Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA Ở TIỂU HỌC THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.06 MB, 129 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Biến đổi khí hậu đang là vấn đề được toàn nhân loại đặc biệt quan tâm. Các
nhà khoa học coi đây là một vấn đề môi trường lớn của thời đại. Biến đổi khí hậu
ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Việt Nam được đánh giá là một trong
năm quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu. Trong những năm
qua, nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã phải chịu nhiều thiên tai như
bão lớn, nắng nóng dữ dội, lũ lụt, hạn hán, sóng thần, bão từ, băng giá, nước biển
dâng, Những vấn đề đó đã để lại những hậu quả nghiêm trọng ở mọi lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, đặc biệt là sinh mạng con người
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã và đang có những kế hoạch hành động
để ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhận thức rõ tác động của biến đổi khí hậu, Chính
phủ Việt Nam đã xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với biến đổi khí hậu. Các Bộ, Ngành và địa phương đã và đang xây dựng
kế hoạch hành động để ứng phó với những tác động cấp bách trước mắt và những
tác động tiềm tàng lâu dài của biến đổi khí hậu; nhiều nghiên cứu đã được thực hiện
ở các mức độ khác nhau: Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì Chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2012 – 2015 (Theo Quyết định
số 1183/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 8 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ); Viện
Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi trường (cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và
Môi trường) chủ trì biên soạn “Thông báo quốc gia lần thứ nhất của Việt Nam cho
Công ước Biến đổi khí hậu”, “Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi
khí hậu, kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam”, “Chương
trình khoa học công nghệ quốc gia về biến đổi khí hậu”, các chương trình hợp tác
với UNDP, ADB, WB, DANIDA, JICA, Hà Lan, USA,
Việc ứng phó với những biến đổi khí hậu và việc đưa Giáo dục ứng phó với
biến đổi khí hậu vào giáo dục là một việc làm rất quan trọng, cần thiết và có ý nghĩa
đặc biệt. Ý thức được sự cấp bách của vấn đề, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa Kế
hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành giai đoạn 2011 – 2015 và
1
phê duyệt Dự án “Đưa nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chương trình


Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2011 – 2015”. Tuy nhiên cho đến nay, những nghiên
cứu, tài liệu tham khảo, chương trình giáo dục về vấn đề này vẫn còn ít và chưa
được quan tâm, đầu tư thỏa đáng.
Việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cần phải được tiến hành cho mọi
đối tượng, mọi lứa tuổi. Nhất là đối với học sinh Tiểu học – đối tượng dễ bị ảnh
hưởng bởi những biến đổi khí hậu gây ra do hạn chế về kiến thức, sức khỏe và kinh
nghiệm, Học sinh Tiểu học rất thích tiếp xúc với thiên nhiên và cuộc sống xung
quanh, dễ tiếp thu và hình thành những nền nếp, thói quen, những giá trị tốt đẹp, tạo
cơ sở ban đầu cho việc hình thành nhân cách sau này. Vì vậy việc giáo dục hình
thành ý thức, thái độ, đặc biệt là hành vi đúng đắn bảo vệ môi trường sống, cách
ứng phó và giảm nhẹ hậu quả của biến đổi khí hậu là một việc làm hết sức có ý
nghĩa cần phải được thực hiện ngay từ lứa tuổi tiểu học.
Cũng giống như giáo dục môi trường, giáo dục về biến đổi khí hậu là lĩnh
vực giáo dục đa ngành, đa khoa vì vậy có thể đưa vào trường tiểu học qua các con
đường khác nhau, qua dạy học các môn học và qua các hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp. Việc đưa giáo dục môi trường qua con đường dạy học đã được triển
khai rộng khắp trên phương diện lí luận cũng như thực tiễn giáo dục tiểu học trong
nhiều thập kỉ nay. Đó là việc giáo dục môi trường được thực hiện bởi các tác giả
xây dựng chương trình và sách giáo khoa các môn học và việc tích hợp trong quá
trình dạy học các môn học này bởi giáo viên. Đây cũng có thể là một hướng để áp
dụng đưa giáo dục biến đổi khí hậu vào trong chương trình tiểu học. Tuy nhiên cho
đến nay hướng này còn gặp nhiều bất cập. Việc tích hợp thêm các nội dung giáo dục
mới vào các môn học trong quá trình dạy học trên thực tế đang gây quá tải cho các
bài học của các môn học. Ngoài ra, cách làm này cũng không mang lại hiệu quả
giáo dục môi trường cao, do tính thống nhất của lĩnh vực giáo dục này không được
đảm bảo qua việc tích hợp vào nhiều môn học.
Hơn nữa, việc tích hợp giáo dục môi trường nói chung, giáo dục ứng phó với
biến đổi khí hậu nói riêng qua các môn học chỉ có ưu thế hơn trong việc cung cấp
2
cho người học các kiến thức, kĩ năng cơ sở về môi trường, về biến đổi khí hậu, cách

