Khái niệm : Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của
công dân, tổ chức Việt Nam có chung mục đích tập hợp, hoạt động theo
pháp luật và theo điều kệ không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng những lợi ích
chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý
xã hội.
Điều 62 Hiến pháp năm 1992 quy định : “Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập
hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Công dân Việt Nam có quyền
lập hội theo quy định của pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để
các tổ chức xã hội ra đời, tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của
đất nước trên mọi lĩnh vực dựa vào nền tảng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thì quyền tự do, dân chủ của công dân ngày càng được chú
trọng mở rộng và được nhà nước bảo vệ; đất nước ta đang hội nhập quốc
tế cũng là tác nhân cho sự ra đời và phát triển hàng loạt các tổ chức xã
hội. Sự ra đời của các tổ chức dựa trên sự tự nguyện của các công dân,
người dân ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với bản thân ,
xã hội nên tự nguyện tham gia và hoạt động dựa trên nguyên tắc tự quản
của những thành viên tham gia nhằm đảm bảo lợi ích của cá nhân và xã
hội. Họ tự tổ chức lại để phát huy năng lực sáng tạo, thực hiện các ý
tưởng và để tương tác với nhà nước nhằm đạt tới một xã hội dân chủ,
công bằng và văn minh.
Sự ra đời, tồn tại, phát triển của các tổ chức xã hội có ý nghĩa quan
trọng đối với đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Đối với
chính trị, tổ chức xã hội là chỗ dựa của chính quyền nhân dân. Với vai trò
hội tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tổ
chức góp phần ổn định chính trị tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện
quản lý xã hội. Tổ chức xã hội đại diện cho nhiều tầng lớp , giai cấp trong
xã hội Việt Nam, thay mặt quần chúng nhân dân thực hiện quyền lực
chính trị thông qua việc tuyên truyền giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh
chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thu
hút nhând ân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Ngoài ra, tổ
chức xã hội còn có ý nghĩa tăng cường khả năng hoạt động kinh tế- xã hội
của công dân. Thông qua các tổ chức xã hội, công dân có điều kiện hơn
trong việc thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình. Bên
cạnh đó, các tổ chức xã hội còn góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước , phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Mỗi tổ chức xã hội có những hoạt động, điều lệ khác nhau nhằm
duy trì sự tồn tại, phát triển và mục đích của tổ chức. Song, các tổ chức
đều có những đặc điểm chung, để phân biệt với các cơ quan nhà nước và
các tổ chức kinh tế.
Đặc điểm:
1. Các tổ chức xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện
của những thành viên cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp, nghề
nghiệp, sở thích…. Công dân có quyền tham gia hoặc không tham gia vào
tổ chức xã hội, không bị ép buộc bởi người khác. Tuy nhiên, một số tổ
chức xã hội lại có những điều kiện nhất định đối với những người muốn
tham gia. Ví dụ như Điều 1 Điều lệ Công đoàn Việt Nam 2003 quy
định : “Công nhân viên chức lao động Việt Nam làm công, hưởng lương;
người lao động tự do hợp pháp, không phân biệt nghề nghiệp, nam nữ, tín
ngưỡng, nếu tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam, tự nguyện sinh hoạt
trong một tổ chức cơ sở của công đoàn, đóng đoàn phí theo quy định thì
được gia nhập công đoàn.”
Nhà nước không tham gia vào việc kết nạp hay khai trừ các thành
viên của tổ chức xã hội, điều này phụ thuộc vào tổ chức xã hội và những
người muốn tham gia quyết định. Những người có chung dấu hiệu đặc
điểm sẽ tập hợp một tổ chức xã hội để đảm bảo quyền và lợi ích của họ,
như : cùng giai cấp- Hội nông dân Việt Nam, cùng độ tuổi – Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh…
2. Các tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia
hoạt động quản lý nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật
quy định tổ chức xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước. Đặc điểm
này của tổ chức xã hội xuất phát từ nguyên nhân tổ chức xã hội không
phải là bộ phận trong cơ cấu của bộ máy nhà nước. Nhà nước thừa nhận
và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội bằng việc quy định các quyền
và nghĩa vụ pháp lý của chúng. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ đó phải
nhân danh mình, trong một số trường hợp nhà nước cho phép nhân danh
nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước, khi đó quyết định của tổ chức
sẽ có hiệu lực với các thành viên bên ngoài tổ chức đó. Còn khi không
được nhà nước trao quyền thì chỉ có hiệu lực với các thành viên trong tổ
chức.
3. Các tổ chức hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và
theo điều lệ do các thành viên của tổ chức xây dựng.
Nhà nước không tham gia vào hoạt động của tổ chức xã hội như
việc giải thể, ra khỏi tổ chức hay việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của
các tổ chức xã hội, kể cả cử người lãnh đạo cụ thể của tổ chức hoàn toàn
do các thành viên của tổ chức quyết định. Tổ chức tự quản lý công việc
nội bộ của mình, từ việc đề ra cương lĩnh, điều lệ, chủ trương, phương
hướng hoạt động đến các hoạt động cụ thể. Tuy nhiên, việc thực hiện
nguyên tắc này không được trái pháp luật. Nhà nước đặt ra các quy định
về các tổ chức xã hội ( quy chế pháp lý hành chính của tổ chức xã hội)
nhằm tạo ra các đảm bảo về tư tưởng, tổ chức, pháp lý và vật chất cho tổ
chức và hoạt động của họ.
4. Các tổ chức xã hội hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận
mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Đây là
đặc điểm để phân biệt tổ chức xã hội với tổ chức kinh tế.
Các tổ chức xã hội có vai trò giáo dục và tuyên truyền ý thức pháp
luật cho nhân dân, đây là mục đích mà các điều lệ và hoạt động của tổ
chức xã hội hướng tới. Đồng thời, tổ chức xã hội còn đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của các thành viên tham gia, đòi hỏi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải bảo vệ.
Một số tổ chức được thành lập và hoạt động nhằm thỏa mãn nhu
cầu về văn hóa, xã hội của các thành viên hay để trao đổi kinh nghiệm, sở
thích ( Hội vui tuổi già, hội những người yêu thể thao…). Các tổ chức xã
hội có thể làm kinh tế để gây quỹ hoạt động, nhưng đây không phải hoạt
động chính của tổ chức xã hội.
Qua sự phân tích về khái niệm và đặc điểm của các tổ chức xã hội
ta thấy rõ được vị trí, vai trò của tổ chức xã hội đối với đất nước và đời
sống xã hội. Sự phát triển về số lượng và chất lượng của các tổ chức xã
hội góp phần đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân và sự
phát triển toàn diện của xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam – trường ĐH Luật Hà Nội –
NXB Công an nhân dân.
2. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam – ĐH Quốc gia Hà Nội – Khoa
Luật – PGS.TS Nguyễn Cửu Việt – NXB ĐH Quốc gia Hà Nội –
2005
3. Giáo trình Luật Hành chính và Tài phán Hành chính Việt Nam – Học
viện Hành chính Quốc gia – NXB Giáo dục.