Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Thực trạng xuất khẩu mặt hàng may mặc ở vn hiện nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.17 KB, 26 trang )

I. LÝ THUYẾT
1. Khái niệm và các hình thức xuất khẩu
a. Khái niệm:
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc
gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, với mục tiêu là lợi
nhuận. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia.
Mục đích của hoạt động này là thu được một khoản ngoại tệ dựa trên cơ sở khai thác
lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng
hoạt động này.
b. Các hình thức xuất khẩu:
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào số
lượng và các loại hình trung gian thương mại. Mỗi phương thức có đặc điểm riêng, có
kỹ thuật tiến hành riêng. Thông thường có các loại hình xuất khẩu chủ yếu sau:
- Xuất khẩu trực tiếp
Giống như các hoạt động mua bán thông thường trực tiếp ở trong nước,
phương thức xuất khẩu trực tiếp trong kinh doanh TMQT có thể được thực hiện ở mọi
lúc, mọi nơi trong đó người mua và người bán trực tiếp gặp mặt (hoặc thông qua thư
từ, điện tín...) để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao
dịch, phương thức thanh toán... mà không qua người trung gian. Những nội dung này
được thoả thuận một cách tự nguyện, việc mua không nhất thiết gắn liền với việc bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này khác với hoạt động nội
thương ở chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác nhau,
đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên, hàng hoá là đối
tượng của giao dịch được di chuyển qua khỏi biên giới của một nước.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường có những ưu điểm sau:
Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất, ít xảy ra những hiểu
lầm đáng tiếc.
Giảm được chi phí trung gian.
Có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng,
khắc phục thiếu sót


Chủ động trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá
Tuy nhiên hoạt động này cũng gặp phải một số hạn chế đó là:
Đối với thị trường mới còn nhiều bỡ ngỡ, dễ bị ép giá trong mua bán
Khối lượng mặt hàng cần giao dịch phải lớn để bù đắp được chi phí: giấy tờ, đi
lại, điều tra tìm hiểu thị trường.
- Xuất khẩu gián tiếp
Nếu trong xuất khẩu trực tiếp người bán tìm đến người mua, người mua tìm
đến người bán và họ trực tiếp thoả thuận quy định những điều kiện mua bán, thì trong
xuất khẩu gián tiếp, một hình thức giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ
giữa người bán và người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông
qua người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung
gian buôn bán phổ biến trên thị trường thế giới là đại lý và môi giới.
Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo
sự uỷ thác của người uỷ thác (principal). Quan hệ giữa người uỷ thác với đại lý là
quan hệ hợp đồng đại lý.
Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được
người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ. Khi
tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không được đứng tên của chính mình mà đứng
tên của người uỷ thác, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân
trước người uỷ thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Người môi giới
không tham gia vào việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp được uỷ quyền. Quan hệ
giữa người uỷ thác với người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần, chứ không dựa
vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng những người trung gian thương mại (đại lý và môi giới) có những
lợi ích như:
Những người trung gian thường có hiểu biết rõ tình hình thị trường, pháp luật
và tập quán địa phương, do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt
rủi ro cho người uỷ thác.
Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định,
do đó, khi sử dụng họ, người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói, người uỷ
thác có thể giảm bớt chi phí vận tải.
Tuy nhiên việc sử dụng trung gian có khuyết điểm như:
Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường.
Công ty cũng thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý hoặc môi giới.
Lợi nhuận bị chia sẻ
Trước sự phân tích lợi hại như vậy, người ta chỉ thường sử dụng trung gian
trong những trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào một thị trường mới, khi mới
đưa vào thị trường mới một mặt hàng mới, khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua
trung gian, khi mặt hàng đỏi hỏi sự chăm sóc đặc biệt như hàng tươi sống chẳng hạn.
- Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu (counter- trade) là một phương thức giao dịch trao đổi hàng
hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người
mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục
đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một
hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Buôn bán đối lưu đã ra đời lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá- tiền tệ, trong đó
sớm nhất là “ hàng đổi hàng”, rồi đến trao đổi bù trừ. Ngày nay, ngoài hai hình thức
truyền thống đó, đã có nhiều loại hình mới ra đời từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các loại hình buôn bán đối lưu phải kể đến như:
Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter): trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi trực
tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra gần như
đồng thời.
Nghiệp vụ bù trừ (compensation): đây là hình thức phát triển nhanh nhất của
buôn bán đối lưu. Trong nghiệp vụ này hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sỏ
giá trị hàng giao và hàng nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh
giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế, mà
còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những
khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Nghiệp vụ mua đối lưu (counter- purchase): trong nghiệp vụ này một bên giao

