Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÚ SỐC TÀI CHÍNH LÊN THỊ TRƯỜNG CHO VAY VÀ TIỀN GỬI VAI TRÒ CỦA VAY LIÊN NGÂN HÀNG VÀ GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.44 KB, 33 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÚ SỐC TÀI CHÍNH LÊN THỊ TRƯỜNG CHO VAY VÀ
TIỀN GỬI: VAI TRÒ CỦA VAY LIÊN NGÂN HÀNG VÀ GIÁM SÁT THỊ
TRƯỜNG
Tóm lược
Tác giả nghiên cứu sự truyền dẫn quốc tế của những cú sốc thanh khoản từ ngân hàng đa
quốc gia nắm giữ công ty đến công ty con của họ trong cuộc khủng hoảng tài chính năm
2008. Kết quả của tác giả chứng minh rằng, sự giảm của một công ty con trong việc cho
vay liên quan chặt chẽ việc cho vay của ngân hàng mẹ của nó thông qua thị trường liên
ngân hàng. Trong khi các công ty con phụ thuộc vào tài trợ liên ngân hàng tăng trưởng
tín dụng trước khi cuộc khủng hoảng, họ đã giảm hoạt động cho vay của họ trong cuộc
khủng hoảng. Ngoài ra, tác giả nhận thấy rằng các công ty con phụ thuộc thị trường liên
ngân hàng cố gắng thay đổi chiến lược tài trợ của họ khi họ đã không thể thúc đẩy tăng
trưởng huy động đáng kể trong cuộc khủng hoảng. Trong cuộc khủng hoảng, các công ty
con không thể dựa vào hỗ trợ ngân hàng mẹ của họ thông qua thị trường liên ngân hàng
và vấn đề gặp phải là việc thu hút người gửi tiền mới, mà có thể giải thích sự suy giảm
đáng kể trong việc cho vay trong cuộc khủng hoảng tài chính. Những phát hiện này nhấn
mạnh sự cần thiết phải điều tiết và giám sát các chiến lược tài chính đa quốc gia, đặc biệt
là trên thị trường liên ngân hàng.
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Trong hai thập kỷ qua, hội nhập tài chính đã tăng sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực ngân
hàng của nhiều quốc gia. Phần lớn các nghiên cứu đã ghi nhận vai trò ổn định của các
ngân hàng nước ngoài trong hệ thống tài chính, đặc biệt là ở các nước đang phát triển
(Demirguc-Kunt và Detragiache, 1997). Cull và Martínez Pería (2013) cho thấy, tổng
tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng nước ngoài giảm hơn so với tăng trưởng tín dụng
tư nhân trong nước trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, De Haas và van
Lelyveld (2014) xác minh rằng các ngân hàng mẹ không là nguồn lực mạnh mẽ cho các
công ty con của họ trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Họ báo cáo rằng sự sụt giảm trong tăng trưởng tín dụng của công ty con ngân hàng nước
ngoài đã nhanh hơn gần ba lần so với các ngân hàng trong nước trong cuộc khủng hoảng
gần đây. Tuy nhiên, rất ít được biết đến những ngân hàng nước ngoài đã giảm cho vay
trong cuộc khủng hoảng tài chính. Ngoài ra, tác giả vẫn chưa biết nhiều về mối quan hệ


giữa hành vi của ngân hàng mẹ và các công ty con nước ngoài của họ.
Một lý do có thể cho sự thất bại trong việc cho vay là bởi giảm sự hỗ trợ từ ngân hàng mẹ
cho các công ty con nước ngoài của họ. Tuy nhiên, cũng có vẻ hợp lý khi một số công ty
con nước ngoài hoạt động mà không có bất kỳ hỗ trợ tài chính từ ngân hàng mẹ.
Ivashinaand Scharfstein (2010) ghi nhận rằng các ngân hàng có thể tiếp cận các khoản
1
tiền gửi ổn định thì không giảm cho vay nhiều như các ngân hàng có tiếp cận tiền gửi ít
hơn trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Do đó, tác giả hy vọng sự thay đổi đáng
kể giữa các ngân hàng nước ngoài tùy thuộc vào cách họ đã tài trợ. Chiến lược xác định
của tác giả dựa trên sự biến đổi các nguồn vốn của các công ty con ngân hàng nước
ngoài. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào sự khác biệt trong sự phụ thuộc liên
ngân hàng và kỷ luật thị trường trong cuộc khủng hoảng tài chính. Tác giả phân tích các
yếu tố quyết định hành vi cho vay các công ty con nước ngoài và quy luật thị trường giữa
các quốc gia bằng cách thêm vào giai đoạn trước khủng hoảng trong nghiên cứu của tác
giả.
Sử dụng một mẫu của 51 ngân hàng đa quốc gia với 269 công ty con nước ngoài, tác giả
quan sát thấy rằng các công ty con phụ thuộc vào vay vốn và đồng thời có ngân hàng mẹ
đã cho vay trên thị trường liên ngân hàng có thể tăng cho vay trong giai đoạn trước khủng
hoảng. Vì vậy, chúng ta có thể giả định rằng ngân hàng mẹ đang cho vay đối với các
công ty con của họ, điều này thúc đẩy tăng trưởng tín dụng ở nước ngoài. Tuy nhiên,
trong cuộc khủng hoảng, tình hình của các công ty con thay đổi đáng kể do cuộc khủng
hoảng thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng và sự suy thoái của tình hình tài chính
của nhiều ngân hàng mẹ. Kênh tài trợ cho các công ty con nước ngoài có thể cũng đã thay
đổi. Tác giả cho rằng các công ty con phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng sẽ cố gắng
để tăng sự tiếp cận của họ cho huy động tiền gửi trong cuộc khủng hoảng, đặc biệt là
những công ty con mà có các ngân hàng mẹ không thể hỗ trợ do vấn đề tài chính trong
các thị trường. Kết quả của tác giả cho thấy rằng các công ty con phụ thuộc vào thị
trường liên ngân hàng đã thay đổi chiến lược tài trợ trong giai đoạn khủng hoảng. Tuy
nhiên, những thay đổi này không được hiểu là sự tăng trưởng đáng kể của các khoản tiền
gửi. Điều này có thể giải thích tại sao các công ty con giảm đáng kể nguồn cung cấp tín

dụng của họ trong cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, tác giả không thể chứng minh rằng
biến cấp ngân hàng mẹ và biến cấp công ty con quyết định sự tăng trưởng của các khoản
tiền gửi hoặc chi phí lãi suất trong cuộc khủng hoảng. Do đó, tác giả đã không tìm thấy
bất kỳ bằng chứng cho quy luật thị trường. Ngược lại, tác giả thấy rằng giá trị vốn hóa
của ngân hàng mẹ và các công ty con của họ có thể giải thích sự tăng trưởng cho vay của
các công ty con trong cuộc khủng hoảng. Tác giả tìm thấy một số bằng chứng ủng hộ giả
định rằng những nguyên tắc cơ bản của ngân hàng mẹ có thể xác định tăng trưởng tín
dụng của các công ty con trong cuộc khủng hoảng.
Bài nghiên cứu của tác giả góp phần vào việc nghiên cứu thực nghiệm về tác động của
cuộc khủng hoảng gần đây đối với các ngân hàng nước ngoài tại nước sở tại theo ba cách.
Đầu tiên, chúng ta mở rộng nghiên cứu hiện có trên thị trường vốn nội bộ bằng cách bao
gồm sự phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng như là một ủy nhiệm cho độ tin cậy của
các công ty con vào ngân hàng mẹ. Tác giả mong muốn nắm bắt được một phần đáng kể
2
các giao dịch trong nhóm bằng cách bao gồm các hoạt động liên ngân hàng của công ty
con cũng như ngân hàng mẹ. Thứ hai, tác giả phân tích những thay đổi trong chính sách
tiền gửi của các ngân hàng nước ngoài. Đây là nghiên cứu đầu tiên điều tra vai trò của
quy luật thị trường trong bối cảnh truyền dẫn quốc tế. Ivashina và Scharfstein (2010)
quan sát thấy rằng tiếp cận với các khoản tiền gửi xác định hành vi cho vay của các ngân
hàng trong cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, Allen và cộng sự. (2013) đã chứng minh rằng
các khoản tiền gửi ngân hàng nước ngoài cũng như các khoản tiền gửi trong nhóm là một
phần quan trọng trong các giao dịch thị trường vốn nội bộ trong các công ty đa quốc gia
nắm giữ ngân hàng trong cuộc khủng hoảng gần đây. Thứ ba, tác giả ghi nhận rằng sự
nhạy cảm của thị trường cho vay và quy luật thị trường có thể phụ thuộc vào một số yếu
tố, chẳng hạn như đánh giá của ngân hàng mẹ, quyền sở hữu.
Phần còn lại của bài nghiên cứu được có bố cục như sau. Trong phần 2, tác giả xem xét
các tài liệu hiện có và trình bày các giả thuyết. Trong phần 3, tác giả trình bày phương
pháp thực nghiệm, và trong phần sau, tác giả mô tả dữ liệu. Phần 5 trình bày các kết quả
của cuộc điều tra về tác động của các hoạt động tài chính của ngân hàng mẹ về việc cung
cấp các khoản cho vay và thu tiền đặt cọc của các công ty con. Phần 6 kết luận bài nghiên