ứng phó với biến đổi khí hậu, Còn các hành vi, thái độ ứng phó với những vấn đề
cụ thể thì rất khó được thực hiện.
Vậy, làm thế nào để việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu có thể được
tiến hành tốt trong nhà trường tiểu học mà không gây quá tải cho các giờ học các
môn học? Cần tích hợp giáo dục biến đổi khí hậu trong chương trình giáo dục tiểu
học như thế nào để vừa có thể thực hiện tốt lĩnh vực giáo dục này cũng như thực
hiện tốt chương trình giáo dục các môn học? Đây là những vấn đề còn được ít đề
cập đến trong các công trình nghiên cứu.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Giáo dục
ứng phó với biến đổi khí hậu qua hoạt động ngoại khóa ở tiểu học theo quan
điểm tích hợp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu qua hoạt
động ngoại khóa nhằm góp phần nâng cao kết quả giáo dục ứng phó với biến đổi
khí hậu và kết quả học tập các môn học ở trường Tiểu học.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu tổ chức giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua hoạt động
ngoại khóa theo quan điểm tích hợp, đảm bảo nguyên tắc khoa học, nguyên tắc sư
phạm hợp lí thì sẽ góp phần nâng cao kết quả giáo dục ở lĩnh vực này, đồng thời
cũng góp phần củng cố kiến thức, kĩ năng của một số môn học khác.
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu:
- Giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Quan điểm dạy học tích hợp.
- Hoạt động ngoại khóa ở Tiểu học.
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
- Hoạt động ngoại khóa với nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu
theo quan điểm tích hợp.
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của biến đổi khí hậu và giáo dục ứng
phó với biến đổi khí hậu qua hoạt động ngoại khóa theo quan điểm tích hợp.
- Xây dựng nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu qua hoạt động
ngoại khóa ở tiểu học theo quan điểm tích hợp.
- Thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi của việc giáo dục ứng phó với
biến đổi khí hậu qua hoạt động ngoại khóa ở trường tiểu học theo quan điểm tích hợp.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu qua hoạt
động ngoại khóa các môn học Khoa học, Lịch sử - Địa lí, Tiếng Việt các lớp 4, 5
trường tiểu học.
- Phạm vi điều tra: Giáo viên và học sinh của một số trường tiểu học ở tỉnh
Ninh Bình, tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Yên Bái.
- Phạm vi thực nghiệm: Một số trường tiểu học thuộc tỉnh Ninh Bình.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
Trong quá trình nghiên cứu các nguồn tài liệu, các công trình nghiên cứu
khoa học có liên quan đến đề tài như các luận văn, luận án, báo cáo khoa học, các
bài báo, chúng tôi có sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp,
khái quát hóa - hệ thống hóa, nhận xét, phê phán, tóm tắt và trích dẫn những vấn đề
liên quan trực tiếp để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: Điều tra nhận thức của giáo viên về giáo dục ứng
phó với biến đổi khí hậu và về các hình thức đã sử dụng để giáo dục cho học sinh.
- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các hoạt động giáo dục nói
chung và giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu nói riêng cho học sinh ở một số
trường Tiểu học.
- Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, trò chuyện với cán bộ,
giáo viên, học sinh nhằm tìm hiểu quan điểm, sự hiểu biết, thái độ, cách thức tiến
4
hành cũng như những thuận lợi và khó khăn khi giáo dục ứng phó với biến đổi khí

