Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

bài số 2 nghiên cứu vấn đề tự học của sinh viên trường đh công nghiệp tp hcm cơ sở 3 TẢI HỘ 0984985060

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.61 KB, 48 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại
các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất
lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở người học mà còn là sự nghiệp đào tạo
của nhà trường. Nhưng liệu tất cả sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề tự học hay chưa? Và nếu có thì họ đã có phương pháp tự học đúng cách hay
hiệu quả phương pháp tự học của họ còn thấp? Những vấn đề khó khăn gì họ gặp
phải trong quá trình tự học của mình? chính vì thế qua đề tài: “ nghiên cứu vấn
đề tự học của sinh viên trường đh công nghiệp tp.hcm cơ sở 3” em muốn được
tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về vấn đề tự học của sinh viên hiện nay. Nội cung
bài nghiên cứu gồm 5 chương:
chương 1: tổng quan về vấn đề tự học của sinh viên
chương 2: cơ sở lý luận
chương 3: mô hình nghiên cứu
chương 4: thực trạng và kết quả nghiên cứu
chương 5 : kết luận và các đề xuất
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
 cơ sở hình thành đề tài
Quan sát hàng ngày, thấy rằng một bộ phận sinh viên học tập bây giờ thật đáng
suy nghĩ. Rất ít khi trong lớp có đủ mặt sĩ số tham gia học tập. Và, trong số ấy
lại không ít sinh viên lơ là nghe giảng hoặc tham gia trong các hoạt động dạy
và học một cách cho có lệ, hoặc là nghe đấy nhưng đầu óc lại đang nghĩ tận
đâu đâu. Phải chăng là họ đang say sưa với thành tích đã vượt qua được nhiều
người để bước vào cổng trường đại học và đã mãn nguyện lắm rồi? Vì thế nào
họ cũng tốt nghiệp ra trường và sẽ thành danh. Một quan niệm nữa cũng trở
thành “tập quán” trong sinh viên là đã qua được học phần nào thì xếp gọn lại
sách vở môn đó và xóa sạch “băng” đã ghi nhớ trong đầu. Rất hiếm sinh viên
khi học xong, thi xong học phần còn giữ lại bài, bài ghi môn học. Chính vì vậy,
hơn bao giờ hết, việc tự học của sinh viên với ý nghĩa có trách nhiệm đối với
chính bản thân họ phải được coi là mấu chốt, là động lực thôi thúc họ, thậm chí
trở thành vấn đề nóng bỏng trong học tập theo hệ thống tín chỉ hiện nay.


Với việc học tập theo học chế tín chỉ, rất nhiều sinh viên còn bỡ ngỡ vì rằng
trong suốt những năm học phổ thông, phần lớn đã quen với phương pháp học
thụ động, lối học vẹt, tiếp nhận kiến thức qua hệ thống sách giáo khoa và từ các
thầy, cô giáo. Do đó, khi bước vào học đại học không ít em ban đầu thụ động
hoang mang. Đối với sinh viên năm thứ nhất phải có ngay khả năng tự học, tự
nghiên cứu là điều vô cùng khó khăn và trở thành áp lực lớn đối với các em
nhưng vẫn cứ phải làm quen và chấp nhận.
Đối với sinh viên sư phạm thì tính mô phạm là rất cần thiết, là “khuôn vàng
thước ngọc” trong con mắt của học sinh sau này. Do đó, đòi hỏi các em phải
nghiêm khắc với bản thân, mặc dầu với bao bộn bề của sự phức tạp hôm nay
đang thách thức các em.
Trong điều kiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ hiện nay thì tự học được đặt lên
hàng đầu quan trọng. Thầy cô là người hướng dẫn, trò là người thi công và sản
phẩm làm ra lại được định hình chính trong “bàn tay thi công” của trò. Thiết
nghĩ, ở một mức độ nào đó, thì giáo trình là trung tâm, còn người dạy lẫn người
học cùng khai phá tri thức và lĩnh hội tri thức.
Chính vì lẽ ấy mà cả thầy lẫn trò phải có hứng thú tìm tòi, học hỏi, khám phá
và biết vượt qua những khó khăn trở ngại để tiếp cận tri thức của nhân loại.
Tự học là vô cùng quan trọng vì nó khai thác triệt để thời gian nhàn rỗi trong
sinh viên và sinh viên có thể xoáy sâu nghiền ngẫm những điều thầy cô hướng
dẫn, giảng giải trên lớp. Điều đáng quan tâm là tự học sẽ rèn luyện khả năng
nghiên cứu, tiếp cận tri thức. Ngày nay, tiếp cận tri thức là phải xử lý thông tin.
Xử lý thông tin một cách đúng đắn, sáng tạo trong môi trường thông tin đa
chiều xen lẫn sự phức tạp và động cơ của người đưa tin là điều chẳng dễ dàng
gì. Muốn có tri thức thì không thể không tiếp cận thông tin.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo, một điều không thể quan tâm là sinh viên
phải chủ động tự học, coi tự học là vấn đề bức thiết, nếu có ý thức tự học thì sẽ
tạo thành thói quen cố hữu của con người trong suốt cuộc đời.
Suốt thời gian học tập ở trường đại học, nhà trường không thể trang bị đầy đủ
moi tri thức hành trang cho các em đi suốt cuộc đời mà chỉ trang bị những tri