cứu.
2. Tài liệu nghiên cứu và giả thuyết
Nghiên cứu của tác giả rút ra từ hai phần khác nhau của một giả thuyết. Phần đầu tiên là
liên quan đến sự tác động của các cú shock tài chính và xem xét tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính trong đất nước của ngân hàng mẹ ảnh hưởng như thế nào đến việc cho
vay của công ty con nước ngoài của nó. Peek và Rosengren (1997) đã kiểm định sự sụp
đổ của giá tài sản tại Nhật Bản trong năm 1990 ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của
công ty con Ngân hàng Nhật Bản ở nước ngoài. Họ quan sát thấy rằng một mức giảm tỷ
lệ vốn rủi ro của ngân hàng mẹ chuyển thành suy giảm đáng kể trong tổng dư nợ của các
ngân hàng con tại Mỹ. Phù hợp với bằng chứng này, De Haas và van Lelyveld (2006) đã
chứng minh rằng tình hình tài chính của ngân hàng mẹ tác động khả năng tăng trưởng tín
dụng của các ngân hàng con ở các quốc gia Trung và Đông Âu (CEE).
Trong một bài báo sau đó, De Haas và van Lelyveld (2010) cung cấp bằng chứng bổ sung
cho sự tồn tại của thị trường vốn nội bộ trong tổ chức ngân hàng đa quốc gia. Họ ghi
nhận rằng cho vay của công ty con ngân hàng nước ngoài phụ thuộc vào sức mạnh tài
chính của ngân hàng mẹ. tác giả hợp thức hóa những phát hiện trong giả thuyết sau đây:
Giả thuyết 1: Trong cuộc khủng hoảng, tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng con
phản ánh sức mạnh tài chính của ngân hàng mẹ. Một mặt, sức mạnh và tài chính ngân
hàng mẹhỗ trợ các công ty con tăng trưởng hoạt động, điều này có thể giải thích sự lơ là
của ngân hàng nước ngoài đối với việc cho vay trong cuộc khủng hoảng ở nước sở tại.
3
Mặt khác, Cetorelli và Goldberg (2012) đã chứng minh rằng ngân hàng mẹ bị ảnh hưởng
bởi một cú sốc kinh phí phân bổ lại tính thanh khoản trong tổ chức theo một trật tự trong
địa điểm. điều quan trong đối với các ngân hàng con là ngân hàng phân bổ lại tính thanh
khoản, và chức năng truyền thống này được sử dụng rộng rãi hơn để đệm những cú sốc
nhằm cân đối số dư của ngân hàng mẹ.
Jeon et al. (2013) tìm thấy bằng chứng cho thấy việc tác động những cú sốc tài chính
khác nhau bằng các loại những cú sốc trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Họ đã
chứng minh rằng có sự truyền tải những cú sốc tài chính mạnh nhất trong số các công ty
con ngân hàng nước ngoài ở các nước CEE tiếp theo ở châu Á và Châu Mỹ La Tinh.

Tương tự như vậy Cull và Martínez Pería (2013) báo cáo các ngân hàng nước ngoài cắt
giảm việc cho vay nhanh hơn đáng kể ở Đông Âu hơn là Mỹ Latinh; họ giải thích những
khác biệt này dựa trên các loại của các ngân hàng nước ngoài. Ở Mỹ Latinh, ngân hàng
nước ngoài được hưởng độc lập đáng kể từ ngân hàng mẹ và, do đó, tài trợ cho hầu hết
các hoạt động của mình với các khoản tiền gửi của địa phương. Ngược lại, ở Đông Âu,
các ngân hàng nước ngoài có xu hướng tập trung quản lý; do đó, họ dựa nhiều hơn vào
vốn ngân hàng mẹ. Ngoài ra, Ivashina và Scharfstein (2010) quan sát thấy rằng trong Mỹ,
các ngân hàng trong và ngoài nước có thể tiếp cận một cơ sở tiền gửi , chi phí cho vay
giảm hơn đáng mà không cần tiếp cận nguồn tiền gởi chung như họ từng làm. Họ lập
luận rằng ngân hàng với một cơ sở lớn và ổn định của tiền gửi ít phụ thuộc trên thị trường
tài chính nợ ngắn hạn và do đó, ít creditconstrained. Do đó, sự suy giảm lượng cho vay
trong công ty con ngân hàng nước ngoài cũng có thể là do chiến lược tài trợ. dựa trên
khẳng định này, tác giả xây dựng một giả thuyết thứ hai: Giả thuyết 2 Trong cuộc khủng
hoảng, sự suy giảm tín dụng mạnh hơn
Giả thuyết 2 Trong cuộc khủng hoảng, sự suy giảm tín dụng đã mạnh mẽ đối với các
công ty con ngân hàng nước ngoài chịu phụ thuộc vào nhu cầu vốn liên ngân hàng.
Phần thứ 2 của giả thuyết có liên quan đến kỷ luật thị trường. Nghiên cứu của tác giả
nhằm mục đích để kiểm tra xem các tài chính ngân hàng mẹ và sự phụ thuộc của các
công ty con trên thị trường liên ngân hàng ảnh hưởng đến mức tiền gửi của các công ty
con như thế nào. Hiện có bằng chứng về tác động của cuộc khủng hoảng về mức độ
người gửi tiền là không thuyết phục. Một mặt, Martinez Peria và Schmukler (2001) phát
hiện ra rằng độ nhạy của tốc độ tăng trưởng tiền gửi và chi phí lãi suất các biện pháp rủi
ro ngân hàng tăng ở châu Mỹ Latinh trong thời kỳ hậu khủng hoảng. Họ đã chứng minh
rằng lượng tiền gửi tương quan âm và chi phí lãi suất huy động đang tích cực tương quan
với các biện pháp kế toán rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, họ ghi nhận rằng bảo hiểm tiền
gửi không làm giảm bớt mức độ kỷ luật thị trường. Hơn nữa, Oliveira et al. (2014) quan
4
sát thấy rằng trong cuộc khủng hoảng gần đây, một số ngân hàng Brazil được coi là hợp
phần quan trọng của hệ thống tài chính và ghi nhận mức tăng đáng kể trong các khoản
tiền gửi được bảo hiểm, trong khi các ngân hàng Brazil khác bị mất tiền gửi không được

bảo hiểm. Mặt khác, Levy-Yeyati et al. (2010) quan sát thấy rằng sự nhạy cảm của người
gửi tiền đến các rủi ro kinh tế vĩ mô tăng lên trong thời kỳ khủng hoảng ở châu Mỹ
Latinh. Tuy nhiên, sự nhạy cảm của người gửi tiền đến các yếu tố cụ thể ngân hàng đặc
hiệu giảm bớt. Hosono (2005) đã không xác nhận sự thay đổi này, được gọi là hiệu ứng
đánh wake- up- call. Hosono (2005) ghi nhận rằng sự nhạy cảm của lượng tiền gửi và chi
phí lãi suất cơ bản của ngân hàng để thực sự giảm ở Nam Á sau năm 1998 Cuối cùng,
Forssbæck (2011) tìm thấy bằng chứng của yếu tố thị trường trong thời kỳ khủng hoảng.
Vì vậy, hầu hết các nghiên cứu quan sát thấy rằng người gửi tiền hiện mức độ nhạy cảm
khá thấp với nguyên tắc cơ bản của ngân hàng trong khủng hoảng. Trong một nghiên cứu
gần đây , tuy nhiên, Hasan et al. (2013) khẳng định rằng các biện pháp kế toán rủi ro cụ
thễ không làm thay đổi sự nhạy cảm của tăng trưởng tiền gửi trong các cuộc khủng hoảng
gần đây. Tuy nhiên, họ đã tìm thấy rằng quyếtđịnh của người gửi tiền đã ảnh hưởng mạnh
mẽ hơn bởiđiều kiện của ngân hàng mẹ hơn là nguyên tắc cơ bản của nó. Dựa trên những
phát hiện này, tác giả xây dựng các giả thuyết thứ ba.
Giả thuyết 3 Trong cuộc khủng hoảng gần đây, hành vi của người gửi tiền vào ngân
hàng con chụiảnh hưởng mạnh mẽ bởi cácđiều kiện của ngân hàng mẹ.
Vấn đề tài chính của ngân hàng mẹ có thểảnh hưởng đến việc tài trợ của các ngân hàng
con ở nước ngoài. Một báo cáo đặc biệt của Fitch (2009) thay đổi tài liệu trong chiến
lược tài trợ tại ngân hàng mẹ; đồng thời, chịu trách nhiệm nhiều hơn cho số tiền gửi đã
được giao cho các ngân hàng con ở các nước đang phát triển.
Do đó, ngân hàng mẹ là vòng rào nước ngoài cho các ngân hàng con bằng cách giảm
nguồn tài trợ sẵn có của mình. Do đó, tác giả có thể cho rằng vấn đề tài chính của ngân
hàng mẹ 'có thể đã bị ảnh hưởng tiêu cực đến mức tiền gửi của các công ty con. Tuy
nhiên, tác giả cũng có thể cho rằng những ngân hàng con mà phụ thuộc rất nhiều trên thị
trường liên ngân hàng trước khi cuộc khủng hoảng đang cạnh tranh mạnh mẽ đối với tiền
gửi mới, kết quả là chi phí lãi suất cao hơn.
Dựa trên nhận định này, tác giả xây dựng giả thuyết cuối cùng của tác giả:
Giả thuyết 4 Trong cuộc khủng hoảng gần đây, sự gia tăng trong tiền gởi hoặc chi phí
lãi suất là mạnh mẽ hơn cho các ngân hàng con nước ngoài là phụ thuộc vào nguồn tài trợ
liên ngân hàng.

