Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO VAI TRÒ CỦA BAN ĐÃI NGỘ VÀ BAN QUẢN TRỊ RỦI RO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
VAI TRÒ CỦA BAN ĐÃI NGỘ VÀ BAN QUẢN
TRỊ RỦI RO
BÀI TIỂU LUẬN
GVHD: GS.TS. Trần Ngọc Thơ
Nhóm 3- Phòng 311- K23
Hà Thị Như Phương
Nguyễn Thùy Mỹ Hạnh
Bùi Thị Lệ Thủy
Huỳnh Thị Thu Trang
Nguyễn Đức Phú
Bùi Bảo Ngọc Đông
2
MỤC LỤC
Bảng 2. Thống kê mô tả
Bảng 3. (a) Thông tin mẫu. (b) dữ liệu không cân đối – hồi quy Probit
Bảng 4. Phân tích nhân tố đo lường hiệu quả của ban (N=337 doanh nghiệp có CC,
N=236 doanh nghiệp có RC)
Bảng 5. Hồi quy GLS tác động ngẫu nhiên với sai số vững theo nhóm (cluster robust
errors, biến phụ thuộc: rủi ro thị trường (BETA)
Bảng 6. Hồi quy GLS tác động ngẫu nhiên với sai số vững theo nhóm (cluster robust
errors, biến phụ thuộc: hiệu quả hoạt động (LNEPS
t+1
)
Bảng 7. Hồi quy (2SLS) biến công cụ: biến phụ thuộc: hiệu quả hoạt động (EPS
t+1
)
Bảng 8. Kiểm định vấn đề nội sinh của COMFAC(CC/RC), DUAL
3
Tóm tắt


Bài nghiên cứu xác định vai trò của ban quản trị rủi ro (RC) và ban đãi ngộ (CC)
trong quản lý và kiểm soát hành vi rủi ro của các công ty tài chính Úc trong giai đoạn dẫn
đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2006-2008). Nghiên cứu thực nghiệm gồm 711
quan sát của các công ty ngành tài chính chỉ ra sự kết hợp của ban quản trị rủi ro và ban
đãi ngộ làm giảm bất cân xứng thông tin như thế nào. Nghiên cứu chỉ ra rằng các cơ cấu
của ban quản trị rủi ro và ban đãi ngộ thì có mối quan hệ cùng chiều với rủi ro, theo đó,
nó tác động đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Quan trọng hơn, thông tin bất cân
xứng được giảm bớt khi một thành viên HĐQT là thành viên của cả ban quản trị rủi ro và
ban đãi ngộ. Điều này làm dịu đi mối quan hệ nghịch chiều giữa rủi ro và hiệu quả hoạt
động đối với những doanh nghiệp có rủi ro cao.
4
1. Giới thiệu
1.1. Tổng quan bài nghiên cứu:
Vụ bê bối của các tổ chức tài chính trên toàn thế giới đã tăng mối lo ngại đáng kể
cho các nhà đầu tư và nhà quản lý. Cho dù cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt
nguồn từ việc chấp nhận rủi ro quá mức (Kashyap và cộng sự, 2008), hay là có thể do đối
mặt với việc gia tăng các mức rủi ro của doanh nghiệp (Raber, 2003), cả hai quan điểm
xác định rủi ro là thành phần chính, và làm nổi bật tầm quan trọng của một cơ cấu quản
trị doanh nghiệp phù hợp để quản lý rủi ro. Do đó, trọng tâm của bài viết này là xác định
các yếu tố liên quan với giám sát rủi ro trong lĩnh vực tài chính của Úc. Ngành tài chính
tại Úc là ngành công nghiệp lớn nhất dựa trên vốn hóa thị trường. Tính đến tháng 6 năm
2011, 288 công ty trong các lĩnh vực tài chính của Úc có giá trị vốn hóa thị trường là
455,7 tỷ Đô la Úc. Ngành tài chính bao gồm các ngân hàng thương mại và đầu tư, quỹ
quản lý tài sản, các công ty bảo hiểm, quỹ tín thác đầu tư bất động sản (REIT) và các nhà
cung cấp dịch vụ tài chính khác. Ở Úc, lao động trong tất cả các lĩnh vực đều đóng góp
vào một chương trình nhân viên hưu trí bắt buộc. Điều này có nghĩa là Úc có quỹ hưu trí
lớn thứ 4 trên thế giới, tạo ra cơ hội lớn cho các ngân hàng, quỹ quản lý tài sản, lập kế
hoạch tài chính và các công ty bảo hiểm. Do đó, các hoạt động quản trị của ngành này là
rất quan trọng đối với lợi ích kinh tế của Úc.
Lý thuyết đại diện cho thấy rằng có những sở thích khác nhau về rủi ro, những cổ

đông trung lập với rủi ro và các nhà quản lý sợ rủi ro đòi hỏi sự giám sát bởi hội đồng
quản trị (Jensen và Meckling, 1976; Subramaniam et al., 2009). Do đó, nếu không có sự
giám sát, các nhà quản lý sợ rủi ro có thể từ chối các dự án có lợi nhuận cao (nhưng nhiều
rủi ro hơn) nhưng các dự án đó lại là hấp dẫn đối với các cổ đông những người thích tăng
tỷ suất sinh lợi từ mức rủi ro cao hơn. Quản lý rủi ro quá mức không được coi là vấn đề
đối với các công ty phi tài chính vì sự thất bại của một doanh nghiệp sẽ không ảnh hưởng
đến danh mục đầu tư đa dạng của một nhà đầu tư trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Pathan
(2009) cho thấy rằng các cổ đông ngân hàng thích rủi ro cao do chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn các vấn đề về rủi ro đạo đức và hối lộ (Jensen và Meckling, 1976). Tuy nhiên,
Gordon (2011) cho rằng điều này có thể không phải là trường hợp riêng trong lĩnh vực tài
chính. Sự sụp đổ của một công ty tài chính trong hệ thống sẽ làm tăng khả năng các công
5
ty tài chính khác sẽ sụp đổ theo do các hiệu ứng lan toả từ sự tác động lẫn nhau trong lĩnh
vực tài chính như đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Do đó, cần giám
sát rủi ro chặt chẽ bằng ban quản trị rủi ro là đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực tài chính.
Ban quản trị rủi ro và ban đãi ngộ đều chịu trách nhiệm theo dõi và giám sát các hoạt
động rủi ro của doanh nghiệp. Vì vậy, một ban đãi ngộ hoặc ban giám sát rủi ro làm giảm
rủi ro quá mức và xác suất của sự sụp đổ của một công ty tài chính trong hệ thống sẽ giúp
cổ đông hưởng lợi.
Bài nghiên cứu này điều tra mối liên hệ giữa các ban quản lý rủi ro (RC) và ban
đãi ngộ (CC) với mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lợi của các công ty tài chính. Chúng tôi đề
nghị một số đặc điểm nhất định của ban (kích thước, cơ cấu và chức năng) phản ánh động
lực và khả năng để làm tăng mức chấp nhận rủi ro phù hợp với sở thích của cổ đông. Do
đó, bài nghiên cứu này dự đoán một tương quan dương giữa rủi ro và cơ cấu của RC và
CC. Hơn nữa, chúng tôi thấy rằng kinh nghiệm quản lý rủi ro của các công ty đòi hỏi cần
có một RC và CC để quản lý và giám sát rủi ro để đảm bảo một tương quan dương giữa
rủi ro và tỷ suất sinh lợi. Các kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng RC và CC có một vai
trò quan trọng trong các mức độ rủi ro của công ty. Sử dụng một thành phần phân tích
nhân tố chúng tôi lấy được một số yếu tố cho các đặc tính của các ban và sử dụng beta
như phương pháp đo lường rủi ro.