thức cơ bản, những đường nét cơ bản để khi ra trường, nó trở thành nền tảng tri
thức chứ không hẳn đã là cẩm nang nhất thành bất biến trong suốt cuộc đời các
em. Phải coi tự học như là nhu cầu nội tại vươn lên làm chủ tri thức để làm việc
và chủ động hơn trong cuộc sống của sinh viên sau này - trong điều kiện nhiều
môn học không giảm số lượng và mức độ của tri thức, thậm chí tăng lên đồng
thuận với yêu cầu của xã hội ngày càng khắt khe đối với việc tuyển dụng nhân
lực.
Tự học phải là tự mình học ở mọi nơi, mọi lúc với điều kiện nhất định. Ở trên
lớp, ở nhà, ở Thư viện hay khi “lướt sóng” trên mạng đều là quá trình tiếp cận
tri thức, xử lý thông tin để chắt lọc những thông tin có ích và biến thành tri
thức của mình.
 mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu những kiến thức căn bản nhất về vấn đề tự học của sinh viên. Nêu rõ
được nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân
thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao….
Tìm hiểu tầm quan trọng của vấn đề tự học , và làm thế nào để nâng cao tinh
thần tự học của sinh viên.
 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các bạn sinh viên học theo hệ tín chỉ tại trường đại học công nghiệp cơ sở 3 tại
Thanh Hóa
Đề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ 15/9 – 26/10/2013
 phương pháp nghiên cứu
1.4.1 dữ liệu sơ cấp và phương pháp thu thập
trực tiếp thu thập tại các sinh viên trong trường, điều tra, thu thập và xử lý nó
để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình
được thu thập bằng các phương pháp như sau:
 phương pháp quan sát:
quan sát trực tiếp việc tự học của sinh viên trong thư viện trường, tại các phòng
học, trong khuôn viên trường và cả trên ký túc xá.
Quan sát gián tiếp kết quả học tập của các bạn sinh viên để biết mức độ nắm

vững kiến thức của sinh viên như thế nào? Và có nhờ vào phương pháp tự học
hay là tiếp thu tại lớp.
 Phương pháp phỏng vấn qua mạng internet như mail và facebook:
Gửi bảng câu hỏi đã soạn sẵn qua mail hoặc facebook cho những bạn sinh viên
trong trường Đh Công nghiệp TPHCM cơ sở 3 mà ở xa hoặc không thể phỏng
vấn trực tiếp được
 Phương pháp phỏng vấn cá nhân trực tiếp
Đến gặp trực tiếp các bạn sinh viên trong trường những bạn trong lớp, gần ký
túc xá, những bạn gặp tại thư viện để phỏng vấn theo bảng câu hỏi đã soạn sẵn
1.4.2 dữ liệu thứ cấp và phương pháp thu thập
Được thu thập thông qua mạng internet và một số giáo trình, nghị quyết. Nghị
quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “ Tập trung sức nâng cao chất lượng
dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều
kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong. Trên tinh
thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí
cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước trao tự học,
tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”.
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường trung
học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết:
“Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,
tổng hợp…)cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một
lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại,
biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về
khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri
thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt
mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết
các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc
học”.

Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào
tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ
và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ
nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình
và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
 ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Trong nội dung của bài này em muốn trình bày những kiến thức căn bản nhất
về vấn đề tự học của sinh viên. Nhằm nêu rõ nội dung của hoạt động tự học
gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để
áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy
tự học tích cực tương ứng. Giúp sinh viên hiểu được tầm quan trọng của vấn đề
tự học và tìm cho mình giữ một phương pháp tự học phù hợp nhất để học tập
và nghiên cứu thuận lợi hơn đạt kết quả cao, và góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 . Khái niệm tự học
2.1.1 Tự học là gì?
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường trung
học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự
học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp…)cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực
hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó
thành sở hữu của chính bản thân người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về
khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức
kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình
vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn
đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.

Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào
tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ và
lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế
hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện
cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học luôn đi
cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của
mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông qua các
hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện thì mỗi SV phải tự thân tiếp
nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ năng; Tự thân bồi dưỡng
tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.
2.1.2 Vị trí vai trò của tự học
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học.
Trong quá trình hoạt động dạy học giảng viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ
những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu SV ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định
hướng, tổ chức cho SV tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của
các vấn đề khoa học. Giúp SV không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách
tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn
xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới phương
pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa
học tập và nghiên cứu khoa học. Bởi vì SV đại học không phải là những học sinh
cấp bốn. Họ cần có thói quen nghiên cứu khoa học, mà để có được thói quen ấy thì
không thể không thông qua con đường tự học. Muốn thành công trên bước đường
học tập và nghiên cứu thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề
mà cuộc sống, khoa học đặt ra.
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh
mẽ cho quá trình học tập.
Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ
động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một trong những nhiệm vụ quan trọng của

giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới
mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị
trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình
thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách
thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự
gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức
thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú
trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi
nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con
người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự
giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập.

Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng
định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với
mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân
sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với
những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức
to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương
pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ
tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp
tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực
tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học.
2.2 NỘI DUNG CỦA TỰ HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY TỰ HỌC CHO SINH
VIÊN
2.2.1. Nội dung của quá trình tự học
Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho SV tự học như thế nào
để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Ngoài việc tìm
hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập của SV thì
mỗi GV rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội dung cơ bản, các phương

cách tối ưu rèn luyện phương pháp tự học cho SV. Đặc biệt là việc nhận diện xem
những phương pháp đó ngoài sự thích ứng chung cho mọi SV có đáp ứng được cho
từng nhóm đối tượng trong những giai đoạn và điều kiện, hoàn cảnh khác nhau
trong suốt quá trình đào tạo hay không.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của hoạt
động tự học như: nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó
phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra
sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng.
Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung, thống
nhất về cách thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác định như
sau:
2.2.1.1 Xây dựng động cơ học tập
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập.
Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu
tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy
tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị
trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ không
phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không
có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta
luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui
sáng tạo bất tận.
Trong rất nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ
bản:
- Các động cơ hứng thú nhận thức.
- Các động cơ trách nhiệm trong học tập.
Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với
người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ, động
và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất hiện
thường xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các cuộc
thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ người học.

Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý
thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách
nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…Từ đó các em mới
có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập,
những yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội và sự điều
chỉnh của dư luận.
Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng
chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác
thầm lặng từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc
điểm tâm sinh lí lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm
khơi dây hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi SV. Và, điều quan trọng hơn
là tạo mọi điều kiện để sinh viên tự kích thích động cơ học tập của mình.
Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những trò
giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có ranh giới
vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ cùng nghi
lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng thành, khi mục
đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã được xác định và sự
học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ học tập nói chung
không khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên không phải là hoàn toàn không có. Vì
suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có những hứng thú khác
nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại sinh, tức là
hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy trên cơ sở
những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó người thầy đóng vai trò chủ đạo.
2.2.1.2 Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và
kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được
xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng
môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng
giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn đề kế tiếp
là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực

tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì
chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp
các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập
trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi
tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy
thuận lợi.
2.2.1.3Tự mình nắm vững nội dung tri thức
Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối
lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề
nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bền vững không… tùy thuộc vào nội lực của chính
bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động:
- Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem
truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội thảo, làm thí nghiệm, quan sát,
điều tra… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một
cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện đại đang khiến phần lớn SV rời xa sách
và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn trí
tò mò, giúp cho tai nghe mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn thông
tin mà nếu không vững vàng thì giới trẻ sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu lành
mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ cổ
chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi người là
đọc sách. Đọc sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi làm việc
với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện của hoạt
động của trí não, một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy, rèn luyện
thói quen đọc sách là một công việc không thể tách rời trong yêu cầu tự học. Ngoài
việc tiếp nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc hay đề xuất những
vấn đề cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối diễn đạt từ
những cuốn sách hay. Đó là cách đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay
cảm nhận thông thường.
- Xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn

ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình
này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp,
so sánh…
- Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học
để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình
huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… SV thường gặp rất nhiều
khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập hợp phân loại
nội dung để kiến giải một vấn đề lại không thực hiện được. Trong trường hợp này
cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá rộng. Chỉ cần tập trung đào
sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị thực tiễn là đáp ứng yêu
cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức tư duy để tìm ra cách thức
tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần thiết.
- Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri
thức hay diển ngôn theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa
học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp
nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát triển kĩ
năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người học chủ
động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm
tốt.
2.2.1.4 Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các
thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận
xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban
đầu… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên.
Thông qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu được cái gì làm
được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc
phục hay phát huy.
Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu quả
nhất thiết SV phải chủ động tự giác học tập bất cứ lúc nào có thể bằng chính nội
lực của bản thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển.