5
Tác giả kiểm tra những giả thuyết này bằng cách kiểm tra các hành vi cho vay của các
công ty con nước ngoài trong giai đoạn 1990-2011, trong đó bao gồm cuộc khủng hoảng
toàn cầu gần đây. Tác giả tin rằng sự kiện này cung cấp một cơ hội duy nhất để kiểm tra
vấn đề này do quy mô và lây lan ảnh hưởng của nó. Hơn nữa, sau Ivashina và Scharfstein
(2010), tác giả mở rộng nghiên cứu hiện có bằng cách điều tra một kênh tiềm năng, chiến
lược tài trợ các công ty con và thị trường tiền gửi. Vì vậy, lý thuyết nghiên cứu của chúng
gầnđây góp phần làm sụt giảm sự dẫn truyền của cú shock tài chính bằng cách tập trung
vào các hoạt động tín dụng và huy động của công ty con ngân hàng nước ngoài như hai
kênh tiềm năng của truyền cú sốc tài chính trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
2. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu sự truyền dẫn quốc tế của những cú sốc thanh khoản từ ngân hàng đa
quốc gia nắm giữ công ty đến công ty con của họ trong cuộc khủng hoảng tài chính năm
2008.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu các kênh cho vay, tác giả đi theo một cách tiếp cận tương tự như những gì
đã được sử dụng bởi De Haas và van Lelyveld (2010), trong khi tác giả đã kiểm tra kỷ
luật thị trường bằng cách áp dụng các phương pháp được sử dụng trong Martinez Peria và
Schmukler (2001). Nghiên cứu của tác giả khác với các nghiên cứu trước, trong đó tác
giả bao gồm vai trò của sự phụ thuộc thị trường liên ngân hàng, và tác giả đã mở rộng
phân tích bằng cách bao gồm thêm vào các biến kiểm soát bổ sung cho các công ty con
và ngân hàng mẹ trong việc phân tích độ nhạy. Hơn nữa, thời gian nghiên cứu của tác giả
bao gồm cuộc khủng hoảng toàn cầu, mà tác giả tìm thấy là quan trọng trong việc đánh
giá mối quan hệ giữa ngân hàng mẹ và các công ty con của họ.
3.1.Mô hình thực nghiệm để nghiên cứu các kênh cho vay
Tác giả bắt đầu cuộc điều tra bằng cách kiểm tra mối liên hệ giữa việc cung cấp tín dụng
của công ty con nước ngoài và sức khỏe tài chính của ngân hàng mẹ (H1). Tiếp theo, tác
giả đã cố gắng để xác định liệu sự phụ thuộc trên thị trường liên ngân hàng quyết định
mức cho vay của họ trong cuộc khủng hoảng. Tác giả sử dụng một mô hình giải thích sự

thay đổi hàng năm trong các khoản vay đối với toàn bộ khoản phi tài chính (cho vay), đó
là sự chênh lệch đầu tiên của loga của tổng dư nợ thực tế của một công ty con, công ty
con đang sử dụng và đặc điểm ngân hàng mẹ cũng như các biến nước chủ nhà .
∆ Loan
i, t

i
+ β
1
S
i, t-1
+ β
2
P
i, t-1
+ β
3
l
i, t-1
+ β
4
C
i, t-1
+ ∈
it
(1)
∆Loan
i, t
là tốc độ tăng trưởng thực sự của tổng dư nợ của các công ty con i trong năm t;
S là một ma trận của các kiểm soát đối với các đặc điểm công ty con ngân hàng nước

ngoài; P là một ma trận của các đặc điểm của ngân hàng mẹ của công ty con; l là một
biến ảnh hưởng ảnh hưởng công ty con và các ngân hàng mẹ biệt của tình hình trên thị
6
trường liên ngân hàng; và C là một ma trận của các biến số kinh tế vĩ mô của một nước
nơi công ty con i tọa lạc.
3.2. Mô hình thực nghiệm để nghiên cứu kỷ luật thị trường
Tiếp theo, tác giả tập trung vào các nguyên tắc thị trường và kiểm tra xem liệu các đặc
điểm của một công ty con ngân hàng nước ngoài và công ty mẹ của nó có thể giải thích
hành vi của tăng trưởng huy động và chi phí lãi suất (H3). Trong hồi quy sau đây, tác giả
sử dụng tăng trưởng huy động thực tế, đó là định nghĩa là sự chênh lệch đầu tiên của loga
của tổng số tiền gửi từ các tổ chức phi tài chính (tiền gửi). Tác giả kỳ vọng một mối quan
hệ tích cực giữa các nguyên tắc cơ bản của công ty con và ngân hàng mẹ và tăng trưởng
tiền gửi kể bởi vì tác giả dự kiến người gửi tiền trừng phạt tổ chức ngân hàng gây ra rủi
ro quá mức trong một cuộc khủng hoảng bằng cách rút tiền tiết kiệm của họ. Tiếp theo,
tác giả đã cố gắng để xác định xem liệu các vị thế liên ngân hàng của các công ty con có
quyết định chi phí lãi suất của họ trong cuộc khủng hoảng (H4). Tác giả hy vọng rằng
trong một cuộc khủng hoảng, các công ty con mà là phụ thuộc vào nguồn vốn liên ngân
hàng sẽ cố gắng để thu hút tiền gửi bổ sung, và họ có thể đưa ra mức lãi suất cao hơn để
làm như vậy. Hơn nữa, người gửi tiền cũng có thể tạo áp lực các ngân hàng bởi lãi suất
cao hơn trong giai đoạn khủng hoảng. Do đó, tác giả sử dụng một biến phụ thuộc thứ hai,
lãi suất, được tính bằng cách chia tổng chi phí lãi suất cho các khoản tiền gửi có lãi suất
tổng.
Tác giả sử dụng mô hình sau đây để kiểm tra sự tồn tại của kỷ luật thị trường liên quan
đến việc truyền dẫn những cú sốc tài chính:
MD
i, t
= α
i
+ β
1

S
i, t-1
+ β
3
P
i, t-1
+ β
3
I
i, t-1
+ β
3
C
i, t-1
+ ∈
it
(2)
Để giải thích nguyên tắc thị trường, tác giả sử dụng một bộ tương tự của các biến cho các
công ty nước ngoài và ngân hàng mẹ như đã được sử dụng trong hồi quy trước. Kỷ luật
thị trường (MD) được xác định bởi Tiền gửi và Lãi suất của công ty con i trong thời
gian t.
Các thông số mô hình được ước tính bằng cách sử dụng mô hình (GMM-SYS)
được đề xuất bởi Blundell và Bond (1998). So với mô hình ước lượng mảng điều khiển
khác (chẳng hạn như ước lượng hiệu ứng cố định hoặc các hiệu ứng ngẫu nhiên), thì
GMM-SYS cho phép tác giả để loại bỏ các nghiêm ngặt giả định cho hồi quy. Tác giả sử
dụng các đặc tính của một công ty con liên ngân hàng và vị thế của nó như là biến công
cụ. Biến hồi quy khác, bao gồm cả các biến mô tả các nguyên tắc cơ bản của công ty mẹ
và các biến kiểm soát kinh tế vĩ mô, đã được coi là ngoại sinh.
Tác giả dựa trên suy luận thống kê của tác giả về tầm quan trọng yếu của các thông số
trên ước lượng một bước, như mô phỏng thực hiện bởi Arellano và Bond (1991) và

Blundell và Bond (1998) cho rằng các sai số chuẩn tiệm cận cho ước lượng hai bước có
thể là một hướng dẫn người nghèo nàn để thử nghiệm giả thuyết, đặc biệt là khi có các
7
thành phần lỗi heteroscedastic. Ngoài ra, tất cả các hồi quy được điều chỉnh cho các lỗi
mẫu nhỏ (Roodman, 2009).
Sự phù hợp của các tập hợp các công cụ được chính thức đưa ra bằng cách sử
dụng thử nghiệm Sargan về giới hạn nhận biết và thử nghiệm Arellano-Bond cho sai số
tự tương quan. Tác giả tính toán kiểm tra bằng cách sử dụng hai bước GMM-SYS ước
lượng bởi vì khi thử nghiệm Sargan dựa trên ước lượng một bước thì không phù hợp
(Arellano và Bond, 1991). Đối với tất cả các mô hình thảo luận trong phần 5, thử nghiệm
Sargan và Arellano-Bond AR (2) cho thấy công cụ của tác giả là phù hợp và rằng không
có chuỗi tương quan bậc 2 được phát hiện, một cách tương ứng. Trong tất cả các hồi quy,
các biến độc lập thì có ý nghĩa ở mức dưới 1% .
4. Dữ liệu
Các mẫu sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm các ngân hàng đa quốc gia và các
công ty con nước ngoài của họ. Tác giả lựa chọn các ngân hàng đa quốc gia sử dụng một
bảng xếp hạng được công bố bởi tạp chí Banker và tập trung vào 150 ngân hàng lớn nhất
trong danh sách này năm 2008. Tác giả lấy dữ liệu tài chính và thông tin về quyền sở hữu
của công ty con từ cơ sở dữ liệu BankScope. Tác giả loại trừ các ngân hàng đa quốc gia
mà không có công ty con nước ngoài và những ngân hàng mà tác giả không thể lấy dữ
liệu cho một trong hai ngân hàng hoặc công ty con nước ngoài của mình. Quá trình này
dẫn đến một mẫu của 51 ngân hàng đa quốc gia từ 20 quốc gia phát triển và các công ty
con nước ngoài (269). Tác giả tập trung vào các công ty con chứ không phải là chi nhánh
vì hai lý do: thứ nhất, tác giả chủ yếu quan tâm đến ảnh hưởng đến một liên kết độc lập
về mặt pháp lý; thứ hai, dữ liệu tài chính đối với công ty con không có sẵn. Để xác định
việc tác động những cú sốc tài chính giữa các quốc gia, tác giả loại trừ các công ty con
mà được đặt trong cùng một quốc gia với ngân hàng mẹ. Hơn nữa, tác giả loại trừ các
công ty con đặt tại các trung tâm tài chính nước ngoài bởi vì hầu hết các công ty con này
là trung tâm tiền tệ và không cung cấp dịch vụ tín dụng và tiền gửi thường xuyên cho các
tổ chức phi tài chính ở nước sở tại.