Bài nghiên cứu này cũng làm rõ mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi khi
thành viên HĐQT chiếm vị trí trên cả hai ban (sau đây gọi là ''thành viên kiêm nhiệm'').
Nghiên cứu tìm thấy mối tương quan dương giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi khi các thành
viên ban đồng thời tham gia vào cả trong RC và CC. Kết quả này cho thấy các thông tin
bất đối xứng thấp hơn khi thành viên HĐQT có vai trò trong cả hai ban, khi đó họ có thể
giám sát các mối liên hệ giữa nguy cơ rủi ro của công ty và tỷ lệ khuyến khích chấp nhận
rủi ro trong các gói đãi ngộ. Sau đó, các quyết định được thông tin nhiều hơn dẫn đến
một mối tương quan dương giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi. Kết quả vẫn tồn tại khi kiểm
soát các vấn đề nội sinh.
Bài nghiên cứu này đóng góp bằng nhiều cách. Theo hiểu biết của chúng tôi,
không có nghiên cứu nào khác đã kiểm định thực nghiệm liệu rằng có các thành viên
thành viên HĐQT kiêm nhiệm trong RC và CC có phối hợp lại với nhau để kiểm định
6
mức độ rủi ro của công ty với việc giám sát rủi ro của các gói đãi ngộ. Có ít tài liệu về lý
thuyết và phân tích về các thành viên kiêm nhiệm trong các ban (Chandar và cộng sự,
2012;. Hoitash và Hoitash, 2009; Laux và Laux, 2009). Sự phối hợp chức năng giữa RC
và CC làm giảm sự bất đối xứng thông tin theo đó ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi công ty.
Trong khi một số nghiên cứu xác định rằng các ban của hội đồng quản trị nâng cao hiệu
quả hoạt động của công ty (ví dụ, Klein, 1998), có rất ít nghiên cứu về các ban trong công
ty của Úc, và đặc biệt là ảnh hưởng của các ban đến rủi ro và tỷ suất sinh lợi của công ty.
Không giống như ở Mỹ, nơi thành lập một ban kiểm toán, được giao nhiệm vụ đề cử và
đãi ngộ, không có yêu cầu bắt buộc đối với các công ty để thành lập các ban trong các
công ty của Úc. Thay vào đó, các công ty có thể chọn không tuân thủ các khuyến nghị vì
các công ty này có thể chứng minh lý do cho bất kỳ không tuân thủ nào. Do đó, Úc cung
cấp một môi trường thú vị để khám phá những chi phí và lợi ích của việc thành lập các uỷ
ban thuộc hội đồng quản trị.
Hơn nữa, các doanh nghiệp ngành tài chính (ngân hàng, công ty tài chính, bảo
hiểm và các quỹ tín thác đầu tư bất động sản) đã được loại trừ từ các nghiên cứu trước đó
do mức độ cao hơn về rủi ro khi so sánh với các công ty khác (Wallace và Kreutzfeldt,
1991) dẫn đến những vấn đề khái quát và chuyển đổi. Về vấn đề đó, tổ chức giám sát tài

chính Úc (Australian Prudential Quy Authority (APRA, 2009) đã đưa ra một khung pháp
lý cho các tổ chức tài chính (xem Phụ lục A). Prudential Standard APS 510 phác thảo
những kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm yêu cầu cho các thành viên HĐQT tham gia
vào quản lý rủi ro.
Trong những năm gần đây, nhiều ngân hàng và tổ chức tài chính đã bị chỉ trích
mạnh mẽ về việc thanh toán các khoản tiền thưởng quá mức đối với một số thành viên
HĐQT điều hành và quản lý cấp cao vào thời điểm khi thế giới đang phải hứng chịu
những hậu quả của một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, được cho là một kết quả
của sự vô trách nhiệm về rủi ro của các tổ chức tài chính (Pathan, 2009). Nghiên cứu này
góp một phần nhỏ vào nghiên cứu về việc áp dụng quản trị rủi ro và đãi ngộ trong ngành
tài chính có liên quan với mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lợi tương ứng. Cho rằng việc
thành lập các RC và CC bởi công ty của Úc là tự nguyện, không phải ngạc nhiên rằng
ảnh hưởng của các ban này đã không được khai thác đầy đủ.
7
Bài viết được thực hiện như sau: Trong phần 2 chúng tôi xem xét các tài liệu có
liên quan và trình bày một số giả thuyết. Phần 3 mô tả các phương pháp nghiên cứu và
Phần 4 cung cấp các kết quả phân tích. Phần cuối cùng cung cấp một bản tóm tắt và kết
luận.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
Xem xét cơ chế quản trị doanh nghiệp ở Úc, sự phối hợp giữa ban quản trị rủi ro
và ban đãi ngộ để kiểm soát mức độ độ chấp nhận rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp. Những yếu tố tác động đến giá trị doanh nghiệp trong giai đoạn này.
Làm rõ những yếu tố, thành phần, tác động của các ban quản trị rủi ro và đãi ngộ
vào quản trị doanh nghiệp.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu:
• Cơ cấu của ban đãi ngộ có tác động cùng chiều với mức độ chấp nhận rủi ro của
doanh nghiệp?
• Cơ cấu của ban quản trị rủi ro có tác động ngược chiều với mức độ chấp nhận rủi
ro của doanh nghiệp?
• Tồn tại các thành viên kiêm nhiệm trong ban quản trị rủi ro và ban đãi ngộ giúp

kiểm soát mức độ chấp nhận rủi ro quá mức?
• Mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi phụ thuộc vào cơ cấu của
ban quản trị rủi ro và ban đãi ngộ?
• Mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi có liên quan đến các thành
viên kiêm nhiệm trong ban quản trị rủi ro và ban đãi ngộ
1.4. Lỗ hổng nghiên cứu:
• Các nghiên cứu trước đây thường loại các doanh nghiệp tài chính ra khỏi mẫu.
• Chưa có bài nghiên cứu nào kiểm định về vai trò của các thành viên HĐQT là
thành viên của cả hai ban.
• Có ít bài nghiên cứu trước đây về tác động của các ban lên rủi ro và thành quả các
doanh nghiệp Úc.
1.5. Đóng góp của bài nghiên cứu
• Nghiên cứu này góp phần vào nghiên cứu về việc áp dụng quản trị rủi ro và đãi
ngộ có liên quan đến mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lợi trong ngành tài chính.
8
• Bài nghiên cứu này cũng làm rõ mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi khi
thành viên HĐQT chiếm vị trí trên cả hai ban ( thành viên kiêm nhiệm ).
• Sử dụng một thành phần phân tích nhân tố -> Xây dựng một số đặc điểm nhất định
của các ủy ban.
2. Nền tảng và phát triển lý thuyết
Các doanh nghiệp tài chính lớn và có tổ chức phức tạp liên quan mật thiết đến việc
ủy quyền ra quyết định và chấp nhận mức độ rủi ro. Vì vậy, rất khó để thiết lập hệ thống
nội bộ đảm bảo kết quả đạt được của việc đưa ra quyết định đúng theo mục tiêu chính và
mục tiêu khác nhau của tổ chức (Davis, 1999). Mặc dù sự bất cân xứng thông tin có thể
hiện hữu trong tất cả các ngành, Andres và Vallelado (2008) cho rằng thông tin bất cân
xứng trong ngành tài chính có thể mạnh mẽ hơn vì sự phức tạp trong kinh doanh và đặc
tính riêng của ngành. Ví dụ, sự bất cân xứng thông tin trong ngành ngân hàng là do các
giao dịch phức tạp bao gồm sự khó khăn trong việc xác định chất lượng các khoản vay,
kỹ thuật tài chính không rõ ràng, các báo cáo tài chính phức tạp, rủi ro đầu tư dễ dàng
thay đổi, hay các đặc quyền dễ dàng có được đối với các nhà quản lý (Levine, 2004).