Ngoài ra, rất cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực trong việc trang
bị cho SV một hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với phương pháp tự học cụ
thể, khoa học. Nhờ đó hoạt động tự học tự đào tạo của SV mới đi vào chiều sâu
thực chất.
2.2.2. Dạy phương pháp tự học cho sinh viên
Ngoài những nội dung và phương pháp chung được trình bày ở trên mỗi môn
học, mỗi đối tượng đều có những đặc thù riêng. Và, với GV cũng vậy, cũng với
những phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những thời
điểm cũng có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học cụ thể
cho từng lĩnh vực là công việc rất có ý nghĩa. Tâm lí chung với đối tượng SV các
chuyên ngành thuộc khối Tự nhiên – Kĩ thuật thường ngại các môn KHXH – NV
có nhiều chữ, một phần do không thuộc sở trường một phần quĩ thời gian ngày
càng eo hẹp, việc học các học phần này thường chiếm nhiều thời gian. Do vậy việc
xác định các phương pháp dạy cho SV tự học các môn thuộc KHXH –NV cần
được quan tâm nhiều hơn.
Dạy phương pháp tự học cho SV ở các môn Khoa học tự nhiên – Kĩ thuật đã
được định hình từ lâu bằng những yêu cầu cụ thể rõ ràng như thực hành bài tập, vẽ
sơ đồ…Việc kiểm tra SV có thực hiện yêu cầu học tập mà GV giao hay không
cũng vì thế mà dễ xác định và đỡ mất thời gian hơn. Còn đối với các môn thuộc
lĩnh vực Xã hội Nhân văn không hề dễ dàng. Từ đặc thù của lĩnh vực chuyên
ngành xã hội, qua nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực tế giảng
dạy nhiều năm các nhà nghiên cứu, giảng viên đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp
dụng trong quá trình dạy tự học cho SV. Đó là:
2.2.2.1Dạy cách lập kế hoạch học tập
Trên cơ sở đề cương môn học, vào đầu mỗi học phần GV cần hướng dẫn SV
lập kế hoạch học tập sao cho kế hoạch đó phải ở trong tầm với của mình, phù hợp
với điều kiện của mình. Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi. Quán
triệt để SV hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu cụ thể
và hoàn toàn phấn đấu thực hiện được. Trong đó có sự phân biệt rõ việc chính việc
phụ, việc làm ngay và việc làm sau. Có như thế mới từng bước góp nhặt tri thức

tích lũy kết quả học tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời
gian cũng cần được đặt ra để không phải bị động trước khối lượng các môn học
cũng như áp lực công việc.
2.2.2.2Dạy cách nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học.
Nghe giảng và ghi chép là những kĩ năng mà ai cũng phải sử dụng trong quá
trình học tập. Trình độ nghe và ghi chép của người học không giống nhau ở những
môn học khác nhau. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Tuy nhiên đây
là vấn đề mà xưa nay chưa có ai nghiên cứu. Mỗi người đều phải tự mình rèn luyện
thói quen ghi chép để có thể có được những thông tin cần thiết về môn học. Điều
quan trọng trước tiên là GV cần truyền đạt cho SV những nguyên tắc chính của
hoạt động nghe – ghi chép. Với các môn KHXH – NV thường có dung lượng câu
chữ nhiều, việc vừa chú ý theo dõi để tri nhận thông tin vừa mong muốn ghi chép
thật đầy đủ khiến đôi lúc trở thành một thách đố lớn. Các em thường mang lối học
thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều SV chỉ chờ
GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học nếu ngược lại thì đành bỏ trống
vở khiến tâm lí bị ức chế ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Thực tế đó
đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng cao độ để có khả năng lĩnh hội vấn đề
một cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn từ, sử dụng
tốc độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ
hình vẽ những ý chính, các luận điểm quan trọng mà GV nhấn mạnh, lặp lại nhiều
lần là điều vô cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình học tập trên lớp, nếu có vấn
đề nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào
sâu kiến thức và tiết kiệm thời gian. Rất tiếc, trên thực tế đây là điểm yếu mà phần
lớn SV không quan tâm rèn luyện để có được.
Muốn tạo điều kiện cho SV nghe giảng và ghi chép tốt, GV cần lưu ý:
- Nội dung bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những tình
huống giả định yêu cầu SV suy nghĩ phản biện .
- Các câu hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng, tập
trung vào trọng tâm bài học như một cách phát tín hiệu cho SV xác định nội dung
chính.