Tác giả sử dụng dữ liệu tài chính chưa hợp nhất của các ngân hàng đa quốc gia và
hợp nhất báo cáo của các công ty con nước ngoài. Dữ liệu của tác giả bao gồm giai đoạn
từ năm 1990 đến năm 2011 Tuy nhiên, danh sách báo cáo là không cân bằng do thiếu
thông tin cho một số công ty mẹ hoặc các công ty con theo thời gian. Các dữ liệu bị thiếu
chủ yếu là do: (a) sự khác biệt giữa các quốc gia báo cáo hoặc (b) sáp nhập và mua lại và
/ hoặc thoái vốn của công ty con ngân hàng nước ngoài từ các ngân hàng mẹ. Tuy nhiên,
để tránh tồn tại sự thiên vị, tác giả kiểm soát hiệu ứng này và không loại trừ các ngân
hàng cho những lý do này. Bảng A1 và A2 trong phụ lục trình bày danh sách các ngân
hàng mẹ, số lượng các công ty con cho từng ngân hàng đa quốc gia, và danh sách các
quốc gia mà các công ty con nước ngoài trong mẫu được đặt tại đó.
8
4.1 Định nghĩa biến
Tác giả thiết lập các biến ngân hàng cho các công ty con nước ngoài (lập chỉ mục
với s) và ngân hàng mẹ (lập chỉ mục với p). Quy định rủi ro tín dụng đối với doanh thu
lãi ròng (Loan loss) đo độ nhạy của một ngân hàng gia tăng quy định rủi ro tín dụng chỉ
tăng dự kiến trong các khoản nợ xấu trong danh mục đầu tư của ngân hàng. Do đó, tác
giả dự kiến (Loan Loss) có mối tương quan nghịch chiều đến cung cấp tín dụng và tăng
trưởng huy động khi chúng ta cho rằng người gửi tiền kiểm soát được rủi ro ngân hàng.
Kể từ khi trích lập dự phòng tùy ý, tác giả lại ước tính mô hình với một biện pháp phù
hợp hơn, nợ xấu trên tổng nợ (Nonperforming Loans to Total Loans)
(2)
. Tuy nhiên, do sự
khác biệt giữa các quốc gia, thông tin này là không có sẵn cho một số ngân hàng, và số
lượng các quan sát giảm khoảng hai phần ba của mẫu ban đầu. Vì vậy, tác giả chỉ đưa
vào biến này trong phân tích thô
Tỷ suất sinh lợi trên vốn cao (ROE) và cơ sở vốn vững chắc (Equity) của một
công ty con nước ngoài cũng liên quan tích cực đến tăng trưởng tín dụng. Ngoài ra, nếu
người gửi tiền quan tâm đến sự gia tăng rủi ro ngân hàng trong hệ thống tài chính, lợi
nhuận và vốn chủ sở hữu cao hơn sẽ dẫn đến mức tiền gửi tăng lên. Tác giả đưa vào các
biến (Size) đặc trưng chỉ có ở công ty con, được tính như tỷ lệ tài sản của một ngân hàng

nước ngoài trên GDP của quốc gia nơi công ty con được cấp phép. Tác giả dự kiến các
công ty con nhỏ hơn sẽ có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn nhưng tăng trưởng huy
động thấp hơn
Cuối cùng, tác giả đưa vào biến Interbank, đánh giá sự khác nhau giữa các công
ty con và ngân hàng mẹ. InterbankS đã được xác định cho các công ty nước ngoài là tỷ lệ
giữa vay liên ngân hàng và tổng tài sản trong khi InterbankP đã được xác định cho các
ngân hàng mẹ là tỷ lệ cho vay liên ngân hàng với tổng tài sản. Các biến InterbankS thể
hiện sự phụ thuộc của các công ty con vào nguồn vốn liên ngân hàng, mà tác giả cho rằng
các phần vốn chính của các công ty con được lấy từ ngân hàng mẹ. Ngược lại, tỷ lệ
InterbankP là một đại diện cho ý chí của một ngân hàng mẹ hỗ trợ các hoạt động đối
ngoại của mình ở nước ngoài và được dựa trên giả định tương tự liên quan đến nguồn vốn
của các công ty con.
Theo Afonso et al. (2011) và Angelini et al. (2011), thị trường liên ngân hàng
được đặc trưng bởi các kỳ hạn ngắn hạn và không có khả năng hoạt động trong thời kỳ
khủng hoảng. Vì vậy, thiếu các công ty con nước ngoài tiếp cận thị trường liên ngân hàng
nên ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng tín dụng. Do cuộc khủng hoảng thanh khoản trên
thị trường liên ngân hàng, tác giả giả định rằng một công ty con có thể quan tâm tốc độ
tăng trưởng tiền gửi. Ngoài ra, tác giả tin rằng một phần đáng kể của các khoản vay liên
ngân hàng nằm trong các giao dịch tập đoàn, mà tác giả có nhu cầu muốn nắm bắt mức
độ bằng cách điều tra tỷ lệ cho vay công ty mẹ và công ty con vay trên thị trường liên
9
ngân hàng. Thật không may, dữ liệu về giao dịch tập đoàn tương đối khan hiếm ở các cơ
sở dữ liệu BankScope. Do đó, tác giả thu thập dữ liệu về giao dịch tập đoàn từ các báo
cáo hàng năm của một trong những ngân hàng đa quốc gia trong mẫu của tác giả,
Unicredit, trong đó có 20 công ty con nước ngoài. Bảng 1 trình bày các dữ liệu về vị trí
liên ngân hàng của UniCredit và trung bình cho 20 công ty con của nó liên quan đến các
giao dịch tập đoàn trong 2005-2012. Các dữ liệu xác nhận rằng đối với một số công ty
con, hình thức giao dịch tập đoàn tạo thành một tỷ lệ đáng kể các khoản nợ trên thị
trường liên ngân hàng. Hơn nữa, một phần đáng kể cho vay liên ngân hàng của ngân
hàng mẹ liên quan đến cung cấp hỗ trợ cho các cty con nước ngoài. Dựa trên những dữ

liệu này, tác giả cho rằng các giao dịch liên ngân hàng là một đại diện tốt cho sự phụ
thuộc của ngân hàng mẹ vào các công ty con và ngược lại.
Tuy nhiên, các dữ liệu cũng cho thấy, cho vay liên ngân hàng của ngân hàng mẹ
giảm đáng kể như là kết quả của cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Hơn nữa, vị trí liên
ngân hàng ròng của ngân hàng mẹ đã thay đổi từ người cho vay ròng sang đi vay ròng
sau cuộc khủng hoảng mà chúng ta gán cho vấn đề tài chính của ngân hàng và những
thay đổi trên thị trường liên ngân hàng. Trong khi tình hình của các công ty con không
thay đổi đáng kể và họ vẫn vay ròng trên thị trường liên ngân hàng, vị trí của họ giảm
đáng kể trong năm 2009. Do đó, tác giả dự kiến các công ty con mà ít phụ thuộc vào thị
trường liên ngân hàng là ít bị ảnh hưởng bởi các vấn đề của ngân hàng mẹ, đặc biệt là
trong thời kỳ khủng hoảng. Tác giả ước tính sự phụ thuộc của các công ty con trên thị
trường liên ngân hàng bằng cách sử dụng một biến giả D_InterbankS, trong đó có giá trị
1 nếu công ty con là một người vay ròng trên thị trường liên ngân hàng và 0 nếu ngược
lại. Ngược lại, tác giả sử dụng một biến giả D_InterbankP cho vị trí liên ngân hàng của
ngân hàng mẹ, có giá trị 1 nếu ngân hàng là cho vay ròng trên thị trường liên ngân hàng
và 0 nếu ngược lại. Như đã thảo luận trước đó, tác giả cho rằng ngân hàng mẹ hỗ trợ các
công ty con của họ thông qua thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra, tương tác hai biến giả
này để xét xem liệu khối lượng cho vay hoặc khối lượng tiền gửi của công ty con là nhạy
cảm với nợ liên ngân hàng của nó hay tùy thuộc vào khả năng của ngân hàng mẹ cho vay
trên thị trường liên ngân hàng.
10
Cuối cùng, tác giả sử dụng tăng trưởng GDP là biến kinh tế vĩ mô cho thấy sức
hấp dẫn của việc mở rộng tín dụng trong một quốc gia cụ thể. Albertazzi và Gambacorta
(2009) đã chứng minh rằng các chu kỳ kinh tế ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng
thông qua thu nhập lãi thuần (thông qua hoạt động cho vay) và các quy định rủi ro tín
dụng (thông qua chất lượng danh mục đầu tư tín dụng). Tác giả dự kiến lợi nhuận ngân
hàng sẽ liên quan tích cực và mạnh mẽ đến tăng trưởng GDP. Để xác định cung cấp tín
dụng trong một cuộc khủng hoảng ngân hàng trong khi kiểm soát một cách thích hợp các
điều kiện theo yêu cầu, biện pháp đáng tin cậy hơn sẽ cần phải được sử dụng. Tuy nhiên,
các chỉ số như vậy rất khó để tìm thấy.