hậu trong các hoạt động ngoại khóa.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại
một số trường Tiểu học ở các khu vực khác nhau nhằm đánh giá tính khả thi của
việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu qua hoạt động ngoại khóa theo quan
điểm tích hợp.
7.3. Nhóm các phương pháp thống kê toán học:
Một số phương pháp thống kê toán học, lập bảng thống kê, lập biểu đồ,
được sử dụng để phân tích về định lượng và định tính kết quả nghiên cứu. Qua đó
nhằm nâng cao tính thuyết phục và tính thực tế của đề tài.
8. Những điểm mới và ý nghĩa thực tế của luận văn
- Đề tài góp phần tổng hợp vấn đề lí luận về giáo dục ứng phó với biến đổi
khí hậu qua các hoạt động ngoại khóa theo quan điểm tích hợp.
- Khái quát được thực trạng giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học
sinh ở trường tiểu học hiện nay.
- Xây dựng nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua hoạt
động ngoại khóa theo quan điểm tích hợp cho học sinh tiểu học.
- Tổ chức một số hoạt động giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu qua hoạt
động ngoại khóa theo quan điểm tích hợp cho học sinh tiểu học.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc giáo dục ứng phó với biến đổi
khí hậu qua hoạt động ngoại khóa ở tiểu học theo quan điểm tích hợp.
Chương II: Tổ chức các hoạt động giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu
thông qua hoạt động ngoại khóa theo quan điểm tích hợp ở tiểu học.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ỨNG
PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA Ở TIỂU

HỌC THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái quát về biến đổi khí hậu
1.1. Biến đổi khí hậu là gì?
Có rất nhiều các tổ chức trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã nghiên cứu và
đưa ra khái niệm về biến đổi khí hậu, như:
"Biến đổi khí hậu Trái Đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí
quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các
nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo" [25, tr.1]
“Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu diễn ra trong một thời gian dài,
có thể ấm lên hoặc lạnh đi, lượng mưa có thể tăng hoặc giảm, gió, các hiện tượng
thời tiết… có thể mạnh lên hoặc yếu đi trong một khoảng thời gian dài” [7, tr.2].
Theo Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC)
thì: “Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu do tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp của hoạt động con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu,
được quan sát trên một chu kỳ thời gian dài”.
“Biến đổi khí hậu là thuật ngữ dùng để chỉ những thay đổi của khí hậu vượt
ra khỏi trạng thái trung bình đã được duy trì trong một khoảng thời gian dài,
thường là một vài thập kỉ hoặc dài hơn” (Bộ Tài nguyên và Môi trường – 2008,
Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, tr.6).
Nói một cách đơn giản, biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu diễn ra
trong một khoảng thời gian dài, có thể là ấm hơn hoặc lạnh hơn, lượng mưa hoặc
lượng tuyết trung bình hàng năm có thể tăng hoặc giảm,… [5, tr.7].
Trong quá khứ, khí hậu Trái đất đã có rất nhiều thay đổi một cách tự nhiên.
Tuy nhiên thuật ngữ “Biến đổi khí hậu” được dùng hiện nay chủ yếu muốn nói tới
sự nóng lên toàn cầu gây ra bởi các hoạt động của con người [5, tr.7].
Như vậy, Biến đổi khí hậu có thể được hiểu đầy đủ là sự thay đổi của khí hậu
đã được diễn ra trong một khoảng thời gian dài làm ảnh hưởng đến đa dạng sinh
6
học trên Trái đất và cuộc sống của con người mà nguyên nhân chủ yếu là do hoạt