Trong khuôn khổ cạnh tranh bị giới hạn, quy chế nghiêm ngặt và bất cân xứng thông tin
cao, hội đồng quản trị (HĐQT) trở thành một cơ chế chính để giám sát hành vi các nhà
quản lý và đưa ra chỉ dẫn đối với việc quản lý rủi ro, xác định chiến lược và thực hiện
(Andres và Vallelado, 2008).
Theo lý thuyết đại diện, HĐQT được đánh giá là một yếu tố quan trọng trong quản
trị doanh nghiệp dựa vào tiền đề là các đặc tính của các thành viên HĐQT xác định khả
năng của HĐQT để giám sát và kiểm soát các nhà quản lý, cung cấp thông tin và tư vấn
các nhà quản lý, giám sát việc tuân thủ luật và các quy định hiện hành, và liên kết công ty
với môi trường bên ngoài (Carter và các đồng nghiệp, 2010). Theo đó đa số các lý thuyết
hiện có tập trung vào việc điều tra các đặc tính của HĐQT như cơ cấu và quy mô của nó.
Tuy nhiên, John và Senbet (1998) lập luận rằng cấu trúc hành chính nội bộ của
HĐQT đóng vai trò quan trọng hơn trong việc đo lường hiệu quả của nó. HĐQT ủy
nhiệm một số quyền hạn của mình cho từng ban, các ban này chịu trách nhiệm cho một
lĩnh vực cụ thể trong đó các thành viên được chuyên môn hóa. Tại Úc, ASX CGC đã
thiết lập các hướng dẫn liên quan đến hoạt động quản trị rủi ro trong các công ty niêm yết
công khai, đặt trách nhiệm với HĐQT (ASX CGC, 2007). Cụ thể, các quy định này đề
9
nghị rằng các công ty thành lập một ban đãi ngộ (CC) và ban quản trị rủi ro (RC) như
một công cụ cải thiện quản trị doanh nghiệp và đặc biệt là quản trị rủi ro.
Các tiểu ban được HĐQT thành lập để hỗ trợ HĐQT thực hiện vai trò của mình, đặc
biệt gia tăng trách nhiệm và áp lực đặt lên HĐQT. Ban đãi ngộ và ban quản trị rủi ro là
những cơ chế quản trị doanh nghiệp quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của cổ đông
bằng cách cung cấp một cái nhìn độc lập về các hoạt động khác nhau của HĐQT
(Harrison, 1987). Harrison (1987) gợi ý rằng các ban của HĐQT đảm bảo các thành viên
HĐQT tập trung vào mảng trách nhiệm cụ thể của mình, mang đến tính hợp pháp và
trách nhiệm cho tổ chức, nâng cao sự đóng góp của các thành viên HĐQT trong cuộc họp
của ban và của HĐQT. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng các ban riêng biệt có ảnh hưởng
nhiều hơn đối với hoạt động doanh nghiệp (Klein, 1998), chiến lược của công ty (Vance,
1983) và làm giảm các vấn đề đại diện hơn so với tập trung toàn bộ quyền hạn vào
HĐQT (Davidson và các đồng nghiệp., 1998). Do đó, các ban đóng vai trò quan trọng

trong các công ty có mức chi phí đại diện cao, ví dụ, rủi ro cao, đòn bẩy, quy mô lớn và
phức tạp. Hơn nữa, lý thuyết đại diện cho rằng các đặc trưng như sự độc lập của các ban
và một chủ tịch hội đồng quản trị độc lập là những nhân tố tiềm năng ảnh hưởng đến hiệu
quả của ban (Bradbury, 1990; Carson, 2002).
2.1. Kiểm soát rủi ro trong lĩnh vực tài chính: Ban quản trị rủi ro và ban
đãi ngộ
2.1.1. Sự cần thiết thành lập ban CC và RC
Theo lý thuyết đại diện: Do có sự tách biệt giữa chủ sở hữu và người đại diện
(điều hành) hay tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền điều hành, nên về mặt lý thuyết và
thực tế đã xuất hiện vấn đề khi một người hoạt động vì lợi ích của người khác, thì về bản
chất người đại diện công ty luôn có xu hướng tư lợi cho họ hơn là hành động vì người
chủ sở hữu và các cổ đông. Nguyên nhân của hiện tượng trên là do có sự tách biệt giữa
quyền sở hữu và quyền điều hành đã tạo ra thông tin không cân xứng, người điều hành có
ưu thế hơn chủ sở hữu về thông tin, nên dễ dàng hành động tư lợi, hơn nữa việc giám sát
các hành động của người đại diện cũng rất tốn kém, khó khăn, phức tạp.
10
Ngoài ra luôn có một sự đánh đổi giữa rủi ro và tỷ suất sinh lơi, khi rủi ro càng cao
thì suất sinh lợi đòi hỏi càng lớn. Tuy nhiên khi rủi ro đạt mức rủi ro quá mức sẽ gây nên
những chi phí như chi phí kiệt quệ tài chính, chi phí đại diện của nợ, nghĩa vụ thuế và chi
phí cho các nguồn tài trợ từ bên ngoài Vì vậy các nhà quản lý luôn có xu hướng thực
hiện những dự án có mức rủi ro vừa phải, dẫn đến việc xuất hiện các nhà quản lý e ngại
rủi ro. Nên đối với người đại diện hành động theo nhiệm vụ được giao vì lợi ích của
những người khác thì họ sẽ cần đến động lực phù hợp như được hưởng kết hợp một số lợi
ích về vật chất, tinh thần hoặc bị bắt buộc thực hiện trách nhiệm, nhiệm vụ được uỷ thác.
Thông thường với nhiều quyền tự chủ, nhiều động lực từ vật chất và tinh thần thì người
đại diện hay được ủy quyền sẽ làm việc hiệu quả và đầy đủ hơn nhiệm vụ mà người chủ
sở hữu giao cho, còn việc trừng phạt có tính cưỡng bức thì hiệu quả sẽ thấp hơn. Từ lý
thuyết trên, HĐQT muốn thúc đẩy các CEO tăng rủi ro lên nhằm hướng tỷ suất sinh lợi
về mức tỷ suất sinh lợi kì vọng cần thành lập một ban đãi ngộ (CC) nhằm xem xét việc
chi trả thù lao, thiết kế để thu hút và giữ chân nhân viên, đồng thời để cung cấp ưu đãi

cho các nhà quản trị không thích rủi ro để họ thực hiện các dự án có mức độ rủi ro mà các
cổ đông trung lập với rủi ro có thể chấp nhận. Một thách thức lớn cho việc quản trị rủi ro
là thiết kế các thỏa thuận đãi ngộ sao cho thúc đẩy các nhà quản lý hành động phù hợp
với khẩu vị rủi ro của các cổ đông trong khi vẫn duy trì một mức độ thích hợp rủi ro cho
công ty (Murphy, 2000). Bởi nếu một người vừa kiêm nhiệm làm CEO, HĐQT và ban
CC thì sẽ phát sinh ra các rủi ro đạo đức. Vì vậy cần thành lập một ban để giám sát quá
trình này, tạo ra một lá chắn tin cậy nhằm ngăn chặn các vi phạm các nguyên tắc quản trị
công ty, đó là lý do ban quản trị rủi ro RC ra đời. Ban (RC) theo dõi mức độ rủi ro của
công ty với tiêu chí mong muốn tối đa hóa lợi nhuận. Các RC cố vấn cho HĐQT về việc
quản lý rủi ro hiện tại và chiến lược phòng ngừa rủi ro trong tương lai của công ty
(Walker, 2009).
Theo lý thuyết phát tín hiệu (Certo, 2003) tổ chức đưa ra những cách thức quản trị
doanh nghiệp tốt, như thành lập các ban ngành, để tạo ra một hình ảnh tốt trên thị trường.
Theo đó giảm thiểu nguy cơ công ty bị định giá thấp bởi các nhà đầu tư hoặc tối đa hóa
tiềm năng nâng cao giá trị công ty. Tuy nhiên, Menon và Williams (1994) lập luận rằng
trong nhiều trường hợp các ban có thể được thành lập để quảng bá cho hình ảnh quản trị
11
doanh nghiệp mà không phục vụ bất kỳ mục đích hữu ích nào cho tổ chức. Do đó, năng
lực và sự tồn tại của các ban đều quan trọng đối với sự thành công của công ty (Akhigbe
và Martin, 2006). Kiến thức chuyên môn về lĩnh vực tài chính của thành viên HĐQT ban
có thể giúp họ giám sát và tư vấn về lĩnh vực mình phụ trách.
2.1.2. Các yếu tố quyết định hiệu quả ban đãi ngộ và ban quản trị rủi ro
Các nhân tố quyết định hiệu quả quản trị của ban đãi ngộ, ban quản trị rủi ro và ban
kiểm toán thì tương tự nhau vì chúng là các ban giám sát của HĐQT. Nghiên cứu này
khảo sát hiệu quả quản trị của RC và CC dựa trên bốn đặc trưng đã được xác định bởi
Xie cùng cộng sự (2003) trong nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hiệu quả của ban
kiểm toán
1
.
Trước tiên, để làm tròn vai trò giám sát của họ, các ban cần phải độc lập với ban