Bảng 2 liệt kê các định nghĩa biến và Bảng 3 tóm tắt các số liệu thống kê cho các
biến chính được sử dụng trong phân tích. Một bảng điều khiển của Bảng 3 trình bày số
liệu thống kê mô tả cho các biến chính. Tác giả quan sát thấy sự thay đổi đáng kể trong
sự tăng trưởng tín dụng và tiền gửi của công ty con nước ngoài. Hơn nữa, dữ liệu cho
thấy sự khác biệt đáng kể trong lãi suất của các công ty con. Tác giả thấy rằng ngân hàng
mẹ báo cáo lợi nhuận thấp hơn so với các công ty con của họ. Lợi nhuận thấp hơn này có
thể được giải thích bởi thực tế là ngân hàng mẹ báo cáo tỷ lệ khả năng thanh toán cao hơn
so với các công ty con. Theo dự kiến, tác giả quan sát thấy rằng ngân hàng mẹ là tích cực
hơn trên thị trường liên ngân hàng so với các công ty con.
11
Bảng B của Bảng 3 cho thấy mối tương quan giữa các biến chính được sử dụng trong
nghiên cứu của tác giả. Các kết quả này phù hợp với tư duy kinh tế. Tác giả quan sát thấy
rằng tăng trưởng tín dụng có tương quan dương với ROE của công ty con và tương quan
âm với rủi ro tín dụng và các biến liên ngân hàng. Ngược lại, tăng trưởng huy động tỷ lệ
nghịch với lợi nhuận ngân hàng. Phù hợp với kỳ vọng của tác giả, tác giả thấy rằng tỉ lệ
huy động có tương quan âm với ROE công ty con. Cuối cùng, lợi nhuận của ngân hàng
mẹ là tương quan dương với tăng trưởng cho vay và tỉ lê lãi suất của công ty con, trong
khi tăng trưởng huy động tương quan âm với yếu tố này.
12
5. Kết quả
Trong phần này, chúng ta xem xét các tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu đối với hoạt động cho vay và huy động của công ty con ngân hàng nước ngoài. Đầu
tiên, tác giả trình bày các tác động của các cú sốc trong nước đến hoạt động cho vay của
công ty con nước ngoài. Thứ hai, tác giả tiến hành phân tích độ nhạy, trong đó tác giả sử
dụng các biến điều khiển bổ sung cho các công ty con cũng như ngân hàng mẹ. Tiếp theo,
tác giả điều tra xem liệu các nguyên tắc thị trường của các công ty con nước ngoài có bị
ảnh hưởng bởi tình hình tài chính của ngân hàng mẹ, mà theo sau bởi một phân tích độ
nhạy khác.
5.1. Kênh cho vay
Bảng 4 báo cáo những phát hiện liên quan đến sự thay đổi trong các khoản vay của

công ty con ngân hàng nước ngoài. Trong ba thông số kỹ thuật đầu tiên, tác giả trình bày
các kết quả cho giai đoạn 1990 -2011. 3 Thông số kỹ thuật (4) - (6) hiển thị các kết quả
cho tăng trưởng tín dụng của các công ty con trước cuộc khủng hoảng, trong khi thông số
kỹ thuật (7) - (9) trình bày các yếu tố quyết định tăng trưởng tín dụng trong cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
Các kết quả chỉ có một phần chấp nhận H1, trong đó nói rằng nguồn cung cấp tín
dụng của một công ty con được xác định bởi tình hình tài chính của ngân hàng mẹ của
nó, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng. Kết quả cho thấy rằng trước khủng hoảng tài
chính toàn cầu, khoản vay của công ty con nước ngoài được xác định bằng lợi nhuận của
ngân hàng mẹ. Trong thông số (2) - (6), hệ số ROEP là tích cực và đáng kể. Tuy nhiên,
trong cuộc khủng hoảng, lợi nhuận của ngân hàng mẹ giảm đi, được chỉ ra bởi hệ số
ROEP trong ba thông số kỹ thuật cuối cùng. Mặt khác, tác giả thấy rằng các công ty con
và ngân hàng mẹ có vốn hóa tốt hơn tạo điều kiện tăng trưởng tín dụng cao hơn cho các
công ty con trong cuộc khủng hoảng, đó là phù hợp với Peek và Rosengren (1997). Trong
khi các hệ số EquityS và EquityP tích cực và có nghĩa trong hầu hết các thông số trong
giai đoạn khủng hoảng, tác giả không tìm thấy bất kỳ bằng chứng cho rằng vốn là rất
quan trọng trong suốt cuộc khủng hoảng. Những kết quả này có thể được giải thích bởi sự
13
suy giảm của vốn chủ sở hữu công ty con và ngân hàng mẹ của họ do sự gia tăng thiệt hại
trong cuộc khủng hoảng, trong đó ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn cung cấp tín dụng của
các công ty con. Như vậy, kết quả chỉ có một phần hỗ trợ cho giả thuyết rằng tình hình tài
chính của ngân hàng mẹ xác định tăng trưởng tín dụng của các công ty con trong giai
đoạn khủng hoảng (H1).
Ngược lại, tác giả tìm thấy bằng chứng thuyết phục cho giả thuyết rằng sự phụ
thuộc của các công ty con vay liên ngân hàng và giảm cho vay liên ngân hàng của ngân
hàng mẹ đã dẫn đến sự sụt giảm tăng trưởng tín dụng trong suốt cuộc khủng hoảng (H2).
Kết quả cho thấy những phần nợ liên ngân hàng của công ty con có tương quan âm đến
tăng trưởng tín dụng của nó trong tất cả các thông số. Tuy nhiên, hệ số của InterbankS có
ý nghĩa ở mức 5% chỉ trong giai đoạn khủng hoảng. Như vậy, kết quả cho thấy các công
ty con chủ yếu vay qua thị trường liên ngân hàng thì giảm cho vay trong cuộc khủng

hoảng. Ngược lại, chúng ta thấy rằng hệ số InterbankP là tích cực và có ý nghĩa thống kê
ở mức 1% cho trước và trong cuộc khủng hoảng. Kết quả cho thấy các ngân hàng mẹ "tài
trợ thúc đẩy các công ty con của họ tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn trước khủng
hoảng. Tuy nhiên, mặc dù hệ số InterbankP có dấu hiệu thay đổi, nó không thay đổi đáng
kể trong giai đoạn khủng hoảng. Tác giả cũng tương tác D_InterbankS * D_InterbankP
để mở rộng hay không phụ thuộc của một công ty con vào nguồn vốn ngân hàng mẹ bị
ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn cung cấp tín dụng trong suốt cuộc khủng hoảng. Thuật
ngữ hệ số tương tác cho giai đoạn trước khủng hoảng là tích cực và có ý nghĩa ở mức 5%.
Điều này cho thấy các công ty con là những người đi vay ròng trên thị trường liên ngân
hàng với các ngân hàng mẹ là người cho vay ròng tăng khối lượng tín dụng trong giai
đoạn trước khủng hoảng, điều đó phù hợp với kết quả trước đó của tác giả. Tình hình
thay đổi trong thời kỳ khủng hoảng, được chỉ ra bởi sự thay đổi về dấu hiệu của hệ số.
Điều này cho thấy trong giai đoạn khủng hoảng, công ty con của ngân hàng nước ngoài
phụ thuộc vào vay liên ngân hàng và nhiều khả năng được tài trợ bởi ngân hàng mẹ của
họ giảm cho vay. Do đó, kết quả xác nhận H2 và chứng minh rằng các giao dịch tập đoàn
khá quan trọng trong việc giải thích cho vay công ty con trước cũng như trong cuộc
khủng hoảng tài chính gần đây. Mối quan hệ giữa ngân hàng mẹ và các công ty con rất
quan trọng trong việc giải thích tăng trưởng tín dụng của các công ty con là các biến giả
cá nhân cho các vị trí ròng của các công ty con và ngân hàng mẹ trên thị trường liên ngân
hàng không có ý nghĩa thống kê trong khi tương tác được. Cuối cùng, như kỳ vọng của
tác giả, các ngân hàng nhỏ hơn báo cáo tăng trưởng tín dụng cao hơn. Hệ số Size là tiêu
cực và ý nghĩa thống kê trong cả giai đoạn, nhưng có ý nghĩa chỉ là một trong những
thông số có ý nghĩa cho giai đoạn trước khủng hoảng và trong giai đoạn khủng hoảng.
Tăng trưởng kinh tế dường như chỉ để xác định cho vay công ty con trong cuộc khủng
hoảng toàn cầu. Kết quả cho thấy các công ty con nước ngoài không làm giảm nguồn
14
cung cấp tín dụng đáng kể trong những nước không bị ảnh hưởng mạnh bởi cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
5.1.1. Phân tích độ nhạy của các kênh cho vay
Trong phần này, tác giả tiếp tục kiểm tra xem tình trạng tài chính của ngân hàng