động của con người gây ra.
1.2. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu
Có nhiều nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu, có thể tóm tắt một số nguyên
nhân chính sau [6, tr.34]:
*) Nguyên nhân tự nhiên:
- Do sự trôi dạt của các lục địa: Thuyết kiến tạo mảng cho rằng lớp vỏ ngoài
cùng của trái đất được cấu tạo từ các mảng rời, có khả năng di chuyển tương đối so
với nhau trên lớp quyển mềm bên dưới. Sự di chuyển các mảng này dẫn tới sự di
chuyển vị trí của các lục địa. Chính sự di chuyển của các lục địa đã dẫn đến sự thay
đổi khí hậu của các vùng và các Châu lục.
- Do hoạt động của núi lửa và sự va chạm của Trái Đất với các thiên thạch trong
vũ trụ: Các nhà khoa học cho rằng sự va chạm của các thiên thạch với trái đất và sự
phun trào của núi lửa sẽ gây nên những đám mây bụi khổng lồ bao quanh Trái Đất,
ngăn cản các dòng bức xạ Mặt Trời khiến cho Trái Đất trở nên tối tăm và lạnh lẽo,
- Do sự dao động quỹ đạo của Trái Đất: Theo thuyết thiên văn học, khi quay
quanh Mặt Trời trong thời gian dài hàng chục nghìn năm, quỹ đạo của Trái đất sẽ có
những thay đổi. Chính sự thay đổi này dẫn tới sự thay đổi lượng ánh sáng Mặt Trời
xuống bề mặt Trái Đất, ảnh hưởng đến khí hậu và làm thay đổi các mùa, sự phân bố
bức xạ Mặt Trời theo vĩ độ,
- Do chu kì hoạt động của mặt trời: Chu kì hoạt động của Mặt Trời thể hiện
thông qua sự xuất hiện các vệt đen mặt trời (sunspots), làm thay đổi cường độ bức
xạ Mặt Trời. Sự tăng năng lượng mặt trời làm Trái Đất nóng lên và sự giảm năng
lượng Mặt Trời làm Trái Đất lạnh đi.
*) Nguyên nhân do con người:
Có thể thấy rằng các nguyên nhân tự nhiên đóng góp một phần rất nhỏ trong
việc gây ra biến đổi khí hậu. Theo kết quả nghiên cứu và công bố từ Ủy ban Liên
Chính Phủ về biến đổi khí hậu thì nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động của con
người làm gia tăng các chất khí nhà kính.
Khí nhà kính là các chất khí trong khí quyển hấp thụ nhiệt do mặt đất phát
ra và tỏa nhiệt trở lại Trái đất. Các khí này vừa do quá trình tự nhiên lẫn con

người sinh ra [9, tr.8]. Các khí nhà kính chủ yếu bao gồm: hơi nước (H
2
O),
7
cacbon đioxit (CO
2
), metan (CH
4
), các hợp chất halocacbon (CFC, HCFC và
HFC), đinitơ oxit (N
2
O) và ozon trong tầng đối lưu (O
3
). Những khí này giống
như một chiếc chăn ấm có độ dày vừa đủ, giúp giữ ấm cho Trái đất ở trong
khoảng nhiệt độ thích hợp, khiến sự sống có thể phát triển và sinh sôi nảy nở.
Nếu không có những khí này, nhiệt từ Mặt trời sẽ không được giữ lại và bề mặt
Trái Đất sẽ trở nên lạnh hơn rất nhiều [5, tr.11].
Nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát thải một số khí nhà
kính (chủ yếu là CO
2
và CH
4
) quá nhiều là nguyên nhân chính gây nên biến đổi khí
hậu. Đặc biệt, từ khi cách mạng công nghiệp bùng nổ (1950), các hoạt động tạo ra
khí nhà kính ngày càng gia tăng như: tăng cường khai thác và sử dụng các nhiên
liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, ; sản xuất xi măng; chặt phá rừng; chăn nuôi
đại gia súc; sử dụng các hợp chất halocacbon trong công nghệ làm lạnh; sử dụng
quá mức các loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu; [10, tr.39].
Như vậy, sự gia tăng nồng độ các khí nhà kính làm cho Trái đất nóng lên là