quản lý công ty. ASX CGC khuyến cáo rằng ban đãi ngộ nên bao gồm một phần lớn các
thành viên HĐQT độc lập (ASX CGC, 2007, p. 35). Khuyến nghị này phản ánh một khía
cạnh lý thuyết đại diện rằng các thành viên HĐQT độc lập là những đại diện tốt hơn của
cổ đông và do đó đóng góp tốt hơn vào hệ thống giám sát độc lập của ban quản lý (Fama
và Jensen, 1983; Jensen và Meckling, 1976;. Pincus et al, 1989)
Thứ hai, RC và CC cần phải có các thành viên có chuyên môn trong kinh doanh.
Việc giám sát bởi RC và CC đòi hỏi các thành viên của ban có đủ chuyên môn, phản biện
và thái độ hoài nghi chuyên nghiệp vào quá trình giám sát (Raber, 2003). Một thước đo
đánh giá chuyên môn có thể là thời gian nắm giữ chức vụ (nhiệm kỳ). Chúng tôi cho rằng
khả năng giám sát rủi ro của các thành viên HĐQT liên quan đến nhiệm kì phục vụ trong
HĐQT hoặc trong ngành tài chính.
Thứ ba, RC và CC nên có các cuộc họp thường xuyên, đủ để đảm bảo rằng các vấn
đề liên quan được xem xét một cách kịp thời và hiệu quả. Các ban là phần mở rộng của
HĐQT; do đó, các thành viên HĐQT thường xuyên thiếu thời gian thực hiện các nhiệm
vụ của mình (Lipton và Lorsch, 1992). Các cuộc họp thường xuyên hơn cho phép các vấn
đề tiềm ẩn được xác định, thảo luận và né tránh. Do đó, các cuộc họp thường xuyên sẽ
đem lại kiểm soát rủi rốt hơn.
Cuối cùng, quy mô của các ban đãi ngộ và rủi ro có thể có một tác động vào chức
năng kiểm soát của chúng.
1 Tương tự như ban kiểm toán, RC và CC là các ban giám sát chuyên giải quyết vấn đề đại diện (Xie cùng công sự,
2003)
12
2.1.3. Mối quan hệ giữa mức độ rủi ro với ban đãi ngộ và ban quản trị rủi ro
Hoạt động kiểm soát cuả ban quản trị rủi ro hoặc đãi ngộ (đo bằng quy mô ban, sự
độc lập, kinh nghiệm và hoạt động) được kì vọng sẽ giảm thiểu hành vi không ưa thích
rủi ro của nhà quản lý. Pathan (2009) thấy rằng giám sát chặt của HĐQT các ngân hàng
tương quan cùng chiều với mức độ chấp nhận rủi ro các ngân hàng dựa trên quan điểm
rằng các cổ đông ngân hàng có động cơ chấp nhận các rủi ro hơn và và tìm thấy rằng các
HĐQT ngân hàng nhỏ có tương quan dương với mức độ chấp nhận rủi ro lớn hơn. Các
biến quản trị (sự độc lập HĐQT và mức độ bảo vệ cổ đông) có tương quan ngược chiều

với rủi ro, gợi ý rằng giám sát nghiêm ngặt hơn làm giảm mức độ chấp nhận rủi ro của
ngân hàng.
Vì vai trò của RC là giám sát mức độ rủi ro công ty chúng tôi kỳ vọng rằng một RC
hiệu quả, được xác định bởi cơ cấu của RC, sẽ tương quan với việc duy trì mức độ rủi ro
tương xứng với mức rủi ro mong muốn của công ty. Nói cách khác, chúng ta không kỳ
vọng một mối quan hệ cùng chiều giữa cơ cấu RC và rủi ro công ty. Ngược lại, lý thuyết
đại diện suy luận rằng vai trò của CC là thiết kế các thỏa thuận đãi ngộ để có thể khiến
các nhà quản trị không ưa thích rủi ro thực hiện tất các dự án có rủi ro mà đem lại lợi ích
cho cổ đông. Do đó, sẽ có một tương quan cùng chiều giữa các đặc trưng CC và rủi ro
công ty bởi vì nghiên cứu cho thấy rằng các cổ đông thích rủi ro hơn (Jensen và
Meckling, 1976; Pathan, 2009). Tuy nhiên, điều này không nói lên rằng các cổ đông thích
rủi ro quá mức; Các cuộc thảo luận trước đó dẫn đến giả thuyết sau đây:
H1a. Cơ cấu của ban đãi ngộ tương quan cùng chiều với mức độ rủi ro của các công
ty tài chính.
H1b. Cơ cấu của ban rủi ro tương quan ngược chiều với mức độ rủi ro của các công
ty tài chính

2.2. Thành viên kiêm nhiệm của ban thành viên HĐQT trong RC và CC
Trong khi Bradbury (1990: 22) cho rằng ban kiểm toán làm giảm sự bất cân xứng
thông tin giữa người bên trong và bên ngoài công ty, thì Reeb và Upadhyay (2010) cho
thấy rằng việc tách các thành viên HĐQT theo các ban chuyên trách có thể tạo ra sự bất
cân xứng thông tin giữa các thành viên HĐQT. Tương tự như các chi phí của việc phân
cấp tổ chức, việc hình thành các tiểu ban HĐQT có thể đem đến cho HĐQT những quyết
13
định tối ưu vì thành viên của ban sẽ tập trung vào vùng trách nhiệm cụ thể của họ, thay vì
tập trung vào các mục tiêu tổng thể của quyết định HĐQT. Do đó, chi phí của các tiểu
ban HĐQT là vấn đề phối hợp và thông tin liên lạc. Nghiên cứu này cho rằng một giải
pháp tiềm năng để giải quyết vấn đề này là đảm bảo sự tham gia hỗ trợ lẫn nhau của các
thành viên HĐQT ở các ban, sẽ có một số tác động qua lại với nhau. Ví dụ, một trong
những vai trò của ban quản trị rủi ro là xác định mức độ rủi ro thích hợp mà công ty gặp

phải, trong khi ban đãi ngộ có thể thiết kế các gói đãi ngộ với mục đích gia tăng việc chấp
nhận rủi ro của người quản lý. Do đó, dường như có vẻ các ban này sẽ phải phối hợp và
liên lạc trước khi đưa ra quyết định.
Các ban thường làm việc độc lập để đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp các ban khác nhau được điều hành bởi một nhóm chung (Laux và
Laux, 2009). Trong những trường hợp này, Laux và Laux (2009) cho thấy một mối liên
hệ giữa các thành viên phục vụ cho cả ban đãi ngộ và ban kiểm toán với cấu trúc lương
của nhà điều hành. Cụ thể, các mô hình phát triển bởi Laux và Laux (2009) cho thấy rằng
việc tách các chức năng của các thành viên ban kiểm toán và ban đãi ngộ dẫn đến một tỷ
lệ cao hơn của việc chi trả lương theo thành tích và sau đó làm tăng vai trò giám sát của
ban kiểm toán trong báo cáo tài chính. Điều này là bởi vì khi các thành viên ban đãi ngộ
cũng phục vụ trong ban kiểm toán, họ có xu hướng giảm các đãi ngộ cho CEO để quản lý
quỹ tiền lương bằng cách hạ thấp tiền lương đãi ngộ theo đó sẽ dẫn đến làm giảm đi mức
độ giám sát. Hoitash và Hoitash (2009) kiểm tra bằng thực nghiệm giả thuyết này và tìm
thấy một tỷ lệ thành viên kiêm nhiệm cao thì tương ứng với mức độ các đại ngộ cho CEO
thấp hơn.
Tương tự như vậy, nghiên cứu này xem xét sự phối hợp của các ban giám sát (RC
và CC) là quan trọng. Lý thuyết đại diện dự báo rằng các nhà quản lý, người mà được chi
trả dựa trên hiệu quả hoạt động của công ty có nhiều khả năng sẽ thực hiện tất cả các dự
án có giá trị hiện tại ròng (NPV) dương mà không quá quan tâm về các rủi ro liên quan.
Nếu thiết kế của gói đãi ngộ có khả năng làm giảm hành vi tư lợi thì hiệu quả của CC
đồng nghĩa với việc chấp nhận một mức độ rủi ro cao hơn. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ
có thể khuyến khích việc chấp nhận rủi ro quá mức của nhà quả trị hơn là đầu tư nguồn
lực công ty vào các dự án có rủi ro trung tính (Miller et al., 2002).
14
Lý thuyết định giá tài sản cho thấy rằng mức độ rủi ro không quá nhiều cho các cổ
đông đa dạng hóa trong các công ty phi tài chính vì sự thất bại của một công ty không
ảnh hưởng xấu đến danh mục đầu tư đã được đa dạng hóa của họ. Tuy nhiên, Gordon
(2011, p. 5) cho rằng các cổ đông trong ngành tài chính thích ít rủi ro,vì sự thất bại của
một công ty tài chính có tầm quan trọng trong hệ thống sẽ làm giảm giá trị của danh mục