mẹ có xác định tăng trưởng tín dụng các công ty con trong cuộc khủng hoảng không bằng
cách sử dụng các biến bổ sung và điều kiện tương tác. Đầu tiên, tác giả sử dụng tỉ lệ lợi
nhuận trên tài sản của ngân hàng mẹ (ROAP) thay vì biến (ROEP). Tác giả thay thế
phương pháp xác định lợi nhuận của ngân hàng mẹ bởi vì ROE chịu ảnh hưởng mạnh của
đòn bẩy ngân hàng, cái có thể chịu phụ thuộc vào quy định của một quốc gia. Hơn nữa,
tác giả tương tác biến mới parent bank-specific với tương tác giới hạn D_InterbankS *
D_InterbankP. Tác giả sử dụng tương tác ba thành phần để xác định liệu biến mới parent
bank-specific có quyết định cho vay ròng của ngân hàng mẹ và việc đi vay của cty con
không, điều này có thể giải thích việc tăng trưởng tín dụng của các công ty con trong thời
kỳ khủng hoảng. Tác giả cũng tương tác biến Equityp với các thành phần tương tác như
các kết quả trong Bảng 5 chỉ ra rằng quá trình vốn hóa của ngân hàng mẹ có thể quyết
định tăng trưởng tín dụng của công ty con trong suốt cuộc khủng hoảng.
Tiếp theo, tác giả sử dụng hai biến điều khiển bổ sung. Đầu tiên, tác giả đưa vào
việc trao đổi tín dụng mặc định (CDSHome) lan truyền cho nước nhà của ngân hàng mẹ.
Tác giả cho rằng việc tăng rủi ro nước nhà của ngân hàng mẹ có thể quyết định sự ổn
định tài chính của nó, và theo đó là khối lượng cho vay của công ty con. Thứ hai, tác giả
coi RatingP, đại diện cho đánh giá của ngân hàng mẹ. Tác giả cho rằng sự sụt giảm về
sức mạnh tài chính của ngân hàng mẹ của có thể dẫn đến hỗ trợ tài chính thấp hơn cho
các hoạt động của mình ở nước ngoài và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng tín
dụng của các công ty con.
Các kết quả phân tích độ nhạy cảm về sức mạnh của ngân hàng mẹ được thể hiện
trong Bảng 5; tác giả sử dụng các biến Subsidiary-specific và Paren bank-Specific (ngoại
trừ của ROAP) cái đã được sử dụng trong hồi quy trước đó (để ngắn gọn thì tác giả
không thảo luận điều này). Nhìn chung, kết quả không thay đổi đáng kể khi các biến khác
biệt được sử dụng hoặc khi bổ sung các biến diều khiển đã được giới thiệu. Phần A của
Bảng 5 cho thấy hệ số ROAP không có ý nghĩa cho cả hai giai đoạn. Thêm nữa, hệ số
cho hai biến điều khiển khác cũng không có ý nghĩa trước và trong giai đoạn khủng
hoảng. Chỉ có hệ số vốn hóa của ngân hàng mẹ còn lại vẫn ảnh hưởng tích cực và quan
trọng trong tất cả các phần (chi tiết kỹ thuật) trong giai đoạn khủng hoảng. Vì vậy, tác giả
chỉ tìm thấy bằng chứng ở mức hỗ trợ yếu cho giả thuyết cho rằng sức khỏe tài chính của

ngân hàng mẹ xác định tăng trưởng tín dụng cho các công ty con của họ trong thời kỳ
khủng hoảng (H1)
15
Pano B của Bảng 5 trình bày các kết quả tương tác của các biến parent bank-specific với
tương tác thành phần của đi vay liên ngân hàng của cty con và cho vay liên ngân hàng
của ngân hàng mẹ. Tác giả thấy rằng các hệ số tương tác 3 thành phần là tích cực và có ý
nghĩa thống kê trong cả ba trên bốn thông số kỹ thuật cho giai đoạn trước khủng hoảng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn khủng hoảng, tương tác ba thành phần là tiêu cực và có ý
nghĩa trong tất cả các chi tiết kỹ thuật. Do đó, kết quả cho thấy tình trạng tài chính của
ngân hàng mẹ có thể thực sự ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng của các công ty con,
tùy thuộc vào vị trí của nó trên thị trường liên ngân hàng, tức là, mối quan hệ của họ với
nhau. tương tác 3 thành phần bao gồm lợi nhuận cùa ngân hàng mẹ (ROAP) và vốn hóa
(EquityP) là tiêu cực và ý nghĩa thống kê ít nhất là ở mức 5%. Tuy nhiên, các tương tác
giới hạn bao gồm đánh giá ngân hàng mẹ (RatingP) và CDS nước nhà (CDSHome), trong
khi cũng là tiêu cực, được ước tính với độ chính xác thấp hơn. Từ nay, chúng ta có thể
lập luận rằng các nhân tố chính của sự suy thoái tài chính của các ngân hàng mẹ dẫn đến
giảm mức độ hỗ trợ cho các công ty con của họ thông qua thị trường liên ngân hàng,
trong đó ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng tín dụng của các công ty con, đặc biệt là các
công ty con phụ thuộc nhiều vào vay vốn liên ngân hàng.
Vì vậy, tác giả kiểm tra xem việc vay vốn của một công ty con và cho vay của
ngân hàng mẹ của mình thông qua thị trường liên ngân hàng có bị ảnh hưởng bởi các đặc
điểm khác của công ty con không. Tác giả sử dụng bốn biến điều khiển bổ sung trong mô
hình đo các đặc tính của các công ty con. Đầu tiên, tác giả xem xét tỷ lệ cho vay trên tiền
gửi của công ty con (LTD), phản ánh chiến lược vốn của các công ty con cho tăng trưởng
tín dụng. Tác giả dự kiến các ngân hàng nước ngoài có quyền truy cập đến một cơ sở tiền
gửi ổn định (ví dụ, một tỷ lệ LTD thấp hơn) để báo cáo tăng trưởng cho vay cao trong
cuộc khủng hoảng (Ivashina và Scharfstein, 2010) Ngoài ra, sự suy giảm cho vay sẽ xác
định tầm quan trọng của việc tiếp cận đi vay liên ngân hàng cho một công ty con trong
cuộc khủng hoảng. Thứ hai, tác giả kiểm soát chi phí cho lãi suất của các công ty con.
Tác giả sử dụng biến giả D_RatesS, trong đó có giá trị 1 nếu tổng chi phí lãi suất là trên

trung bình cho các mẫu đầy đủ trong một năm và 0 nếu ngược lại. Tác giả kỳ vọng các
công ty con dựa nhiều vào các khoản tiền gửi hơn các nguồn tài chính khác để báo cáo
chi phí lãi suất thấp hơn và ít bị ảnh hưởng trong cuộc khủng hoảng. Thứ ba, tác giả sử
dụng tỷ lệ sở hữu (Ownership) của ngân hàng mẹ trong một công ty con. Một mặt, tác giả
giả định rằng ngân hàng mẹ có nhiều khả năng để hỗ trợ các công ty con mà trong đó họ
có quyền sở hữu cao. Mặt khác, một tỷ lệ sở hữu cao của một ngân hàng mẹ gặp khó
khăn về tài chính có thể có một tác động tiêu cực đến tăng trưởng tiền gửi của các công ty
con. Thứ tư, chúng ta xem xét Rating Host, nó phản ánh đánh giá của các quốc gia sở tại
của công ty con nước ngoài. Tác giả đánh giá rủi ro của nước chủ nhà như hầu hết các
16
công ty con không đánh giá về sức mạnh tài chính. Tác giả cũng cho rằng ngân hàng mẹ
ít có khả năng hỗ trợ tài chính các công ty con được đặt tại các quốc gia có nguy cơ cao.
Trong phần A của Bảng 6, tác giả trình bày các kết quả cho các yếu tố quyết định tăng
trưởng tín dụng của một công ty con; tác giả giảm dần các biến phụ thuộc trong giới hạn
tương tác D_InterbankS*D_InterbankP và tăng dần các biến điều khiển bổ sung. Trong
phần B bảng 6, tác giả cho thấy các kết quả của tương tác các biến điều khiển với các
tương tác giới hạn D_InterbankS*D_InterbankP. Thêm nữa biến điều khiển hầu như
không thay đổi hệ số cho các biến Subsidiary-specific và parent Bank-specific; để ngắn
gọn tác giả không thảo luận về những kết quả này.
Thông số kỹ thuật (1) - (4) trong phần A trình bày các phân tích liên quan đến yếu
tố quyết định cho vay của công ty con trong giai đoạn trước khủng hoảng. kết quả cho
thấy bất kể sự kiểm soát, hệ số cho sự tương tác giới hạn D_InterbankS * D_InterbankP
vẫn tích cực và có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn trước khủng hoảng. Do đó, kết quả
nghiên cứu của tác giả xác nhận rằng trước khi cuộc khủng hoảng, các công ty con báo
cáo tăng trưởng tín dụng và vay mượn trên thị trường liên ngân hàng cao hơn, và ngân
hàng mẹ của họ là một người cho vay ròng. Ngược lại, trong thông số kỹ thuật (5) - (8)
tác giả thấy rằng hệ số cho tương tác giới hạn thay đổi dấu của nó trong giai đoạn khủng
hoảng. Nhìn chung, tác giả thấy rằng các công ty con mà ít phụ thuộc vào thị trường liên
ngân hàng (và hỗ trợ tài chính ngân hàng mẹ của nó) có ít kinh nghiệm thì giảm bớt trong
việc cung cấp tín dụng trong cuộc khủng hoảng hơn so với các công ty con khác đã làm,