nguyên nhân chính dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu. Điều này là do ý thức và
hành động của con người như: chặt phá rừng bừa bãi, lãng phí năng lượng, khai
thác và sử dụng nhiên liệu không đúng cách, sử dụng quá nhiều các chất hóa học
trong trồng trọt và chăn nuôi, dân số gia tăng,
1.3. Những hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Biểu hiện rõ
nhất là sự nóng lên của trái đất, là băng tan, nước biển dâng cao; là các hiện
tượng thời tiết bất thường như bão, lũ, sóng thần, động đất, hạn hán, giá rét kéo
dài,… dẫn đến thiếu lương thực, thực phẩm, kinh tế suy thoái, xung đột và chiến
tranh, mất đi sự đa dạng sinh học, phá hủy hệ sinh thái và xuất hiện hàng loạt
dịch bệnh trên người, gia súc, gia cầm…
Sự nóng lên của Trái đất dẫn đến mực nước biển dâng cao. Nếu khoảng
thời gian 1962 - 2003, lượng nước biển trung bình toàn cầu tăng 1,8mm/năm, thì
từ 1993 - 2003 mức tăng là 3,1mm/năm. Dự báo đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ
trung bình sẽ tăng lên khoảng từ 2,0
0
C - 4,5
0
C và mực nước biển toàn cầu sẽ tăng
từ 0,18m - 0,59m.
8
Theo thống kê, số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt
trong vòng 2 thập kỷ qua. Số cơn bão trên biển Đông ảnh hưởng đến nước ta cũng
ngày càng ít đi nhưng ngược lại số cơn bão mạnh có chiều hướng tăng lên, mùa bão
kết thúc muộn, quỹ đạo của bão trở nên dị thường và số cơn bão ảnh hưởng đến khu
vực Nam Trung bộ, Nam bộ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, số ngày mưa phùn ở
miền Bắc giảm một nửa. Lượng mưa biến đổi không nhất quán giữa các vùng, hạn
hán có xu hướng mở rộng, đặc biệt là ở khu vực Nam Trung Bộ dẫn đến gia tăng
hiện tượng hoang mạc hóa.
Hiện tượng El Nino và La Nina ảnh hưởng mạnh đến nước ta trong vài thập

kỷ gần đây, gây ra nhiều đợt nắng nóng, rét đậm rét hại kéo dài có tính kỷ lục. Dự
đoán vào cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ trung bình ở nước ta tăng khoảng 3
0
C và sẽ tăng
số đợt và số ngày nắng nóng trong năm; mực nước biển sẽ dâng cao lên 1m. Điều
này dẫn đến nhiều hiện tượng bất thường của thời tiết. Đặc biệt là tình hình bão lũ
và hạn hán. Nước biển dâng dẫn đến sự xâm thực của nước mặn vào nội địa, ảnh
hưởng trực tiếp đến nguồn nước ngầm, nước sinh hoạt cũng như nước và đất sản
xuất nông - công nghiệp. Nếu nước biển dâng lên 1m sẽ làm mất 12,2% diện tích
đất là nơi cư trú của 23% dân số (17 triệu người) của nước ta. Trong đó, khu vực
ven biển miền Trung sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề của hiện tượng biến đổi khí hậu và
dâng cao của nước biển. Riêng đồng bằng sông Cửu Long, dự báo vào năm 2030,
khoảng 45% diện tích của khu vực này sẽ bị nhiễm mặn cục bộ và gây thiệt hại mùa
màng nghiêm trọng do lũ lụt và ngập úng. Nếu không có kế hoạch đối phó, phần lớn
diện tích của đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập trắng nhiều thời gian trong năm và
thiệt hại ước tính sẽ là 17 tỷ USD.
Biến đổi khí hậu còn kéo theo sự thay đổi của thời tiết, ảnh hưởng trực tiếp
đến cây trồng, sản xuất nông, lâm, công nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy - hải
sản. Đặc biệt là sự xuất hiện của dịch bệnh và khan hiếm về lương thực, nước ngọt.
Dự báo, sẽ có khoảng 1,8 tỷ người trên thế giới sẽ gặp khó khăn về nước sạch và
600 triệu người bị suy dinh dưỡng vì thiếu lương thực do ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu toàn cầu trong những năm tới [23].
9
1.4. Ứng phó với biến đổi khí hậu
Trong báo cáo “Biến đổi khí hậu năm 2001”, Ủy Ban Liên Chính phủ về biến
đổi khí hậu (IPCC) đã nêu ra 2 nhóm chiến lược trong ứng phó với biến đổi khí hậu:
- Chiến lược giảm nhẹ biến đổi khí hậu với nội dung chủ yếu là giảm phát thải
khí nhà kính, đồng thời với việc tăng hấp thụ khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu.
- Chiến lược thích ứng có mục tiêu là ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do các
tác động của biến đổi khí hậu, kể cả biến đổi tự nhiên và biến đổi nhân tạo [6, tr.83].