đầu tư của cổ đông đã đa dạng hóa do sự gia tăng trong phần bù gánh chịu rủi ro hệ
thống. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy rằng thay vì xem xét quản trị rủi ro ở góc độ ngầm
định, các doanh nghiệp có một một quan điểm toàn diện về quản trị rủi ro sẽ nâng cao
hiệu quả hoạt động công ty (Gordon và cộng sự., 2009)
2
. Do đó, thông tin liên lạc và
phối hợp giữa RC và CC là quan trọng đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính
và điều đó có nghĩa là các thành viên HĐQT là thành viên của nhiều ban có thể sẽ hành
động thận trọng hơn để tránh rủi ro quá mức và các mối đe dọa từ sự thất bại của doanh
nghiệp. Vì vậy, khi thiết lập các chính sách đãi ngộ, ban đãi ngộ phải xem xét xem chính
sách của họ có phù hợp với khả năng chấp nhận rủi ro của công ty hay không. Việc giám
sát thành công đòi hỏi phải có thông tin liên lạc với các thành viên trong nội bộ và giữa
các ban (Raber, 2003). Khi các thành viên HĐQT điều hành có kiến thức cụ thể để phục
vụ ban mà họ làm việc, kỳ vọng rằng các thành viên HĐQT làm việc trong cả hai ban sẽ
cho kết quả giám sát tốt hơn trong điều kiện thiết lập các gói đãi ngộ thích hợp và quản lý
rủi ro quá mức. Giả thuyết thứ hai là:
H2: Các thành viên HĐQT điều hành vừa là thành viên của ban đãi ngộ vừa là thành
viên của ban quản trị rủi ro thì sẽ có tương quan ngược chiều với rủi ro.
2 Quan điểm toàn diện về quản trị rủi ro được gọi là quản trị rủi ro doanh nghiệp
15
2.3. Rủi ro và hiệu suất hoạt động của công ty
Theo mô hình định giá tài sản, một nhà đầu tư thông minh không nên quan tâm đến
các rủi ro có thể đa dạng hóa (rủi ro phi hệ thống hoặc rủi ro công ty), vì chỉ có rủi ro
không đa dạng hóa được (rủi ro hệ thống hay rủi ro thị trường) mới được tưởng thưởng.
Hình 1 minh họa hai điều quan trọng. Đầu tiên, một số rủi ro liên quan đến các tài sản
riêng biệt có thể loại trừ bằng cách tạo ra các danh mục đầu tư. Quá trình phân tán khoản
đầu tư vào các tài sản được gọi là sự đa dạng hóa. Nguyên tắc đa dạng hóa cho chúng ta
biết rằng việc phân tán một khoản đầu tư qua nhiều tài sản sẽ loại trừ một số rủi ro, các
rủi ro đó được gọi là “rủi ro có thể đa dạng hóa”. Có một mức rủi ro tối thiểu không thể
bị loại bỏ đơn thuần bằng việc đa dạng hóa. Rủi ro tối thiểu này được gọi tên là “rủi ro

không thể đa dạng hóa ” trong hình 1. Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng trên một tài sản chỉ phụ
thuộc vào rủi ro hệ thống (rủi ro không thể đa dạng hóa) của nó và nó được tính toán dựa
trên mô hình CAPM.
Hình 1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Nguồn: Fundamentals of Investment – Valuation and Management – 5th edition –
Bradford D.Jordan and Thomas W.Miller
16
Một danh mục đầu tư được đa dạng hóa một cách đầy đủ chỉ có thể hạn chế mức độ
nhạy cảm đối với rủi ro hệ thống và mức độ rủi ro hệ thống không bị ảnh hưởng bởi sự
thất bại của bất kỳ một công ty nào. Do đó, tỷ suất sinh lợi bù đắp cho các nhà đầu tư
chấp nhận rủi ro phải gắn với rủi ro của nó trong một danh mục đầu tư. Tức là beta của
ngành tài chính là yếu tố quyết định sự tưởng thưởng cho việc chấp nhận rủi ro hệ thống
của nhà đầu tư (Bodie và các cộng sự, 2009). Dẫn đến, sự thất bại của một công ty tài
chính có tầm quan trọng trong hệ thống sẽ làm tăng khả năng các công ty tài chính khác
cũng sẽ thất bại (Gordon và Muller, 2011) và làm giảm tỷ suất sinh lợi mong đợi trong
ngành tài chính (Gordon, 2011). Gordon và Muller (2011) cho rằng các cổ đông chỉ đầu
tư trong ngành tài chính, hoặc ít nhất là một phần, gánh chịu hậu quả rủi ro phá sản (rủi
ro hệ thống) và thận trọng hơn trong việc chấp nhận rủi ro quá mức. Vì vậy, có một mối
quan hệ ngược chiều giữa rủi ro và hiệu quả hoạt động công ty tại mức rủi ro vượt mức
bởi vì rủi ro gia tăng sẽ dẫn đến sự không chắc chắn trong thu nhập và rủi ro vỡ nợ theo
đó sẽ làm giảm tỷ suất sinh lợi.
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa cơ cấu của các ban và hiệu quả hoạt động tài
chính của các công ty phi tài chính được kết hợp, không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê nào (Ellstrand và cộng sự, 1999), tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều
(Klein, 1998), hoặc một mối quan hệ cùng chiều (Young và Buchholtz,2002). Reeb và
Upadhyay (2010), trong nghiên cứu về 11 loại ban trong công ty phi tài chính, tìm thấy
Nguồn: Fundamentals of Investment – Valuation and Management – 5th edition –
Bradford D.Jordan and Thomas W.Miller
17
rằng ban tài chính, quản trị doanh nghiệp, quan hệ cộng đồng/đa dạng hóa thì có mối

quan hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động của công ty (Tobin Q). Adams và
Mehran(2008) thấy rằng số lượng các ban có mối quan hệ ngược chiều với hệ số Tobin’s
Q, điều này phù hợp với nội dung về chi phí của vấn đề thông tin liên lạc và phối hợp
giữa các tiểu ban của HĐQT.
Gordon và các cộng sự (2009) cho thấy một mối liên hệ cùng chiều giữa rủi ro và
hiệu quả hoạt động thì phụ thuộc vào sự kết hợp giữa quản trị rủi ro và các đặc trưng
doanh nghiệp (gồm 5 yếu tố: (1) environmental uncertainty, (2) industry competition, (3)
firm complexity, (4) firm size, and (5) board of directors’ monitoring). Dựa theo những
suy nghĩ này,chúng tôi không kì vọng dấu giữa đặc trưng của CC hoặc RC và hiệu quả
hoạt động công ty. Thay vào đó, chúng tôi thừa nhận rằng trong những tình huống sự
không chắc chắn cao, chẳng hạn như mức độ rủi ro cao, các công ty cần các ban có năng
lực quản lý và giám sát rủi ro. Rủi ro công ty đề cập đến sự biến động trong thu nhập và
được xác định như là một nguồn gốc của mâu thuẫn công ty (Bathala và Rao,1995). Rủi
ro công ty, như một thước đo của môi trường thông tin công ty và các rủi ro của môi
trường hoạt động kinh doanh, cũng là một nhân tố quan trọng tiềm năng ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động công ty. Trong một nỗ lực để giảm thiểu những rủi ro này, công ty sử
dụng RC và CC nhằm thay đổi rủi ro và nỗ lực định hướng của công ty. Các doanh
nghiệp tìm cách giải quyết vấn đề này bằng cách tổ chức cấu trúc HĐQT (và các ban) để
đảm bảo giám sát đầy đủ hành vi quản lý và hạn chế việc chấp nhận rủi ro quá mức.
Hiệu quả của RC và CC trong việc giám sát và xác định mức độ chấp nhận rủi ro
quá mức phụ thuộc vào cơ cấu và quy mô của các RC và CC đó, theo đó, dẫn đến hiệu
suất hoạt động công ty tốt hơn. Ban đãi ngộ và ban quản trị rủi ro có các đặc trưng quản
trị được đề xuất, sẽ thiết kế các thỏa thuận đãi ngộ tốt hơn và giám sát rủi ro tốt hơn để có
thể thúc đẩy các nhà quản lý đưa ra quyết định tốt hơn, đem lại hiệu quả công ty tốt hơn.
Thành viên các ban cũng được thúc đẩy làm việc tốt hơn vì giá trị của họ trong thị trường
nguồn nhân lực phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả hoạt động của công ty họ(Harrison và
Harrell, 1993). Do đó, việc phát hiện công ty đang chấp nhận rủi ro quá mức sẽ thúc đẩy
các hành động làm giảm mức độ rủi ro và đảm bảo duy trì mối quan hệ cùng chiều giữa
rủi ro và hiệu quả hoạt động. Đơn giản, chúng tôi kỳ vọng rằng một mối quan hệ cùng
18