- Đưa vào bài giảng những tình huống lí thú, những mẫu chuyện sinh động lấy từ
thực tế có liên quan trực tiếp đến đời sống hay lĩnh vực chuyên ngành của từng đối
tượng SV để gây sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người học.
- Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu cầu SV tự đặt ra những câu hỏi, tình
huống sát với nội dung bài học để thay đổi không khí, tăng cường sự chú ý của cả
lớp.
- Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng cũng là điều có ý nghĩa thu hút sự chú ý
của người học.
Tất cả những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp
nhàng ăn ý của cả thầy và trò. Trong đó thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc hướng
dẫn tổ chức còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo cả trong lĩnh
hội tri thức lẫn rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ.
2.2.2.3 Dạy cách học bài
Vấn đề mấu chốt theo quan điểm của chúng tôi chính là dạy cách học bài. GV
cần giới thiệu và hướng dẫn cho SV tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức
của Bloom. Tức là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào từng
tình huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên
cạnh đó còn phải rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng
tạo để tìm ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học.
Việc đưa ra các tình huống vấn đề gắn với thực tiễn đời sống xã hội là ưu thế
của các học phần thuộc lĩnh vực XHNV. GV cần cho những tình huống sau mỗi
bài/ chương/ mục và yêu cầu SV chuẩn bị trước. Sau đó tùy tình hình để cho từng
cá nhân hay từng nhóm (cả lớp) thảo luận, giải quyết.
Một trong những hình thức giúp SV làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội cho
các em diễn ngôn trực tiếp. Từ cách lấy dẫn chứng để chứng minh một vấn đề, giải
thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu, tổng thuật một
sự kiện, một vấn đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến trước một
hiện tượng. Thông qua đó người dạy cũng có thể nắm được mức độ nhận thức của
SV để có sự bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất lượng giờ giảng
luôn được cải thiện theo hướng tích cực.

2.2.2.4 Dạy cách nghiên cứu
Trước hết là dạy cách xác định đề tài, chủ đề nghiên cứu sao cho phù hợp với
sở trường năng lực của mình và yêu cầu của chuyên ngành đào tạo. Tiếp đến là dạy
cách lựa chọn và tập hợp, phân loại thông tin và cách xử lí thông tin trong khuôn
khổ thời gian cho phép. Cơ sở lí luận của các môn KHXH&NV thường mang tính
hàn lâm, tính kế thừa cao. Trong lúc trên thực tế các vấn đề xã hội lại thay đổi từng
giây. Vì thế việc xác định nguồn tài liệu, điều tra, thực nghiệm cũng đòi hỏi mỗi
người phấn đấu nắm bắt kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng hổi cũng là
một thách thức lớn. Tài liệu sẽ lấy từ nguồn nào, giới hạn phạm vi bao nhiêu, cách
viện dẫn những thông tin ra sao cho chính xác, trích dẫn những vấn đề điển hình
nào cho có tính thuyết phục… là những vấn đề cần được hướng dẫn kĩ lưỡng chu
đáo từ phía GV. Một đề cương nghiên cứu chuẩn mực, khoa học trong cấu trúc
chung từ tổng quan của vấn đề nghiên cứu, các cấp độ nội dung cần triển khai và
cách xác định phương pháp nghiên cứu phản ánh rất rõ năng lực của mỗi SV. Cần
hình thành và rèn luyện cho các em sớm có được kĩ năng ấy. Ngoài ra, việc tự
kiểm tra đánh giá kết quả nghiên cứu trên cơ sở tranh thủ ý kiến của bạn bè thầy cô
cũng đem lại lợi ích thiết dụng cho người nghiên cứu, nhất là những SV bước đầu
làm quen với khoa học.
2.3 Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới vấn đề tự học
2.3.1 Môi trường học và cơ sở vật chất
Môi trường xung quanh tuy không hoàn toàn là yếu tố gây ảnh hưởng tới vấn đề
sinh viên không tự học nhưng nó cũng ảnh hưởng nhiều tới chất lượng học tập của
sinh viên, môi trường mà ồn ào, không sạch sẽ ảnh hưởng tới cảm xúc của con
người khiến chúng ta mất tập trung và không thể tiếp thu kiến thức được, như vậy
kết quả học tập, nghiên cứu sẽ bị suy giảm và gây tâm lý chán học, ngại học cho
sinh viên.
Hơn nữa cơ sở vật chất cũng phải đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng như:
phòng học phải đủ kích thước, ánh sáng, bàn ghế đúng quy cách cho sinh viên ngồi
học, như vậy thì sẽ giúp sinh viên thoải mái trong quá trình học và nghiên cứu
Cần có thư viện rộng rãi, yên tĩnh và sạch sẽ cho sinh viên nghiên cứu ngoài giờ

lên lớp
2.3.2 Sự khen thưởng, khuyến khích học tập
Việc khen thưởng có thể khuyến khích tinh thần học tập của sinh viên dù đó là sự
biểu dương hay một số phần thưởng như quà tặng và học bổng, nó khơi lên tinh
thần yêu thích và nỗ lực phấn đấu của sinh viên.
2.3.3 Giáo trình, tài liệu nghiên cứu
Quan trọng nhất vẫn là đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm thông tin qua sách, giáo
trình của sinh viên, những quyển sách hay, nhiều thông tin, những cuốn giáo trình
mà cần thiết cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên, giúp sinh viên có thêm
nguồn kiến thức phong phú hơn, khuyến khích việc nghiên cứu và đọc sách của
sinh viên. Vậy nên thư viện trường sẽ là nơi lưu trữ nguồn thông tin từ giáo trình,
tài liệu cho sinh viên.
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình nghiên cứu tổng thể
Xuất phát từ cơ sở lý luận về vấn đề tự học, đã được phân tích trong chương 2, mô
hình nghiên cứu được xác định như sau:






 !"#$#%&
 '()*+,-.

/0
1!2





34(56

7
8
93:;07<=
8
>?2#&8;*
#"5+#@
AB4CD*7E$"
"
3.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất
3.2.2 Căn cứ mô hình nghiên cứu tổng thể, sau khi khảo sát, nghiên cứu các văn
bản có liên quan đến vấn đề tự học và đặc biệt là các văn bản có liên quan đến vấn
đề tự học và các ý kiến của sinh viên, em xây dựng mô hình nghiên cứu đề xuất
và thực hiện đánh giá theo mô hình nghiên cứu này để rút ra các giải pháp nâng
vấn đề tự học của sinh viên trường Đh Công nghiệp TPHCM cơ sở 3 thông qua các
tiêu chí sau
 1) Xây dựng động cơ học tập
 Trong rất nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai
nhóm cơ bản:
 Các động cơ hứng thú nhận thức.
 Các động cơ trách nhiệm trong học tập
 2) Xây dựng kế hoạch học tập
 Muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế
hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng, tùy thuộc để xác
định kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí theo từng môn, từng phần
phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai
đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.
 Chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác

động trực tiếp và dành thời gian công sức cho vấn đề đó. Từ đó sắp
xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn thời gian.
 3) Tự mình nắm vững nội dung tri thức
Bao gồm các hoạt động
 Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc
sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội
thảo, làm thí nghiệm, quan sát, điều tra
 Xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao
giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử
dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân
tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…
 Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức
khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập,
thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học,
tổng thuật
 Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông
tin tri thức hay diển ngôn theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội
thảo, báo cáo khoa học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận.
 4) Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng
các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá
nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra
ban đầu.
Sơ đồ: 3.2.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất.
Bảng 3.2.2: Giả thuyết và kỳ vọng của các biến nghiên cứu
Biến độc lập Giả thiết Phát biểu Kỳ
vọng
01!
2



2#F<144#+G"6
2<DH<IJ("
K5(2#+CL
 K5(21J:
Xây dựng động cơ
học tập
H1 Xác định đúng đắn động cơ mục đích
học tập của mình. Thì sẽ tập trung cao
độ trong quá trình tự học.

(+)
Xây dựng kế
hoạch học tập
H2 Xây dựng kế hoạch học tập hợp lý thì
hiệu quả của việc tự học sẽ cao hơn. (+)
Tự mình nắm
vững nội dung tri
thức
H3 Nắm vững nội dung kiến thức bằng
việc tìm kiếm và nghiên cứu thì sẽ giúp
vốn kiến thức sâu rộng hơn, việc tự học
sẽ có kết quả cao hơn.
(+)
Tự kiểm tra đánh
giá kết quả học tập
H4 Tự kiểm tra đánh giá để khắc phục và
phát huy những vấn đề chưa đạt thì
giúp cho quá trình tự học dễ dàng hơn


(+)
3.3 Thiết kế nghiên cứu
3.3.1. Tiến độ các bước nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu bao gồm 2 bước chính như sau:
Bảng1. Tiến độ các bước nghiên cứu
Bước Dạng Phương pháp Kỹ thuật Thời gian
1 Sơ bộ Định tính Thảo luận 2 tuần
2 Chính thức Định lượng Điều tra qua
bảng câu hỏi
3-4 tuần
Bước 1: Thực hiện nghiên cứu sơ bộ định tính. Nghiên cứu định tính này được
thực hiện thông qua kỹ thuật thảo luận với một dàn bài soạn sẵn để khai thác các
vấn đề xung quanh đề tài, dựa trên nền tảng của cơ sở lý thuyết. Kết quả của quá
trình nghiên cứu sẽ hoàn thiện bảng câu hỏi (đã được phát thảo trước đó – xem phụ
lục)
Bước 2: Là nghiên cứu chính thức định lượng gồm 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu sẽ
tiến hành điều tra trực tiếp khoảng 30 người, nhằm xác lập tính lôgic của bảng câu
hỏi hay để loại bớt những biến được xem là thứ yếu và không quan tâm. Giai đoạn
kế tiếp sẽ triển khai việc điều tra bằng bảng câu hỏi.
Các dữ liệu sau khi thu thập sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Sau khi mã
hóa và làm sạch, dữ liệu sẽ được đưa vào xử lý và phân tích để mô tả qua các công
cụ phân tích sau:
3.3.2. Quy trình nghiên cứu
Toàn bộ quy trình nghiên cứu có thể mô tả theo trình tự sau: xác định vấn đề
nghiên cứu, cơ sở lý thuyết , dàn bài thảo luận, phỏng vấn thử, bảng câu hỏi [1],
hiệu chỉnh, bảng câu hỏi chính thức, phỏng vấn chính thức (thu thập thông tin), xử
lý, cuối cùng là báo cáo nghiên cứu
Nghiên cứu sơ bộ
Nghiên cứu chính