Theo Tài liệu dạy và học về ứng phó với biến đổi khí hậu (Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Live&Learn, Plan, AusAID) thì:
- “Giảm nhẹ biến đổi khí hậu là ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu thông qua
việc giảm cường độ hoặc mức độ phát thải khí nhà kính” [9, tr.68].
- “Thích ứng với biến đổi khí hậu là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con
người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả năng bị
tổn thương do biến đổi khí hậu và tận dụng các cơ hội do nó mang lại” [9, tr.8].
Hạn chế, giảm thiểu sự phát thải các khí nhà kính nhằm góp phần giảm nhẹ
biến đổi khí hậu là trách nhiệm của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đồng. Bản thân
mỗi người cần nhận thức được trách nhiệm của mình và thực hiện trách nhiệm đó
bằng những hành động, việc làm cụ thể trong cuộc sống hàng ngày. Một số biện
pháp và hành động cụ thể giúp giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu như:
- Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (tắt điện khi không sử dụng, );
- Sử dụng các nguồn năng lượng sạch, các thiết bị tiết kiệm điện (tận dụng
năng lượng mặt trời, sử dụng đèn compact, );
- Thay đổi khẩu phần ăn hàng ngày (hạn chế ăn thịt, ăn nhiều rau xanh, );
- Tiết kiệm năng lượng giao thông giảm thiểu phát thải khí nhà kính (đi bộ,
đi xe đạp hoặc các phương tiện công cộng như xe bus, );
- Tiết kiệm nước;
- Tiết kiệm giấy;
- Hạn chế sử dụng túi ni lông;
- Trồng cây xanh;
- Tìm hiểu và tham gia tích cực các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu
(chiến dịch Giờ Trái Đất, phong trào Hành trình xanh nhằm bảo vệ môi trường, tích
cực tham gia tuyên truyền các vấn đề về biến đổi khí hậu,…);
Những hành động thích ứng với biến đổi khí hậu như: biết tự bảo vệ mình
trước thiên tai; phòng ngừa các dịch bệnh; rèn luyện sức khỏe bảo vệ cơ thể; thay
10
đổi một số thói quen sinh hoạt không hợp lí; Cụ thể các việc làm có thể giúp
chúng ta thích ứng với biến đổi khí hậu:

- Cải tạo hệ thống thủy lợi.
- Thay đổi lịch mùa vụ và các kĩ thuật canh tác.
- Hạn chế tăng dân số.
- Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển.
- Thay đổi các giống cây chịu hạn, chịu lụt.
- Dạy bơi cho trẻ em và phụ nữ vùng lũ lụt.

Như vậy, ứng phó với biến đổi khí hậu chính là những biện pháp, việc làm,
hành động cụ thể của chúng ta nhằm “giảm nhẹ” và “thích ứng” với những hiện
tượng bất thường của thời tiết gây ra. Những biện pháp, việc làm, hành động cụ thể
đó không chỉ giúp chúng ta chống trọi, thích nghi được với các hiện tượng thời tiết
cực đoan mà còn giúp hạn chế sự gia tăng nồng độ khí nhà kính, nguyên nhân chính
gây ra biến đổi khí hậu.
2. Giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu
2.1. Khái niệm
Ứng phó với biến đổi khí hậu: là một quá trình trong đó con người thích ứng
và làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu gây ra và tận dụng cơ hội của nó
mang lại [21, tr.21].
Giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu: là quá trình giáo dục nhằm phát triển
ở người học sự hiểu biết, thái độ quan tâm trước những vấn đề về môi trường nói
chung và biến đổi khí hậu nói riêng, đặc biệt rèn luyện kĩ năng để tự mình và cùng
tập thể đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu trước
mắt cũng như lâu dài [21, tr.22].
Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất, “giáo dục ứng phó với biến đổi
khí hậu” là một hoạt động giáo dục giúp người học có được những kiến thức cơ
bản nhất về biến đổi khí hậu cũng như những tác động của hiện tượng nóng lên
toàn cầu và những hiện tượng thời tiết cực đoan có thể bất ngờ xảy ra, để từ đó
có những kĩ năng, thái độ phù hợp giúp giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí
hậu trong thực tế cuộc sống.
11

