PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NƠNG DÂN
NGHĨA SĨ TRONG BÀI VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN
GIUỘC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU.
Người nơng dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất
hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười mấy thế kỷ nay. Nhưng
trong văn học, hình ảnh người nơng dân ấy chỉ thực sự xuất hiện
vào nửa cuối thế kỷ XIX với bài văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
của Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật
đầu tiên về người nông dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là hình
tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng, bi thương mà hào
hung như cuộc chiến đấu bi tráng mà nhân dân Việt Nam đã tiến
hành suốt nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, vì cuộc
sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lý, rất sâu sắc khi mở đầu khúc bi
ca của mình:
Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền: lòng dân trời tỏ.
Quả là, qua cuộc đấu tranh này, qua cái thử thách khắc nghiệt
này, bản chất tốt đẹp, tấm lịng u nước của những nơng dân
bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ được bộc lộ
một cách trọn vẹn. Họ vẫn có đấy, vẫn sống đấy, nhưng sống
trong thầm lặng của sự qn lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự
cảm thơng cao độ, nhận ra rằng cuộc sống của họ đã từng vất vả
xiết bao:
Nhớ linh xưa:
Cơi cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
Bao nhiêu lượng thông tin chứa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi
ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông
dân Cần Giuộc, người nông dân lục tỉnh, cũng là người nơng
dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và cô đơn
trong cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa trong thiên
nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng
như, chỉ chừng ấy lo toan vất vả cũng quá đủ đối với họ, tưởng
như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng cịn có thể nghĩ
gì thêm, lo toan gì thêm ngồi những toan lo nghèo khó vốn
đã quá lớn lao ấy.
Thế mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến
tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người
đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy vươn vai, và họ chợt trở
thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mấy nghìn năm
xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ
bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi
từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của
những người nơng dân Cần Giuộc. Nó chính là lịng căm thù sơi
sục vì hành động cướp nước:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nơng
ghét cỏ.
Bữa thấy bịng bong che trắng lốp: muốn tới ăn gan: ngày xem
ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã
làm nảy sinh một khát vọng cao độ: khát vọng đánh giặc. Đó là
ước muốn hồn tồn tự nhiên và hồn tồn tự nguyện:
Nào đợi ai địi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc rat ay bộ hộ.
Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hồn tồn
với người nơng dân chỉ trước đó khơng bao lâu. Bước chân
xuống thuyền, nước mắt như mưa khi phải sung làm lính đi
biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự
nguyện chiến đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của
người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ
Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên
đánh cướp mà động cơ duy nhất:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Trong việc nghĩa, khơng có việc nào lớn hơn việc cứu nước.
Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vơ tư, khơng vụ lợi,
khơng chần chừ, khơng cần đợi có đủ điều kiện mới làm. Đó là
chỗ bi kịch của người nơng dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng
ca của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bi kịch vì:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin qua như
trời hạn trông mưa.
Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến
cùng quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ
lâu nhưng lại án binh bất động một cách khó hiểu. Bi kịch
cịn cho họ là những người:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu,
ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm: tập
khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người
ấy chỉ mang theo những trang thiết bị chỉ đủ để làm những
người cày ruộng.
Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề có đủ tàu sắt tàu
đồng, đạn to, đạn nhỏ, họ chỉ là những người nơng dân khơng
có kiến thức gì về trận mạc, chỉ có một manh áo vải, một
ngọn tầm vơng, chỉ có lưỡi dao phay. Cuộc chiến đấu mới
chênh lệch làm sao! Kết cục cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì
đã rõ rang rồi. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần
Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kỳ
nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài
cả thế kỷ.
Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã
cất lên. Hùng ca trước hết là sự ngoan cường của những con
người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo thất bại để chiến
thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu
hụt, chênh lệch của mình so với kẻ thù:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới,
coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to,
xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có,
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã
chiến đấu như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức
mạnh tinh thần đã phát huy đến mức tối đa và trong một chừng
nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật,
của vũ khí, trang bị:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia:
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai
nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn
kinh
Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả
chưa hề có một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu
của người lính áo vải. Hình ảnh người nơng dân ở đây là sự kết
tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất
của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân
Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.