Sơ đồ 1: quy trình nghiên cứu
Quy trình trên được bắt đầu từ xác định vấn đề nghiên cứu. Đây là bước quan trọng
để xác định vấn đề được đưa ra có thực sự cần thiết cho nhà trường và phù hợp với
K41-01!"
3:;EM"5+
N=D"
O7,76CE"
P$"Q
R6"%ST
U%0V
WXYZ
R6"%@
KVEM=
[
U%0@WXYZ
Báo cáo
khả năng của người nghiên cứu hay không. Để thực hiện được bước này, em đã đặt
ra các câu hỏi và tự trả lời để xác định vấn đề nào là thích hợp nhất.
3.4.Thang đo
Nghiên cứu chủ yếu sử dụng thang đo Danh nghĩa
Thang đo Danh nghĩa (thang đo biểu danh) là loại thang đo định tính để phân loại
các đối tượng: giới tính, bậc học. Mục đích chủ yếu là sử dụng cho phân tích sự
khác biệt về thái độ giữa các nhóm nghiên cứu.
3.5 Thiết kế bảng câu hỏi
 Bảng câu hỏi gồm 11 câu với 2 loại câu hỏi đóng và mở
 Bảng câu hỏi gồm các phần :
 Tên bảng hỏi và giới thiệu
 Các câu hỏi điều tra
 Thông tin của người được hỏi
 Lời cảm ơn

3.6 mẫu và thông tin mẫu
3.6.1. Mẫu
3.6.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Các bạn sinh viên học theo hệ thống tín chỉ tại trường đại học công nghiệp thành
phố hồ chí minh cơ sở 3.
3.6.1.2. Phương pháp chọn mẫu
Tổng thể là các bạn sinh viên theo học hệ thống tín chỉ
Đơn vị mẫu: điều tra 50 mẫu bằng cách lấy danh sách các bạn sinh viên từ đó
dùng làm khung chọn mẫu để chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên.
3.6.1.3. Thời gian phỏng vấn: 3 tuần
3.6.2. Thông tin mẫu
Tổng số phiếu nhận về sau quá trình phỏng vấn là 50 phiếu. Một số kết quả nổi bật
phản ánh nội dung nghiên cứu được tổng hợp và minh họa lại bằng phần mềm
SPSS 16.0.
3.7 TIẾN ĐỘ NGHIÊN CỨU
Bảng 3. Tiến độ nghiên cứu
Công việc Tuần thứ
A Nghiên cứu sơ bộ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
1 Thảo luận tay đôi
2
Hiệu chỉnh thang đo-Bảng câu
hỏi (2)
B Nghiên cứu chính thức 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
1 Phát hành bảng câu hỏi
2 Thu thập hồi đáp
3 Xử lý và phân tích dữ liệu
C Soạn thảo báo cáo 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
1 Đến kết quả phần A
2 Đến kết quả phần B
3 Kết luận và thảo luận