2.2. Sự cần thiết phải giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học sinh
tiểu học
Như chúng ta đã biết, biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng phức
tạp và trầm trọng. Những hiện tượng thời tiết bất thường đã và đang làm đảo lộn
cuộc sống của con người. Và Việt Nam được đánh giá là một trong những nước
chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu, do có đường bờ biển dài trên 3260
km. Đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu chính là trẻ em, người
cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ. Trong
những đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất đó thì trẻ em là người chịu ảnh hưởng
lớn nhất do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: chưa đủ sức khỏe, hạn chế về
kiến thức, thiếu kinh nghiệm và khả năng kiểm soát cảm xúc,
Mặt khác, học sinh tiểu học nói riêng với đặc điểm tâm sinh lí đặc trưng là
tò mò, ưa khám phá, thích tiếp xúc với thiên nhiên, mong muốn tìm hiểu cuộc
sống xung quanh mình, Hơn nữa, học sinh tiểu học là lứa tuổi dễ tiếp thu, hình
thành những thói quen, nền nết, những giá trị tốt đẹp, tạo cơ sở ban đầu cho việc
hình thành nhân cách sau này. Do đó việc giáo dục hình thành ý thức, thái độ, đặc
biệt là hành vi đúng đắn bảo vệ môi trường sống cũng như cách ứng phó và giảm
nhẹ hậu quả của biến đổi khí hậu là một việc làm hết sức có ý nghĩa và cần phải
được thực hiện từ sớm.
Ngoài ra, trẻ em nói chung và học sinh tiểu học nói riêng là những thế hệ
nòng cốt, là động lực và nhân tố cơ bản của xã hội trong tương lai. Những hành
động của các em đều có tính động viên, khích lệ lớn đối với mọi người trong gia
đình và những người xung quanh. Do đó, nếu được giáo dục và trang bị những kiến
thức, kĩ năng và thái độ đúng đắn về ứng phó với biến đổi khí hậu, các em sẽ là
những tuyên truyền viên tích cực làm thay đổi hành vi, cách ứng xử của mọi người
đối với môi trường nói chung và với biến đổi khí hậu nói riêng.
2.3. Mục tiêu giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học sinh tiểu học
Giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học sinh tiểu học phải đảm bảo cả
3 mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ. Cụ thể như sau [10, tr.63]:
12

a) Về kiến thức, học sinh:
- Nêu được thế nào là biến đổi khí hậu.
- Kể được một số biểu hiện của biến đổi khí hậu, nêu được một vài ví dụ cụ
thể về biến đổi khí hậu và thực trạng về biến đổi khí hậu trong môi trường sống
xung quanh.
- Nêu được một số nguyên nhân chủ yếu gây biến đổi khí hậu và những tác
động của biến đổi khí hậu đối với cuộc sống xung quanh.
- Kể được các biện pháp tiến hành để hạn chế biến đổi khí hậu trên thế giới
và ở Việt Nam.
b) Về kĩ năng, học sinh:
- Biết quyết định đúng đắn khi đối mặt với mỗi tình huống biến đổi khí hậu
trong cuộc sống và có kĩ năng ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với lứa tuổi
trong mỗi tình huống cụ thể.
- Biết tiết kiệm điện, nước, sách vở, đồ dùng, tham gia trồng cây xanh, bảo
vệ rừng và giữ gìn vệ sinh môi trường trong cuộc sống hàng ngày.
c) Về thái độ, học sinh:
- Hứng thú và quan tâm tìm hiểu về vấn đề biến đổi khí hậu phù hợp với lứa tuổi.
- Có ý thức trách nhiệm trong việc tham gia các hoạt động góp phần ứng phó
với biến đổi khí hậu.
- Yêu thiên nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường, tự giác tham gia ứng phó với
biến đổi khí hậu,
Như vậy, mục tiêu và định hướng cơ bản của giáo dục biến đổi khí hậu cho
học sinh tiểu học là giúp các em quan tâm đến vấn đề biến đổi khí hậu, hiểu rõ
nguyên nhân và hậu quả của biến đổi khí hậu; tiếp cận được với những giải pháp
bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu và tại các địa phương;
phát triển năng lực hành động ứng phó với biến đổi khí hậu;
2.4. Các con đường giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học sinh
tiểu học
13
Trong trường tiểu học, việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học