thiết bị cho khách hàng của mình và để đổi lại mua sản phẩm của công nghiệp chế
biến, bán thành phẩm, nguyên vật liệu...
Giao dịch bồi hoàn (offset): người ta đổi hàng hoá và/hoặc dịch vụ lấy những
dịch vụ và ưu huệ (như ưu huệ trong đầu tư và giúp đỡ bán sản phẩm).
Nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy- backs): trong nghiệp vụ này một bên cung
cấp thiết bị toàn bộ và/hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên
khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc bí
quyết kỹ thuật đó chế tạo ra.
- Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh thương mại trong đó một bên
(gọi là bên đặt gia công) giao (hoặc bán) nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho một
bên khác (gọi là bên nhận gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại (hoặc bán lại)
cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công
quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của
nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng được giá rẻ
về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công,
phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong
nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một
nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng được phương
thức gia công quốc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại như Hàn Quốc, Thái
Lan, Singapo...
- Giao dịch tái xuất
Là hoạt động xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu
chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
- Xuất khẩu theo nghị định thư
Là hình thức xuât khẩu hàng hoá (hay trả nợ) được kí theo nghị định thư của
chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn
(do nhà nước trả cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận.
2. Vai trò của xuất khẩu

a. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế toàn cầu
Như chúng ta đã biết xuất khẩu hàng hoá xuất hiện từ rất sớm. Nó là hoạt động
buôn bán trên phạm vi giữa các quốc gia với nhau(quốc tế). Nó không phải là hành vi
buôn bán riêng lẻ, đơn phương mà ta có cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong
tổ chức thương mại toàn cầu. Với mục tiêu là tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp
nói riêng cả quốc gia nói chung.
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là
hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá là một trong bốn
khâu của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng của
nước này với nước khác. Có thể nói sự phát triển của của xuất khẩu sẽ là một trong
những động lực chính để thúc đẩy sản xuất.
Trước hết, xuất khẩu bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiện của sản
xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các
mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế hơn thì chắc chắn sẽ
đem lại lợi nhuần lớn hơn. Điều này được thể hiện bằng lý thuyết sau.
b. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia.
Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều khẳng
định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có bốn điều kiện
là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật công nghệ. Nhưng hầu hết các quốc gia
đang phát triển (như Việt Nam) đều thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt
ra làm thế nào để có vốn và công nghệ.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc hậu chận phát
triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng vốn lớn để nhập khẩu

công nghệ thiết bị tiên tiến.
Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng nguồn
vốn huy động chính như sau:
+ Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ
+ Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nước
+ Thu từ hoạt động xuất khẩu
Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận được,
song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này, các nước đi vay
phải chịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ phải trả sau này.
Bởi vì vậy xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng nhất.
Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ tăng trưởng của
hoạt động nhập khẩu. ở một số nước một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó họ cho nguồn vốn ở bên ngoài
là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi
chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu – nguồn vốn
duy nhất để trả nợ thành hiện thực .
- Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã và
đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ
nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản chưa
đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó
hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ
hội phát triển.
Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm
này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất khẩu. Nó thể hiện:
+ Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Điều này có

thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các ngành khác như
bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy…sẽ có điều kiện phát triển.
+ xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
mở rộng thị trường tiêu dùng của một quốc gia. Nó cho phép một quốc gia có thể tiêu
dùng tất cả các mặt hàng với số lương lớn hơn nhiều lần giới hạn khả năng sản xuất
của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ không có khả năng sản xuất được.
+ Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất
của từng quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả về chiều rộng
và chiều sâu. Trong nền kinh tế hiện đại mang tính toàn cầu hoá như ngày nay, mỗi
loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ
hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở nước thứ
5. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở mỗi quốc gia và tiêu thụ ở một quốc gia cho thấy
sự tác động ngược trở lại của chuyên môn hoá tới xuất khẩu.
Với đặc điêm quan trọng là tiền tệ sản xuất sử dụng làm phương tiện thanh
toán, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc biệt với các nước
đang phát triển đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất
khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về cung cấp ngoại tệ, ổn định sản
xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân
Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc
sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu
dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua lại,
phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc để xây dựng các
mối quan hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối quan hệ khác phát triển