chiều giữa rủi ro và hiệu quả hoạt động phụ thuộc vào cơ cấu của ban đãi ngộ và ban
quản trị rủi ro. Điều này dẫn đến giả thuyết thứ ba.
H3a. Một mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro và hiệu quả hoạt động phụ thuộc
vào cơ cấu của ban đãi ngộ và ban quản trị rủi ro
Hơn nữa, nếu thành viên kiêm nhiệm làm giảm các vấn đề thông tin liên lạc và phối
hợp của các ban, khi đó chúng tôi kì vọng sẽ nhìn thấy mục tiêu của CC và RC phù hợp
với sở thích rủi ro của cổ đông và một mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro và hiệu quả
hoạt động. Đề xuất này có liên quan đến đề nghị của Gordon (2011, trang 6) rằng ''mặc
dù các cổ đông có thể không nội hóa tất cả các chi phí kiệt quệ mang tính hệ thống tổn
thất được nội hóa của họ là đủ để biện minh cho biện pháp thích hợp để kiểm soát rủi ro
của các công ty tài chính với nhau''. Chúng tôi điều tra xem liệu các thành viên của RC và
CC có phối hợp với nhau để quản lý rủi ro và tỷ suất sinh lợi hay không. Nói cách khác,
các CC có xem xét liệu các gói đãi ngộ thúc đẩy mức độ chấp nhận rủi ro theo khẩu vị rủi
ro của công ty và làm cho hiệu quả hoạt động công ty tốt hơn không? Do đó, sự giám sát
của các ban là cần thiết để hạn chế rủi ro quá mức nhưng các ban phải trao đổi thông tin
và phối hợp để giảm bất cân xứng thông tin và đạt được mục tiêu của cổ đông. Điều này
dẫn đến giả thuyết cuối cùng:
H3b. Có mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro và hiệu quả hoạt động công ty khi
có thành viên HĐQT vừa là thành viên của quản trị ban rủi ro và ban đãi ngộ.
3. Phương pháp
3.1. Chọn mẫu
Có 265 công ty trong lĩnh vực tài chính năm 2008 được niêm yết trên sàn chứng
khoán Úc (ASX, 2010). Lĩnh vực này bao gồm các công ty tài chính đa ngành, ngân
hàng, bảo hiểm, công ty bất động sản, và ủy tín thác đầu tư bất động sản. Các công ty lĩnh
vực tài chính được xác định trong nghiên này bởi vì chúng hoạt động trong một môi
trường rủi ro hơn so với các ngành khác (Pathan, 2009) và thường bị loại ra trong các
nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp. Mẫu bao gồm một bộ dữ liệu bảng không cân đối
của 317 công ty được niêm yết tại ASC trong lĩnh vực tài chính giai đoạn 2006 đến 2008
(711 quan sát) dựa trên sự sẵn có của dữ liệu liên quan. Dữ liệu thu thập về các đặc trưng
quản trị doanh nghiệp (bao gồm các đặc trưng của ban) đươc thu thập thủ công từ báo cáo

thường niên của công ty ở mục 4. Các biến tài chính được cung cấp bởi Aspect
19
FinAnalysis. Thước đo rủi ro được lấy từ dịch vụ đo lường rủi ro của Trung tâm nghiên
cứu tài chính (Centre for Research in Finance -CRIF) của trường kinh doanh Úc, Đại học
New South Wales.
Liên kết với nghiên cứu trước đây, chúng ta xác định đặc trưng của các doanh
nghiệp mà thành lập một RC hoặc CC (Subramaniam cùng cộng sự, 2009; Yatim, 2010).
Sau đó mẫu được phân chia thành mẫu phụ là mẫu có ban quản trị rủi ro và mẫu có có
ban đãi ngộ. Có 236 quan sát (126 doanh nghiệp) có một ban quản trị rủi ro, 337 (156
doanh nghiệp) có một ban đãi ngộ, và có 185 quan sát (96 doanh nghiệp) có cả hai ban để
kiểm định các giả thuyết.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Có hai biến phụ thuộc trong nghiên cứu này: rủi ro (BETA) và kết quả hoạt động
của doanh nghiệp (LNEPS). Phương pháp đo lường rủi ro chính của chúng tôi là beta.
Beta là hệ số gốc được lấy từ một phương trình hồi quy tuyến tính đơn giản của tỷ suất
sinh lợi cổ phiếu của công ty theo tỷ số thị trường, cả hai được đo lường bằng độ lệch so
với tỷ lệ lãi suất phi rủi ro. Beta đo lường rủi ro thị trường và có giá trị trung bình là 1.
Một chứng khoán của beta cao (beta cao hơn 1) là chứng khoán mà tương đối nhạy vảm
với biến động thị trường, và một chứng khoán có beta thấp (beta nhỏ hơn 1) được xem
như tương đối ít nhạy cảm. Thước đo này được điều chỉnh đối với giao dịch thưa thớt.
Một thước đo rủi ro khác, chúng tôi sử dụng rủi ro tổng thể được tính toán như độ lệch
chuẩn của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu hằng ngày cho mỗi năm tài khóa (STD.DVE). Nó
được đo lường bằng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu công ty và được thể hiện
như một tỷ suất sinh lợi hằng tháng được tính toán từ tỷ suất sinh lợi cổ phiếu (kết hợp
liên tục) đối với cổ phiếu của công ty.
3
Mối quan hệ giữa rủi ro và hiệu hoạt động của doanh nghiệp được nghiên cứu
rộng rải bởi những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, kinh tế học, kế
toán và tài chính. Mô hình định giá tài sản tổng quát chỉ ra rằng các cổ đông được đền bù
3 Được đo lương qua một giai đoạn 4 năm kết thúc tại ngày cân đối kế toán hàng năm của công ty. Tất cả tỷ suất