4 Hiệu chỉnh cuối cùng
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 thực trạng
Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học đại học của sinh viên. Tự
học nhằm phát huy tính tự giác học và nghiên cứu. Việc tự học đối với sinh viên có
vai trò hết sức quan trọng vì qua đó góp phần giúp cho sinh viên rèn luyện khả
năng tư duy và sáng tạo của cá nhân. Đa số sinh viên trong trường đều nhận thức
rằng vấn đề tự học là quan trọng khi áp dụng theo học chế tín chỉ (58%-phụ lục2),
tuy nhiên việc tự học này đồng nghĩa với hứng thú trong nhận thức (34%-phụ luc2)
và tự trách nhiệm trong học tập(14%-phụ luc2), không phụ thuộc vào người khác
và không cần sự cộng tác của bạn bè. Sinh viên cho rằng đây là yêu cầu tối thiểu
của một sinh viên. Ngoài ra phải giao lưu học hỏi ở các bạn khác ngành, các lớp
đàn anh để nâng cao trình độ và nắm bài tốt hơn.
Học theo chương trình tín chỉ hóa nên việc tự học là rất quan trọng, tuy nhiên để
nhằm bổ sung thêm kiến thức sinh viên thường tạo ra những nhóm học để các bạn
dễ dàng trao đổi kiến thức và giúp đỡ nhau trong học tập. Có lớp cho rằng việc tự
học có nghĩa là học theo nhóm trao đổi thông tin với nhau (26%-phụ luc2), sinh
viên cho rằng tự học theo nhóm mang lại hiệu quả cao nhưng cũng có ý kiến cho
rằng vào học chỉ lo trò chuyện, cười giỡn không thể tiếp thu được nhiều nên hiệu
quả kém. Theo ý kiến của một số sinh viên muốn học nhóm có hiệu quả cao thì cần
tuân thủ một số điều quan trọng như không nói chuyện, đùa giỡn trong khi học,
phải có một trưởng nhóm có kiến thức vững và biết cách truyền tải lượng kiến thức
đó một cách hiệu quả nhất, biết điều tiết “nhiệt độ” học và biết phân bố thời gian
học hợp lý và sinh động để các thành viên học không bị chán.
Theo ý kiến của sinh viên thì một trong những nguyên nhân khó thực hiện việc tự
học là do phải học quá nhiều môn học trong một học kỳ, đặc biệt là những sinh
viên có tham gia học ngành 2 đã đăng ký tối đa số tín chỉ trong một học kỳ 25
chỉ(58%-phụ luc2) . Do đó sinh viên không còn thời gian cho việc tự học.
Có 62%(phụ luc2) các bạn sinh viên xây dưng kế hoạch học tập điều đó sẽ giúp
quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi. Còn 38%( phụ luc2) các bạn

không xây dựng kế hoạch học tập,
Có 68%( phụ luc2) số lượng sinh viên cho rằng tìm hiểu kiến thức bên ngoài giáo
trình, sách chuyên môn để bổ sung trong quá trình học là quan trọng và cần phải
thường xuyên thu thập. Truy cập bổ sung kiến thức chuyên môn từ nguồn Internet
vẫn là chủ yếu,qua tivi, điều tra quan sát.
Sau khi tiếp nhận thông đa số các bạn xử lý thông tin, và vận dụng kiến thức
nghiên cứu được vào giải quyết bài tập, xử lý các tình huống thực tế, viết báo cáo.
Các bạn sinh viên đã đạt được những kết quả đáng kể của quá trình tự học như
nâng cao kết quả học tập, tăng khả năng ghi nhớ kiến thức, hiểu biết được nhiều
kiến thức, tăng khả năng tiếp thu kiến thức, tăng mức độ tự tin trong cuộc sống với
vốn kiến thức sâu rộng hơn, tạo ra động lực mạnh mẽ trong học tập, thích ứng với
các biến cố của phát triển kinh tế xã hội đã đạt được trong qua trình tự học.
Khi tự học sinh viên có thể chủ động được quỹ thời gian mà không bị ràng buộc,
có thể học bất cứ lúc nào. Từ đó giúp sinh viên nắm kiến thức vững chắc và có thể
hiểu sâu và nhớ kỹ hơn các vấn đề (tự học nên nhớ lâu hơn). Ngoài ra, việc tự học
còn nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác làm việc theo nhóm, khi đó sinh
viên có thể thể hiện tính sáng tạo trong tư duy và linh hoạt nhạy bén trong suy
nghĩ, điều quan trọng hơn hết là sinh viên có thể đi sâu hơn so với thực tế nhằm rèn
luyện kỹ năng phân tích tình hình và đưa ra quyết định, đây là một yếu tố cần và đủ
để sau này khi rời khỏi ghế nhà trường sinh viên sẽ không bỡ ngỡ khi làm việc ở
môi trường thực tế. Việc tự học giúp cho sinh viên có thể tiếp thu tốt bài giảng trên
lớp hay củng cố lại các kiến thức đã học, mở mang thêm nhiều kiến thức mới qua
sách vở và mạng Internet phục vụ cho chuyên ngành nghiên cứu, nâng cao kỹ năng
làm việc nhóm, tạo môi trường học tập tiến bộ và tiên tiến
4.2 Kết quả nghiên cứu
4.2.1 Thời gian học trên lớp tuần khoảng bao nhiêu tiết?
Việc nghiên cứu sinh viên có tự học hay không giúp ta biết được mức độ tự học
của sinh viên theo nguồn phụ lục 2 có 84% (42/50SV) sinh viên tự học và
16%(8/50SV) sinh viên không tự học, nhưng với mức độ tự học đó với lượng thời
gian học trên lớp chiếm lớn nên nó cũng ảnh hưởng tới quá trình tự học, với 42%

bạn học với số tiết <20, còn lại 58% học với lượng tiết từ 20-25( nguồn phụ lục 2)

×