Quả Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của
người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là
tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể
anh hùng. Khơng có cái tập thể ấy, khơng làm sao có được sự
hịa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp
đảo cái chết, với những đạp rào lướt tới, xô cửa xông
vào, với những kẻ đâm ngang người chém ngược, bọn hè
trước, lũ ó sau như thế được.
Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung
là nghĩa sĩ Cần Giuộc, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều
vơ danh. Họ khơng hề tìm cho mình một điều gì riêng mình khi
chiến đấu. Cái duy nhất họ gửi lại cho đời, điều mà Nguyễn
Đình Chiểu nêu lên như là một tiêu chí chung bên dưới bức
tượng đài của họ, ấy là triết lý sống. Chết vinh hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh: hơn
còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Hoàn thành bức tượng của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một
phần cuối cho những lời ca ngợi, thương tiếc và thắp những nén
hương kính trọng:
Nước mắt ahh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân:
cây hương nghĩa sĩ thấp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn Cần Giuộc của
thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân dân
Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng
thiệt hại mà quả thực họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch
sử dân tộc, bằng lòng u nước thiết tha vơ tư của họ, thì to lớn
vô cùng. Họ sứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất
tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm
vụ của người nghệ sĩ nhân dân tạc nên bức tượng đài ấy.
Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định, Pháp đánh úp Cần
Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23 km về phía Tây Nam.
Ngày 16 tháng 12 năm 1861, nghĩa quân tập kích đồn giặc, hy
sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiểu dùng ngịi bút của của
mình truy điệu những nghĩa quân hy sinh. Qua bài tế văn này,
lần đầu tiên hình ảnh người nơng dân Việt Nam đi vào văn học
thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử vốn có của mình.
Ta hãy cùng phân tích hình tượng người nơng dân nghĩa sĩ qua
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu một
hình tượng nơng dân bình thường mà vĩ đại, vì nước hy sinh, rực
rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ.
Những người nghĩa sĩ ấy xuất thân là nơng dân nghèo khó. Câu
văn mở đầu giới thiệu cuộc đời họ là cui cút, khép lại là nghèo
khó.
Cui cút làm ăn., toan lo nghèo khó.
Trọn vẹn trong đó là hình ảnh những người làm ăn cần mẫn với
những lo toan nhọc nhằn. Họ cũng chất phác, thật thà.
Chưa quen cùng ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trân,
ở trong làng bộ.
Những con người ấy suốt cuộc đời tầm mắt chưa nhìn qua khỏi
lũy tre làng, quanh năm cặm cụi với ruộng đồng, con trâu lưỡi
cày. Câu kế tiếp liệt kê những công viêc nặng nhọc phủ vây con
người lam lũ này:
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm:
Họ khơng biết chút gì về chiến trận:
Tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ,
những người nông dân hiền lành, tăm tối ấy, dù hoàn toàn xa lạ
với trận chiến binh đao, bỗng chốc trở thành người chiến sĩ anh
hùng đánh Tây. Đó là sự phi thường với bản thân họ, nhưng
cũng là lẽ bình thường khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.
Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn muoi tháng. Người
dân mong chờ triều đình đánh giặc, nhưng trông tin qua như trời
hạn trông mưa. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, mùi tinh
chiên vấy vá đã ba năm, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó
như nhà nơng ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ cho sạch.
Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mắt, toàn màu gay gắt, các lều
trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả
khói đen xì, lịng căm ghét chuyển thành căm thù, nên họ muốn
tới ăn gan, muốn ra cắn cổ. Những động từ mạnh mẽ muốn
ăn muốn cắn diễn tả mức độ căm thù lên đến tột đỉnh.
Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem
ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ, muốn tới ăn gan: ngày
xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Bên cạnh sự căm thù của tình cảm là sự căm thù của lý trí. Giặc
Pháp lộ ngun hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo,
khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ dê
bán chó. Đất nước văn hiến của ta khơng phải là vùng đất vô
chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu, cho nên
dân ta há để chúng n, thiên lý chói lịa đâu dung tha bọn xâm
lược. Cả tình cảm lẫn lý trí đều nỗi giận, và do ý thức trách
nhiệm, người nông dân tự nguyện đứng lên đánh giặc. Họ ra
sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kinh, bộ hổ:
Trong trận tập kích đồn Cần Giuộc này, họ là những người dũng
sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn mười tám ban võ nghệ, cũng
không chờ bày bố chin chục trận binh thư. Những người nông
dân ấy cũng không chuẩn bị quân trang, nào đợi mang bao tấu
bầu ngòi, chi nài sắm dao tu nón gõ. Vũ khí chỉ là ngọn tầm
vơng vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay, vốn là
những vật dụngntrong sinh hoạt hàng ngày: nhưng khi ở trong
tay người chiến sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô cùng lợi hại,
đốt xong nhà dạy đạo kia, chem. Rơi đầu quan hai nọ. Biện pháp
đối lập ( giặc thì đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng, cịn ta thì
ngọn tầm vơng, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu
của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quan sự
hơn ta gấp nhiều lần.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới,
coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to,
xô cửa xôngvào liều như mình chẳng có .
Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm chi mã tà, ma ní kinh
hồn, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng sung nổ.
Nhiều cụm động từ diễn tả những động tác liên tục chống đỡ,
công thủ mọi hướng, đạp rào lướt tới, xô của xơng vào, đâm
ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế câu đối nhau chan
chat, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ
phút căng thẳng cao độ của trận đánh được mô tả cực kỳ sinh
động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hy sinh gan dạ của
người nghĩa sĩ.
Sự hy sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vơ cùng cảm kích:
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng: đâu biết xác phàm vội bỏ!.
Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người
chiến sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi
gươm hùm treo mộ. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không
gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót.
Biện pháp ẩn dụ này cỏ ây mấy dặm sầu giăng và hình ảnh tả
thực già trẻ hai hàng lụy nhỏ đã nói lên tình cảm bi thương đó.
Càng thương hơn khi người ta hiểu được động cơ hy sinh vô
cùng cao quý của nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của
quên hương, hạt cơm manh áo của nhân dân, không chịu làm nô
lện, nên quyết tâm đánh giặc, dù phải hy sinh.
Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh.
Cũng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân.
Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, mắc mớ chi ơng cha nó, nhưng
cũng do triều đình hèn nhát, do bọn người theo dân tả đạo, ở
lính Mã tàNgười nghĩa sĩ hy sinh thì bớt được mối hờn được
trả, tấm lòng son sang mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của
họ cũng sẽ phơi pha, trơi theo ding nước đổ. Nhà thơ cịn nghĩ
đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương.
Tiếng khóc của tác giả có bi thương nhưng khơng bi lụy.Đây là
dịng nước mắt khóc người anh hùng như đang long lanh hình
ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc thác
cũng đánh giặc nên hồn thiêng nghĩa sĩ hay theo giúp cơ binh để
đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi. Lời khấn nguyện như đang
thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến
đấu diệt thù.
Binh tướng nó hãy đóng song Bến Nghé, ai làm nên bốn phía
mây đen, ơng cha ta cịn ở đất Đồng Nai, ai cứ đặng một phường
con đỏ.
Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân đã trở thành người
anh hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé
nhỏ, côi cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng
vì họ dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay,
manh áo vải. Họ còn anh hùng hơn nếu so với thái độ sợ giặc,
hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ đã
gánh trên vai cả gánh nặng lịch sử một thời khổ nhục nhưng
vĩ đại.