pháp xử lí
được áp dụng đối với văn bản
pháp luật bao gồm cả văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản
áp dụng pháp luật, văn bản
hành chính có dấu hiệu vi
phạm pháp luật nghiêm trọng.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính
khoa học, hợp lí chỉ nên quy
định về biện pháp hủy bỏ đối
Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ
chỉ là các văn bản quy phạm pháp
luật có một trong các dấu hiệu khiếm
khuyết; không bao gồm văn bản áp
dụng pháp luật và văn bản hành
chính.
Như vậy, đối tượng áp dụng biện
pháp bãi bỏ có phạm vi hẹp hơn đối
tượng áp dụng biện pháp hủy bỏ.
1
với văn bản áp dụng pháp luật
mà không nên quy định việc
hủy bỏ đối với văn bản quy
phạm pháp luật và văn bản
hành chính.
Dấu
hiệu để
xem xét
áp dụng
Dấu hiệu để xem xét áp dụng
biện pháp hủy bỏ chỉ là dấu
hiệu vi phạm pháp luật của
văn bản pháp luật như: Nội
dung của văn bản pháp luật
bất hợp pháp; ban hành trái
thẩm quyền nội dung; sai
phạm về thủ tục ban hành dẫn
đến làm mất cơ sở pháp lí của
việc giải quyết công việc phát
sinh (không thành lập hội
đồng kỉ luật trước khi ra quyết
định kỉ luật công chức; không
lập biên bản khi xử phạt tiền
trên 100 nghìn đồng…)
Khác với hủy bỏ, dấu hiệu vi phạm
pháp luật không phải là dấu hiệu duy
nhất để xem xét áp dụng biện pháp
bãi bỏ mà còn có các dấu hiệu khiếm
khuyết khác của văn bản quy phạm
pháp luật như: Nội dung của văn
bản pháp luật không phù hợp với
đường lối, chính sách của Đảng; đại
đa số nội dung trong văn bản không
phù hợp với quyền lợi chính đáng
của đối tượng chịu sự tác động trực
tiếp của văn bản; nội dung của văn
bản không phù hợp với văn bản pháp
luật do cấp trên ban hành; phần lớn
nội dung của văn bản pháp luật
không phù hợp với thực trạng kinh tế
- xã hội là đối tượng mà văn bản
điều chỉnh; phần lớn nội dung của
văn bản pháp luật không phù hợp với
các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí
kết hoặc tham gia; văn bản pháp luật
không còn cần thiết tồn tại trong
thực tiễn nữa.
Hậu quả
pháp lí
- Văn bản bị hủy bỏ sẽ bị hết
hiệu lực pháp luật kể từ thời
điểm văn bản đó được quy
định là có hiệu lực pháp lí.
Điều đó có nghĩa Nhà nước
hoàn toàn không thừa nhận giá
trị pháp lí của văn bản bị hủy
ở mọi thời điểm, cho dù trên
thực tiễn, trước khi bị hủy nó
đã từng được coi là có hiệu lực
và có thể đã được thi hành.
- Nếu văn bản bị hủy bỏ là
văn bản áp dụng văn bản pháp
- Văn bản bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực
pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử
lí nó có hiệu lực pháp luật.
- Biện pháp bãi bỏ không phát sinh
trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn
2
luật thì pháp luật còn quy định
trách nhiệm bồi thường, bồi
hoàn của chủ thể ban hành văn
bản. Còn đối với văn bản quy
phạm pháp luật và văn bản
hành chính thì pháp luật không
quy định việc bồi thường.
Thực trạng đó đã làm phát
sinh điểm bất hợp lí trong
pháp luật: Cùng ban hành văn
bản pháp luật sai trái, gây ra
những thiệt hại cho xã hội
nhưng có trường hợp phải bồi
thường, có trường hợp không
phải bồi thường.
của của thể ban hành văn bản pháp
luật sai trai đó.
Ví dụ
- Ngày 25/08/2006 Ủy ban
nhân dân tỉnh Đồng Nai ra
Quyết định số 65/2006/QĐ-
UBND về việc hủy bỏ quyết
định số 33/2006/QĐ-UBND
ngày 12/5/2006 của UBND
tỉnh Đồng Nai về quy định xử
phạt đối với chủ đầu tư thực
hiện chậm báo cáo quyết toán
vốn đầu tư dự án hoàn thành.
Lí do văn bản bị hủy bỏ là
do quyết định số 33/2006/QĐ-
UBND ngày 12/5/2006 của
UBND tỉnh Đồng Nai có dấu
hiệu trái pháp luật.
Quyết định số 33/2006/QĐ-
UBND ngày 12/5/2006 trên sẽ
sẽ bị hết hiệu lực pháp luật kể
từ thời điểm văn bản đó được
quy định là có hiệu lực pháp
lí.
- UBND quận Tân Bình, thành phố
Hồ chí Minh ra “Quyết định số
04/2011/QĐ-UBND về bãi bỏ văn
bản quy phạm pháp luật ngày
20/5/2011”. Theo đó, trong số các
văn quy phạm pháp luật bị bãi bỏ
có: “Quyết định số 05/2007/QĐ-
UBND về ban hành quy định về
trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại quận
Tân Bình ngày 15/5/2007”
Lí do Quyết định số 05/2007/QĐ-
UBND trên bị bãi bỏ là do không
còn phù hợp với quy định pháp luật
hiện hành .
Quyết định số 05/2007/QĐ-UBND
trên hết hiệu lực kể từ khi Quyết
định số 04/2011/QĐ-UBND có hiệu
lực.
3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “ Xây dựng văn bản pháp luật”,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2008;
2. Văn bản pháp luật:
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008;
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND 2004;
3. Trang web:
-
4