sinh lợi hàng tháng có thể đo lường trong khoảng bốn năm được đưa vào. Tỷ suất sinh lợi hàn tháng đo lường tổng
tỷ suất sinh lợi cổ đông đối với công ty, có tính đến tác động của những thay đổi vốn hóa khác nhau như phát hành
cổ phiếu thưởng, phát hành renounceable and non-renounceable, chia tách cổ phần, hợp nhất và chia cổ tức.
20
do gánh chịu rủi ro bằng cách nhận được tỷ suất sinh lợi cao hơn. Mặc dù có một số
phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động doanh nghiệp được sử dụng trong nghiên cứu
trước, nhưng chúng tôi chọn thu nhập trên mỗi cổ phần của doanh nghiệp (EPS) bởi vì
(1) rủi ro dựa trên thu nhập được dử dụng trong phân tích và EPS cũng phản ánh thu nhập
của doanh nghiệp, (2) EPS có thể bị ảnh hưởng bởi hành vi quản trị rủi ro của doanh
nghiệp, đây là điểm nhấn mạnh của nghiên cứu này và (3) là một thước đo hiệu quả mà
phổ biến giữa các công ty tài chính do đó có thể so sánh được. Nghiên cứu trước cũng sử
dụng phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động tài chính của ngành tài chính
(Doucouliagos et al., 2007; Luo, 2003). Chúng tôi cũng sử dụng tỷ suất sinh lợi thị
trường trong kiểm định tính vững.
Chúng tôi nghiên cứu chính thức giả thuyết 1-3 sử dụng mô hình hồi quy bình
phương nhỏ nhất suy rộng có tính đến tác động ngẫu nhiên (random effects generalised
least square – GLS) với sai số chuẩn clustered – robust (cũng tương tự như Huber –
White) để kiểm soát bất cứ sự phụ thuộc theo chuỗi trong dữ liệu (Gow cùng cộng sự,
2010, Petersen, 2009). Kết quả của kiểm định Hausman xác định mô hình hồi quy GLS
tác động ngẫu nhiên là phù hợp với dữ liệu bảng. Dữ liệu bảng thường có sự tương quan
theo chuỗi và chéo, do đó vi phạm giả thuyết độc lập trong sai số hồi quy (Gow cùng
cộng sự., 2010). Vì vậy, sai số chuẩn clustered được xem là không thiên lệch khi có tính
đến sự phụ thuộc của phần dư (Petersen, 2009). Theo Petersen (2009), sai số chuẩn
clustered robust được hiệu chỉnh để thể hiện tác động theo năm (biên giả theo năm được
đưa vào), không có giả định cấu trúc tham số đối với sai số within-cluster, do đó tác động
cá thể của từng doanh nghiệp có thể thay đổi theo cả không gian và thời gian. Chúng tôi
đưa biến giả cho mỗi giai đoạn (để giảm bớt tác động thời gian) và sau đó hội tụ theo
doanh nghiệp.
Định nghĩa của biến độc lập và biến kiểm soát được trình bày trong bảng 1. Các
mô hình được thực hiện riêng lẻ cho mỗi ban, và cả hai ban. Mô hình ban quản trị rủi ro

và đãi ngộ như sau:
21
Bảng 1. Định nghĩa các biến
Biến Đo lường
Biến phụ thuộc
BETA Rủi ro thị trường là hệ số gốc của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu của công ty
được điều chỉnh đối với giao dịch thưa thớt
LNEPS
t+1
Hàm log tự nhiên của lợi nhuận ròng sau thuế trước các khoản mục bất
thường và trừ đi lợi tức cổ phiếu bên ngoài và cổ tức cổ phần ưu đãi bị
pha loãng bởi số lượng cổ phần bên ngoài trong năm t+1
Biến độc lập
Đặc trưng ban được rút ra từ số điểm COMFAC đối với tính hiệu quả của CC và RC
COMFAC Phân tích nhân tố chính của năm thành phần.
CC/RC IND Phần trăm các thành viên HĐQT độc lập trong tổng các thành viên
HĐQT trong ban
CC/RC PRO Phần trăm các thành viên HĐQT có trình độ chuyên môn trong tổng
thành viên HĐQT trong ban
CC/RC SENIORIND Phần trăm các thành viên HĐQT có hơn 10 năm kinh nghiệm trong
ngành trong tổng số thành viên HĐQT trong ban
CC/RC SENIORBoD Bằng 1 nếu một ban có thành viên HĐQT có trên 10 năm kinh nghiệm
trong HĐQT, và bằng 0 nếu ngược lại
CC/RC MEET Số lượng cuộc họp được ban tổ chức trong 1 năm
Chúng tôi sử dụng để đại diện cho RC hoặc CC trong phương trình và các biến theo RC và
CC riêng lẻ
COMSIZE Số lượng giám đôc trong RC và CC
DUAL Bằng 1 nếu một thành viên kiêm nhiệm cả hai ban RC và CC, bằng 0
nếu ngược lại
Các điểm tương tác

COMFAC*BETA Tương tác giữa COMFAC và BETA
COMSIZE* BETA Tương tác giữa COMSIZE và BETA
DUAL*BETA Tương tác giữa DUAL và BETA
Các biến kiểm soát
COMCEO Biến giả bằng 1 nếu CEO cũng là 1 thành viên của RC hoặc CC
LNEPS
t
Log tự nhiên của thu nhập hiện tại trên mỗi cổ phần trước những
khoản mục bất thường tại năm t
LNASSET Log tự nhiên của tổng tài sản doanh nghiệp tính bằng triệu dollar
LEVARAGE Tỷ số của tổng nợ trên tổng tài sản
BSIZE Tổng số thành viên HĐQT trong HĐQT
YEAR Biến giả cho các năm 2006, 2007, 2008,…
SEGMENT Biến giả bằng 1 nếu công ty là ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm,
REIT hoặc bất động sản, bằng 0 nếu ngược lại.
22
3.2.1. Các biến phụ thuộc
Để thông tin liên lạc một cách hiệu quả và tránh được những vấn đề trách nhiệm
rườm rà, các ban thường có quy mô tương đối nhỏ. Mặc dù ASX CGC cho rằng ban đãi
ngộ nên có tối thiểu ba thành viên, nhưng lại không khuyến khích như vậy cho ban quản
trị rủi ro. Có hai trường phái tư tưởng liên quan đến quy mô tối ưu của ban. Khi tăng quy
mô, sẽ làm tăng chi phí về vấn đề thông tin liên lạc kém, pha loãng trách nhiệm và đưa ra
những quyết định không hiệu quả (Yermack, 1996). Ngược lại, một ban lớn hơn có kiến
thức sâu hơn và kỹ năng đa dạng cần thiết cho quản trị rủi ro và giám sát các hoạt động
đãi ngộ. Do đó, quy mô của các ban cần được liên kết với khả năng của nó để giám sát
rủi ro. Để phù hợp với các nghiên cứu trước đó, quy mô ban là tổng số các thành viên ban
(Hoitash và Hoitash, 2009; Petra và Dorata, 2008; Sun et al., 2009). Chúng tôi không đưa
ra dự đoán về chiều tương quan giữa quy mô và rủi ro hoặc hiệu quả hoạt động vì chưa
có bằng chứng thống nhất về sự tương quan là cùng chiều hay ngược chiều.
Tương tự như nghiên cứu quản trị trước đó (ví dụ như Sun et al., 2009), chúng tôi

phát triển một số nhân tố (COMFAC) đo lường đặc trưng RC và CC bằng cách sử dụng
phương pháp nhân tích nhân tố chính (PCA) cho năm trong sáu thước đo đặc trưng riêng
của các ban. Chúng tôi loại trừ quy mô ban (COMSIZE) trong các phân tích nhân tố do
sự mập mờ giữa lý thuyết và thực nghiệm để xem liệu ban lớn hay nhỏ là giám sát tốt
hơn. Ngoài ra, những giá trị nhỏ trong (việc phát hiện ra cấu trúc phân tích nhân tố chỉ ra
rằng quy mô ban nào không phù hợp với các yếu tố giải pháp) phân tích cấu trúc nhân tố
phát hiện ra rằng quy mô ban không phù hợp với factor solution và cần được loại khỏi
phân tích. Sử dụng một nhân tố đại diện vì nó rút trích một phần chung trong năm đặc
trưng của ban. Nhân tố căn bản thể hiện đặc trưng của các ban mô tả hoạt động quản trị
được thiết kế trong tài liệu và chúng tôi kỳ vọng nhân tố này sẽ có mối quan hệ cùng
chiều với rủi ro và hiệu quả hoạt động.
23
Sự độc lập của các ban (CC / RCIND) được đánh giá theo đúng định nghĩa của
ASX CGC (2007: 16) về một thành viên HĐQT độc lập. Thông tin này được tiết lộ, hoặc
trong báo cáo quản trị doanh nghiệp hoặc báo cáo của thành viên HĐQT trong Báo cáo
thường niên của công ty. Thước đo này được xây dựng dựa trên tỷ lệ các thành viên
HĐQT độc lập trong ban (Anderson và Bizjak, 2003; Vafeas, 2003a). Phù hợp với các
nghiên cứu trước (Klein, 2002;. Xie et al, 2003), chúng tôi đo lường hoạt động các ban sử
dụng tần suất các cuộc họp (CC / RCMEET) như là một đại diện proxy.
Ban lãnh đạo đã gọi cho nhiều chuyên gia tài chính trong Ban thành viên HĐQT
hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây và sự gia tăng các vụ bê bối kế toán
(Güner et al., 2008). Các giả định cơ bản chỉ ra rằng các thành viên HĐQT với một sự
hiểu biết tốt hơn về nguyên tắc và chuẩn mực tài chính sẽ được trang bị tốt hơn để thực
hiện vai trò giám sát của họ để tránh các nguy cơ rủi ro.Những nghiệp vụ chuyên môn
của các thành viên riêng biệt của ban (CC / RCPRO) được đo bằng cách xác định trình độ
chuyên môn kế toán hoặc tài chính (ví dụ, chứng chỉ hành nghề kế toán (CPA), Kế toán
viên giám định (CA) hoặc Nhà phân tích tài chính độc quyền (CFA)). Đây là biện pháp
phù hợp với những đưa ra của Petra và Dorata (2008) và Sapp (2008), người kiểm tra mối
quan hệ giữa tính chuyên môn của ban và việc chấp hành bồi thường.
Những thành viên HĐQT làm việc lâu năm có khả năng quản lý được rủi ro