nó khẳng định H2 là phù hợp với kết quả trước đó của tác giả.
Hệ số để kiểm soát cho biến điều khiển LTD là tiêu cực cho cả hai giai đoạn
nhưng ý nghĩa thống kê chỉ cho trước thời kỳ khủng hoảng. Do đó, kết quả cho thấy một
mức độ suy giảm tiền gửi hạn chế tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn trước khủng
hoảng. Tuy nhiên, khi tác giả tương tác các biến điều khiển với D InterbankS * D
InterbankP tác giả thấy rằng hệ số có ý nghĩa và có mối quan hệ tích cực đến tăng trưởng
tín dụng trong giai đoạn trước khủng hoảng. Tác động là đảo ngược trong cuộc khủng
hoảng. Những phát hiện này cho thấy rằng trước cuộc khủng hoảng, các công ty con với
mức độ huy động thấp làm gia tăng việc cung cấp tín dụng bằng cách vay mượn trên thị
trường liên ngân hàng khi ngân hàng mẹ của họ là người cho vay ròng. Tuy nhiên, tình
hình đã đảo ngược trong thời khủng hoảng - công ty con với mức độ huy động tiền gửi
thấp phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng hạn chế việc cung cấp tín dụng của họ.
Hơn nữa, tác giả thấy rằng hệ số chi phí lãi suất cao xác định tiêu cực đến tăng
trưởng tín dụng trong giai đoạn khủng hoảng. Điều này cho thấy trong cuộc khủng hoảng,
các công ty con trả chi phí lãi suất thấp hơn, có thể là do chiến lược của họ, báo cáo tăng
trưởng tín dụng cao hơn. Hệ số cho tương tác 3 giới hạn là tích cực và có ý nghĩa đối với
trước thời kỳ khủng hoảng. Như vậy, kết quả cho thấy rằng khi một công ty con được tài
17
trợ thông qua nguồn vốn liên ngân hàng, tăng trưởng tín dụng của nó là do chi phí lãi suất
cao hơn. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng, các công ty con mà ít phụ thuộc vào thị
trường liên ngân hàng và có chi phí vốn thấp hơn, vì điều này tác giả giả định là các
khoản tiền gửi, đã mở rộng nguồn cung cấp tín dụng của họ. Các kết quả này phù hợp với
Ivashina (2010)
Bảng 5
Phân tích độ nhạy của tác động sức mạnh tài chính của ngân hàng mẹ về tăng
trưởng tín dụng các công ty con của họ.
Bảng này báo cáo kết quả dự toán GMM sử dụng? Khoản cho vay, tức là, thay đổi hàng
năm trong các khoản vay đó là sự khác biệt đầu tiên của nhật ký của tổng dư nợ. Trong
thông số kỹ thuật (2) và (6) trong hình A, các hệ số D InterabankS * pand EquityPare
giống như những người trong Bảng 4. Các biến công ty con và ngân hàng mẹ được điều

khiển cũng tương tự như trong bảng 4 trong tất cả các hồi quy (nhưng không được hiển
thị). Sai số chuẩn mạnh mẽ trong dấu ngoặc đơn
* Tương ứng với mức 10% có ý nghĩa.
** Tương ứng với mức 5% có ý nghĩa.
họ cho thấy các ngân hàng tài trợ tăng trưởng cho vay với các khoản tiền gửi đã không
nhạy cảm với các cú sốc hoặc thậm chí mở rộng cung cấp tín dụng của họ trong cuộc
khủng hoảng.
Kết quả cho thấy chỉ có một mối quan hệ yếu giữa cổ phần của ngân hàng mẹ
trong vốn của cty con và tăng trưởng tín dụng của công ty con. Hệ số cho chủ sở hữu là
18
tiêu cực và chỉ có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn trước khủng hoảng. Một cách giải
thích cho kết quả này là các công ty con độc lập hơn khi ngân hàng mẹ của họ có cổ phần
thấp hơn trong vốn của họ. Cull và Martínez Pería (2013) báo cáo rằng các ngân hàng
nước ngoài giảm cho vay ít hơn ở các nước Mỹ Latinh hơn họ đã làm ở Đông Âu khi họ
dựa nhiều hơn vào tài chính của mình ở châu Mỹ Latinh. Khi chúng ta tương tác biến
điều khiển với các phần tương tác giới hạn cho các vị trí ròng của các ngân hàng mẹ và
các công ty con trên thị trường liên ngân hàng, tác giả thấy rằng hệ số cho sự tương tác ba
là tích cực và có ý nghĩa cho giai đoạn trước khủng hoảng, trong khi nó tiêu cực đối với
giai đoạn khủng hoảng. Như vậy, kết quả cho thấy cổ phần của ngân hàng mẹ trong vốn
chủ sở hữu công ty con của nó có thể xác định việc cho vay liên ngân hàng của nó và đi
vay của các công ty con thông qua thị trường liên ngân hàng. Các kết quả này phù hợp
với nghiên cứu trước đó của tác giả rằng việc cho vay của các ngân hàng mẹ và đi vay
của các công ty con dẫn đến tín dụng tăng trưởng trước khủng hoảng, trong khi họ đã làm
sụt giảm tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn khủng hoảng. Tác giả cho rằng ngân hàng
mẹ đã hỗ trợ các công ty con này nhiều hơn ở những cty mà họ có cổ phần cao hơn trong
trước khi cuộc khủng hoảng và hỗ trợ cho cty con ít trong cuộc khủng hoảng.
Tác giả chỉ tìm thấy chứng cứ yếu cho giả định xếp hạng rủi ro của quốc gia quyết
định đối với việc cho vay của các công ty con, như Hệ số RatingHost thì không có ý
nghĩa trong cả hai thông số kỹ thuật.
Tuy nhiên, khi chúng ta tương tác 2 biến điều khiển với D InterbankS*DinterbankP Tác

giả thấy rằng tương tác 3 giới hạn thì tích cực với giai đoạn trước khủng hoảng, trong khi
lại tiêu cực đối với thời kỳ khủng hoảng. Một mặt, những kết quả này có thể chỉ ra rằng
ngân hàng mẹ ít có khả năng cho vay qua thị trường liên ngân hàng đối với các công ty
con của họ tại các quốc gia có rủi ro cao trong giai đoạn khủng hoảng. Mặt khác, các
công ty con ở các nước có nguy cơ cao có thể có vấn đề trong việc vay mượn trên thị
trường liên ngân hàng, do đó có thể giải thích sự suy giảm trong cung cấp tín dụng của họ
trong cuộc khủng hoảng.
Nhìn chung, phân tích độ nhạy xác nhận rằng tăng trưởng tín dụng của các công ty
con phụ thuộc nhiều vào vay của họ và cho vay của ngân hàng mẹ của họ trong thị trường
liên ngân hàng. Vì vậy, các công ty con không thể dựa vào ngân hàng mẹ giảm mức tín
dụng của họ trong cuộc khủng hoảng tài chính.
BẢNG 6
Phân tích độ nhạy của tác động của các mối quan hệ thị trường liên ngân hàng tăng
trưởng tín dụng các công ty con.
Bảng này báo cáo kết quả dự toán GMM sử dụng? Khoản cho vay, tức là, thay đổi hàng
năm trong các khoản vay đo lường sự khác biệt đầu tiên của nhật ký của tổng dư nợ. Các
biến công ty con và ngân hàng mẹ cũng biến kiểm soát kinh tế tương tự như trong bảng 4
19
trong tất cả các hồi quy (nhưng không được hiển thị). Sai số chuẩn là mạnh mẽ trong
ngoặc đơn
* Tương ứng với mức 10% có ý nghĩa.
** Tương ứng với mức 5% có ý nghĩa.
Bảng 7
Yếu tố quyết định tăng trưởng huy động của công ty con ngân hàng nước ngoài.
Bảng này báo cáo các kết quả của hai bước GMM-SYS ước lượng sử dụng? Tiền gửi, ví
dụ, thay đổi hàng năm trong tổng tiền gửi tính là sự khác biệt đầu tiên của nhật ký của
tổng số tiền gửi. Hằng số đã được bao gồm trong tất cả các hồi quy (nhưng không được
hiển thị). Sai số chuẩn mạnh mẽ trong dấu ngoặc đơn
20
* Tương ứng với mức 10% có ý nghĩa.

** Tương ứng với mức 5% có ý nghĩa.
*** Tương ứng với mức 1% có ý nghĩa.
5 Kết quả
5.2 Nguyên tắc thị trường
Bảng 7
Yếu tố quyết định tăng trưởng huy động của công ty con ngân hàng nước ngoài.
Bảng này báo cáo các kết quả của hai bước GMM-SYS ước lượng sử dụng tiền gửi, ví
dụ như sự thay đổi hàng năm trong đo lường tổng tiền gửi như là sự khác biệt đầu tiên
của bảng ghi tổng tiền gửi. Hằng số đã được bao gồm trong tất cả các hồi quy (nhưng
không được hiển thị). Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn.
21
Bảng 8
Yếu tố quyết định chi phí lợi ích của công ty con ngân hàng nước ngoài.
Bảng này báo cáo các kết quả của hai bước GMM-SYS ước lượng sử dụng chi phí lãi
vay tính theo tỷ lệ chi phí lãi suất đối với tiền gửi có lãi suất. Tất cả các định nghĩa biến
được thể hiện trong Bảng 1: Hằng số được bao gồm trong tất cả các hồi quy (nhưng
không được hiển thị). Sai số chuẩn trong dấu ngoặc đơn.
22
Bảng 9
Phân tích độ nhạy của tác động của sức khỏe tài chính của ngân hàng mẹ về tăng
trưởng huy động các công ty con.
Bảng này báo cáo kết quả của hai bước GMM-SYS ước tính sử dụng tiền gửi, ví dụ,
thay đổi hàng năm trong đo lường tổng tiền gửi như là sự khác biệt đầu tiên kinh của các
bản ghi của tổng số tiền gửi. Các biến công ty con và ngân hàng mẹ đặc biệt như biến
kiểm soát tương tự như trong Bảng 7 trong tất cả các hồi quy (nhưng không được hiển
thị). Sai số chuẩn mạnh mẽ trong dấu ngoặc đơn.
Trong phần này, tác giả điều tra xem liệu các nguyên tắc cơ bản của ngân hàng mẹ có
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tiền gửi hoặc các chi phí lãi của của các công ty con
(H3). Ngoài ra, tác giả cố gắng thiết lập mối liên hệ giữa sự phụ thuộc của các công ty
con trên thị trường liên ngân hàng và sự tăng trưởng tiền gửi cùng với chi phí lãi trong