như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… ngược lại sự phát triển của
các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt
động xuất khẩu phát triển.
Có thể nói xuất khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung sẽ
dẫn tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của nền kinh tế bằng hai
cách:
+ Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng nhiều hơn với số hàng hoá được sản
xuất ra.
+ Kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động
của xuất khẩu đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau.
c. Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Cùng với sự bùng nổi của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra thị trường
quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Xuất
khẩu là một trong những con đường quen thuộc để các doanh nghiệp thực hiện kế
hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị trường của mình.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của doanh nghiệp
không chỉ được các khách hàng trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị trường nước
ngoài.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng
cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu… phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ XNK cũng như
các đơn vị tham gia như: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt trong khả năng xuất
khẩu các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công
tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ của chu kỳ
sống của một sản phẩm.
Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lần nhau giữa các đơn vị tham

gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên nhân buộc các
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, các
doanh nghiệp phải chú ý hơn nữa trong việc hạ giá thành của sản phẩm, từ đó tiết
kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác tiết kiệm các nguồn lực.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được thu hút được nhiều
lao động bán ra thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng
thêm thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm lợi
nhuận.
Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn
bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG MAY MẶC Ở VN HIỆN NAY
1. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam hiện nay
a. Giới thiệu trung về xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đó cú những bước phát triển
đáng kể với tốc độ trên dưới 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu chiếm 15% kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành dệt may trong năm 2007 tăng 17,9%
so với năm 2006. Các sản phẩm chủ yếu đều tăng như sợi toàn bộ tăng 11%; vải lụa thành
phẩm tăng 8,9%; sản phẩm quần áo dệt kim tăng 8,8%; quần áo may sẵn tăng 12,6%. Sự
phát triển ấn tượng của ngành may mặc đó gúp phần đưa Việt Nam trở thành một trong
chín nước xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất trong số 153 nước xuất khẩu hàng dệt may
trên toàn thế giới. Dệt may đang vươn lên và tham gia vào những mặt hàng xuất khẩu có
kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD của Việt Nam, bên cạnh những mặt hàng khác như dầu
thô, giày dép, thuỷ sản v.v. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt 7,8
tỷ USD, tăng 33,4% so với năm 2006 và bằng khoảng 16% giá trị xuất khẩu hàng hoá năm
2007. Hơn nữa, trong năm 2007, dệt may đó vượt qua dầu thô và trở thành mặt hàng mang
lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất.
b. Tình hình về kim ngạch xuất khẩu những năm gần đây
Với kim ngạch xuất khẩu trên 11,2 tỉ USD trong năm 2010, tăng 23,2% so với năm
2009, VN đã lọt vào tốp 5 nhà xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Trong kết quả
xuất khẩu đáng phấn khởi của ngành dệt may, Tập đoàn dệt may VN (Vinatex) đóng góp

2,1 tỉ USD, tăng 23% so năm 2009. Một số đơn vị của Vinatex đã đưa được thương hiệu
của hàng may mặc VN ra thị trường thế giới: Tổng Công ty Cổ phần May Nhà Bè
nhượng quyền thương mại thương hiệu Mattana cho đối tác tại Ý với hợp đồng tới 10
năm; Tổng Công ty Cổ phần May Việt Tiến đã có tổng đại lý tại Lào và Campuchia,
tháng 4 tới đây, dự kiến mở ở Myanmar và Trung Quốc.
Bên cạnh các thị trường lớn của ngành dệt may VN như Mỹ (năm 2010 nhập hơn 6 tỉ
USD hàng may VN), EU (1,8 tỉ USD), Nhật (1,2 tỉ USD), các thị trường khác như Hàn
Quốc, các nước ASEAN cũng tăng trưởng mạnh và hứa hẹn là những thị trường tiềm
năng trong tương lai. Nhu cầu hàng may mặc ở Mỹ sẽ tiếp tục tăng nên khả năng tăng
nhập khẩu vào thị trường này rất tốt trong năm nay. Đối với thị trường Nhật, DN đang
tận dụng tối đa những ưu đãi về thuế từ Hiệp định Đối tác kinh tế VN - Nhật Bản
(VJEPA) để hạ giá thành sản phẩm, thêm lợi thế cạnh tranh.
c. Các thị trường xuất khẩu chính

×