chuyên nghiệp vì kinh nghiệm của họ nhiều hơn (ví dụ, Vafeas, 2003b) và bởi vì họ có
nguồn vốn đóng góp vào công ty lớn hơn (Fama và Jensen, 1983). Ngược lại, Bebchuk
và Fried (2006) lập luận rằng các thành viên HĐQT làm việc lâu dài có khả năng trở nên
cố thủ và do đó sẽ theo đuổi những mục tiêu riêng của họ. Những thành viên HĐQT có
nhiệm kỳ còn trong Ban thành viên HĐQT (10 năm hoặc nhiều hơn) có thể có kiến thức
và kinh nghiệm hơn trong hoạt động quản trị rủi ro và đãi ngộ (CC / RCSENIORBoD).
Thước đo này thì phù hợp với Sun et al. (2009). Chúng tôi cũng đo lường trình độ chuyên
môn các ban dựa trên kinh nghiệm làm việc của các thành viên. Những thành viên HĐQT
với nhiệm kỳ dài trong lĩnh vực tài chính sẽ có kinh nghiệm vượt trội trong việc xác định
một mức rủi ro thích hợp cho công ty. Do đó, chúng tôi sử dụng tỷ lệ những thành viên
HĐQT người có 10 năm hoặc hơn kinh nghiệm trong ngành để đo lường chuyên môn ban
(CC / RCSENIORIND).
24
Hoitash và Hoitash (2009) đo lường sự tương tác giữa các ban bồi thường và ban
kiểm toán bằng việc xác định số lượng thành viên hội đồng quản trị, người phục vụ trên
cả hai ban. Nghiên cứu này đo lường sự phối hợp của ban đãi ngộ và ban quản trị rủi ro
bằng cách tạo ra một biến giả để xác định có hay không các thành viên HĐQT người mà
kiêm nhiệm trên cả hai ban.
3.2.2. Các biến kiểm soát
Chúng tôi sử dụng thu nhập trên mỗi cổ phần của năm hiện tại, vì nó có thể có một
tác động vào mức độ của rủi ro hoặc hiệu quả hoạt động (LNEPSt) hiện tại. Quy mô
doanh nghiệp thường được xem như một biến kiểm soát trong các nghiên cứu quản trị
doanh nghiệp trước đó (Devers et al, 2008. Miller et al., 2002; Pathan, 2009; Sun et al.,
2009), vì một sự gia tăng quy mô doanh nghiệp sẽ có khả năng dẫn đến hiệu quả hoạt
động cao hơn, trong khi quy mô doanh nghiệp lại có mối quan hệ ngược chiều với rủi ro
công ty (Pathan, 2009). Chúng tôi lấy log tự nhiên của biến EPS và quy mô doanh nghiệp
(LNASSETS) để chuẩn hóa các số dư. Phù hợp với các nghiên cứu trước đó (ví dụ,
Pathan, 2009) đòn bẩy cũng được xem như là một biến kiểm soát vì nó là một yếu tố
quyết định quan trọng đến nguy cơ phá sản của công ty và do đó nó cũng có liên quan với
khả năng sinh lợi.

Quy mô HĐQT (BSIZE) được đưa vào mô hình như là một biến kiểm soát vì một
HĐQT lớn hơn có nhiều khả năng thành lập các ban (Subramaniam cùng cộng sự, 2009;.
Yatim, 2010) và nghiên cứu trong các lĩnh vực tài chính phát hiện một mối quan hệ
ngược chiều giữa quy mô HĐQT và rủi ro công ty (Pathan, 2009). Thành viên CEO đề
cập đến khi thành viên HĐQT điều hành là một thành viên của CC hay RC (COMCEO).
Trong trường hợp các CEO được tham gia vào CC, họ có thể xác định mức khen hưởng
cho chính họ và có thể họ sẽ thiết kế mức đãi ngộ có lợi cho bản thân, bất kể tác động của
nó đến rủi ro hoặc hiệu quả hoạt động công ty. Tương tự như vậy, sự tham gia của các
CEO trong RC có nghĩa là các CEO đang tích cực tham gia giám sát mức độ rủi ro. Với
những thông tin bên trong nhiều hơn, CEO có thể mang lại cho ban một mức độ chuyên
môn nhất định, làm giảm mức độ rủi ro của công ty. Mặt khác, các thành viên HĐQT
điều hành có nguy cơ hành động một cách cơ hội, thực hiện các hoạt động như xây dựng
25
quyền thế và đa dạng hóa thay đổi quá mức hoặc không liên quan (Baysinger và
Hoskisson, 1990), dẫn đến tăng mức độ rủi ro. Chúng tôi cũng kiểm soát theo năm
(YEAR) và ngành kinh tế (SEGMENT). Phân khúc khác nhau có thể có các quy định
khác nhau và do đó có thể không phải là một nhóm đồng nhất để thử nghiệm các giả
thuyết.
4. Kết quả
4.1. Thống kê mô tả biến:
Bảng 2 trình bày thống kê mô tả cho các biến liên quan đến rủi ro, đặc trưng công
ty, hiệu quả hoạt động của công ty, ban rủi ro và đãi ngộ. Trong 711 quan sát, có 47% thể
hiện sự tồn tại của CC trong báo cáo thường niên của công ty. Có 33% các công ty chỉ có
RC và 26% có cả hai ban. Mặc dù sự tồn tại của ban quản trị rủi ro và đãi ngộ được kỳ
vọng sẽ cải thiện hiệu quả của hệ thống quản trị (ASX, CGC, 2007), nhưng các công ty
tài chính lại thường khộng chọn thành lập những ban như vậy.
Hệ số beta có giá trị trung bình là 1.27, cho thấy một mức độ rủi ro thị trường cao
đối với các doanh nghiệp tài chính trong giai đoạn 2006-2007. Giá trị trung bình của độ
lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi hằng tháng (STD.DEV) cho toàn bộ mẫu gồm 711 quan
sát là 10.60, ngụ ý một biến động lớn trong tỷ suất sinh lợi của các công ty tài chính. Đặc

trưng của ban đãi ngộ bao gồm một SIZE trung bình là 3.20
4
. Phần trăm các thành viên
HĐQT độc lập trong CC là 75%
5
. 20% mẫu có ít nhất một thành viên HĐQT từ có kinh
nghiệm trong HĐQT ít nhất 10 năm và 73% trong CC có thành viên có kinh nghiệm ít
nhất 10 năm trong ngành. Về trung bình, 28% thành viên CC có trình độ chuyên môn về
kế toán hoặc/ và tài chính. Trung bình số lượng các cuộc họp CC trong giai đoạn 2006-
2008 là 2.91
6
và 6% CEO là thành viên của ban trong mẫu CC.
Liên quan đến đặc trưng ban quản trị rủi ro, số lượng thành viên trung bình là
4 Có 2 CC chỉ có một thành viên. Có 71 trường hợp (9.96%) CC có ít hơn số lượng thành viên tối thiểu (3 người)
được đề nghị bởi ASXCGC
5 Những kết quả không được báo cáo chỉ ra rằng 20.2% có một CC chỉ gồm những thành viên HĐQT độc lập trong
khi chỉ 1.26% không có các giam đốc độc lập trong CC
6 Một, hai và ba CC không có cuộc hoặc nào trong tương ứng trong năm 2006, 2007 và 2008. Tất cả các ban này
đều có trên hai thành viên

×