thời kỳ khủng hoảng.
Bảng 7 cho thấy kết quả ước lượng phương trình (2) cho sự tăng trưởng của tổng tiền
gửi cho toàn bộ mẫu (đặc điểm kỹ thuật 1-3), trong giai đoạn trước khủng hoảng (đặc
điểm kỹ thuật 4-6), và trong giai đoạn khủng hoảng (đặc điểm kỹ thuật 7-9). Kết quả cho
thấy các biến cấp công ty con không chịu ảnh hưởng tăng trưởng huy động tiền gửi trước
hay trong cuộc khủng hoảng. Chỉ có các hệ số khoản vay của công ty con và cho vay của
ngân hàng mẹ trên thị trường liên ngân hàng là trọng yếu trong giai đoạn khủng hoảng
(đặc điểm kỹ thuật 7). Tác giả thấy rằng tăng trưởng huy động tiền gửi của công ty con là
có tương quan ngược chiều đối với các khoản vay của nó trên thị trường liên ngân hàng,
có thể chỉ ra một hiệu ứng thay thế trong chiến lược tài chính của nó. Hơn nữa, hệ số cho
vay của ngân hàng mẹ trên thị trường liên ngân hàng là tích cực. Như vậy, kết quả cho
thấy ngân hàng mẹ đã có thể cho vay nhiều hơn trên thị trường liên ngân hàng khi công
ty con của họ đã thành công trong việc thu hút tiền gửi mới.
Trong Bảng 8, tác giả cũng không tìm thấy các bằng chứng cho thấy các đặc trưng
của công ty con quyết định đến chi phí lãi của nó. Ngoài ra, hầu hết các hệ số cho các
23
biến cấp độ của ngân hàng mẹ là không đáng kể cho giai đoạn trước và trong khủng
hoảng. Chỉ có hệ số rủi ro tín dụng của ngân hàng mẹ là có mối tương quan ngược chiều
và đáng kể đối với chi phí lãi của công ty con trong giai đoạn khủng hoảng.
Như vậy, kết quả trái với mong đợi, tác giả không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào cho
thấy một nguyên tắc cơ bản nào của ngân hàng mẹ xác định tăng trưởng vốn huy động
hoặc chi phí lãi của các công ty con trong thời kỳ khủng hoảng.
Tuy nhiên, tác giả thấy rằng hệ số vay nợ của các công ty con trên thị trường liên
ngân hàng là có mối tương quan ngược chiều đến chi phí lãi trong giai đoạn khủng hoảng
(đặc điểm kỹ thuật 7). Tác giả cho rằng các công ty con tăng lãi suất của họ để thu hút
tiền gửi mới, bù đắp cho việc giảm khả năng tiếp cận với thị trường liên ngân hàng và
giảm hỗ trợ từ ngân hàng mẹ trong cuộc khủng hoảng. Kết quả này cũng khẳng định
những phát hiện được trình bày trong Bảng 7, cho thấy mối tương quan dương giữa tăng
trưởng huy động của các công ty con và sự phụ thuộc của họ thấp hơn trên thị trường liên
ngân hàng. Những kết quả này có tác động thay thế liên quan đến tiền gửi và thị trường

liên ngân hàng (H4). Điều thú vị là, các điều khoản tương tác cho việc vay nợ của công ty
con và cho vay của các ngân hàng mẹ là không đáng kể trong giai đoạn khủng hoảng;
Ngược lại, các hệ số cho các điều khoản tương tác thì có mối tương quan ngược chiều và
đáng kể cho giai đoạn trước khủng hoảng (đặc điểm kỹ thuật 6 trong bảng 7 và 8). Như
vậy, kết quả cho thấy rằng trước cuộc khủng hoảng, các ngân hàng con nước ngoài báo
cáo tăng trưởng huy động và lãi suất cao hơn ít phụ thuộc vào tài chính từ ngân hàng mẹ
thông qua thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên, mối quan hệ này, biến mất trong cuộc
khủng hoảng. Các kết quả dường như cho thấy rằng thị trường liên ngân hàng không phải
là một kênh quan trọng để hỗ trợ các công ty con nước ngoài trong cuộc khủng hoảng.
Điều này có thể là do hai lý do bù trừ: một số ngân hàng mẹ quyết định hỗ trợ công ty
con nước ngoài (ví dụ, ở các nước Baltic), trong khi ngân hàng mẹ khác sử dụng công ty
con nước ngoài của họ để hỗ trợ mình trong cuộc khủng hoảng (Allen và cộng sự, 2013.
).
5.2.1 Phân tích độ nhạy của quy tắc thị trường
Phù hợp với những phân tích được mô tả trong các phần trước, tác giả quyết định
kiểm tra độ nhạy của kết quả bằng cách giới thiệu giải pháp thay thế hoặc các biến mới.
Ngay từ đầu, tác giả đã kiểm tra độ nhạy của kết quả liên quan đến tác động của "nguyên
tắc cơ bản về tăng trưởng tiền gửi của các công ty con và chi phí lãi vay của ngân hàng
mẹ. Đầu tiên, tác giả sử dụng hai biến số ngân hàng mẹ thay thế: lợi nhuận trên tài sản
(ROA
P
) thay vì ROE
P
và tỷ lệ cho vay suy giảm tổng các khoản vay ròng (NPLP) thay vì
biến Loan Loss
P
. Thứ hai, như trong phần trước, tác giả sử dụng hai biến kiểm soát
CDS
home
và Rating

P
, mà tác giả sử dụng như đại diện cho rủi ro của ngân hàng mẹ. Để
đơn giản, tác giả chỉ nói về hệ số của các biến kiểm soát cấp ngân hàng mẹ và cấp ngân
24
hàng cá nhân được sử dụng để kiểm tra H3. Ngoài ra, tác giả báo cáo kết quả của biến
liên ngân hàng đã được sử dụng để kiểm tra H4. Những kết quả này được báo cáo trong
Bảng 9-12. Kết quả hồi quy của các đặc điểm kỹ thuật còn lại giống như trong phần
trước, không được báo cáo.
Bảng 9 trình bày các kết quả của phân tích độ nhạy liên quan đến tác động của sức
khỏe tài chính của ngân hàng mẹ trong việc tăng trưởng huy động của các công ty con.
Các biến số cấp ngân hàng công ty con và các biến ngân hàng cấp ngân hàng mẹ là phù
hợp với kết quả trước đó của tác giả. Kết quả cho thấy rằng không có hệ số cho các biến
cấp ngân hàng mẹ là trọng yếu liên quan đến tăng trưởng huy động của các công ty con
trong cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, hệ số biến đại diện cho rủi ro của ngân hàng mẹ cũng
không đáng kể. Vì vậy, tác giả không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy một nguyên tắc
cơ bản của ngân hàng mẹ xác định tăng trưởng huy động tiền gửi của các công ty con
(H3).
Tương tự như vậy, các kết quả trong Bảng 10 cho thấy rằng không một biến cấp ngân
hàng mẹ cấp hoặc các biến bổ sung ảnh hưởng đến chi phí lãi vay của các công ty con
trong thời kỳ khủng hoảng (tương tự như các biến cấp ngân hàng mẹ và cấp công ty con
được trình bày trong Bảng 8 đã được sử dụng ở đây). Hơn nữa, hệ số của các biến đại
diện cho rủi ro của ngân hàng mẹ là không đáng kể. Vì vậy, tác giả không có bằng chứng
để hỗ trợ cho giả thuyết là sức khỏe tài chính ngân hàng mẹ xác định chi phí lãi của các
công ty con trong cuộc khủng hoảng (H3).
Để kiểm tra H4, tác giả đã kiểm tra sự tác động qua lại của cho vay của các công ty con
và cho vay ngân hàng mẹ trên thị trường liên ngân hàng (Bảng 9 và 10). Như trong hồi
quy trước đó, gần như tất cả các thông số kỹ thuật, tác giả tìm thấy một mối quan hệ tiêu
cực và ý nghĩa thống kê giữa các biến này với tăng trưởng huy động của các công ty con
và với chi phí lãi suất trong giai đoạn trước khủng hoảng, mà chỉ hướng tới hiệu ứng thay
thế đã được thảo luận trước đó. Ý nghĩa thống kê của biến này chỉ biến mất khi tác giả sử

dụng NPL
p
và CDS
Home
trong bảng 9 và NPL
P
trong Bảng 10; Tuy nhiên, tác giả cho rằng
điều này là do sự sụt giảm đáng kể các quan sát trong các hồi quy của tác giả. Nhìn
chung, kết quả cho thấy các công ty con tương đối phụ thuộc vào vay liên ngân hàng và
vay tại các ngân hàng mẹ là người cho vay ròng, báo cáo tăng trưởng huy động và chi phí
lãi suất thấp hơn. Đối với cuộc khủng hoảng, tác giả thấy rằng sự tác động qua lại là
không đáng kể trong tất cả các thông số kỹ thuật. Do đó, mối liên hệ giữa vay liên ngân
hàng của các công ty con và tăng trưởng huy động và chi phí lãi suất của nó dường như
đã thay đổi trong thời gian khủng hoảng.
Tác giả cũng xem xét cách đặc trưng riêng của các công ty con nước ngoài bị ảnh
hưởng tăng trưởng huy động và lãi suất trả cho tiền gửi (H3). Tác giả đã phân tích sự
tương tác của việc phụ thuộc của công ty con nước ngoài trên thị trường liên ngân hàng
25

×