sinh có thể được thực hiện thông qua nhiều con đường khác nhau. Sau đây xin chỉ
ra một số con đường chủ yếu thường được giáo viên sử dụng:
a) Giáo dục thông qua việc dạy học các môn học:
Việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học sinh tiểu học có thể
được thực hiện thông qua việc lồng ghép, tích hợp vào các môn học tiềm năng
như: Tự nhiên và xã hội, Khoa học, Lịch sử, Địa lí, Đạo đức, Tiếng Việt, Âm
nhạc, Mỹ thuật, Thủ công; Kỹ thuật; Thể dục; với những mức độ khác nhau như:
tích hợp toàn phần (mức độ cao nhất), tích hợp bộ phận (mức độ trung bình), liên
hệ (mức độ thấp).
Việc lồng ghép, tích hợp giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học sinh
qua các môn học cần được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính hợp lí; tính khoa học; tính sư phạm; tính vừa sức;
- Nội dung phải phù hợp với tính chất từng môn học/chương/bài.
Bằng con đường này, việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cho học
sinh tiểu học có những ưu điểm và hạn chế sau:
*) Ưu điểm:
- Học sinh được giáo dục trong các giờ học chính khóa qua nhiều môn học
khác nhau, từ nhiều góc độ khác nhau, với nhiều mức độ khác nhau,
- Góp phần làm tăng tính thực tiễn của môn học, làm cho môn học trở nên
gần gũi, thiết thực với cuộc sống thực của học sinh.
*) Hạn chế:
- Kiến thức, kĩ năng về biến đổi khí hậu không được chuyển tải một cách có
hệ thống đến học sinh.
- Có thể bị thực hiện một cách tràn lan, khiên cưỡng, không hợp lí, không
hiệu quả làm quá tải/biến dạng môn học; hoặc có thể bị bỏ qua, không được thực
hiên nghiêm túc,
b) Giáo dục thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
Ngoài việc tích hợp và lồng ghép nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi
khí hậu qua các môn học tiềm năng như đã nêu trên, hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp cũng là một con đường có nhiều thuận lợi để giáo dục cho học sinh nội

dung này. Với nhiều hình thức phong phú như: tổ chức lao động, trồng và chăm
sóc cây xanh, phân loại rác, thi vẽ tranh, làm báo tường, tìm hiểu về môi trường
địa phương, tổ chức câu lạc bộ, hội thảo, dã ngoại, đố vui, kể chuyện, múa hát, nói
14
chuyện chuyên đề, sẽ gây được sự chú ý và hứng thú học tập nội dung này ở các
em. Học mà chơi – chơi mà học, học qua lao động, qua thực tế, học sinh sẽ không
bị cảm thấy nặng nề trong việc tiếp thu một khối kiến thức và kĩ năng mới về vấn
đề biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu .
Như vậy, giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua con đường thứ nhất
là lồng ghép, tích hợp vào các môn học tiềm năng có những ưu điểm nhất định như
đã trình bày ở trên, nhưng cũng còn nhiều mặt hạn chế như: học sinh không được
giáo dục thường xuyên, phụ thuộc vào nội dung dạy học của các bài học/ chương bài/
phân môn/ môn trong chương trình chính khóa với thời khóa biểu cố định, kiến thức
về ứng phó với biến đổi khí hậu được hình thành một cách rời rạc, không có hệ thống
và thiếu tính thực tiễn do bị đóng khung trong bốn bức tường lớp học, Mà những
hạn chế đó lại được khắc phục bằng con đường giáo dục thông qua hoạt động ngoài
giờ lên lớp do đặc thù và tính chất của việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp
cũng như nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu cần phải gắn với thực tiễn
và chỉ đạt hiệu quả khi được thực hành, rèn luyện thông qua các hoạt động cụ thể.
Tuy nhiên, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được thực hiện vào thời gian
ngoài giờ lên lớp, độc lập tương đối với việc dạy học các môn học nên việc củng cố
kiến thức, rèn luyện kĩ năng đã được học ở các môn học sẽ hạn chế. Mặt khác, nội
dung chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp không được quy định cụ thể mà do
các trường tự xây dựng. Điều này sẽ làm cho việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ
lên lớp gặp nhiều khó khăn và hiệu quả giáo dục chưa cao do phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như diều kiện cơ sở vật chất, sự quan tâm, đầu tư của từng trường, cũng như
trình độ, kĩ năng tổ chức các hoạt động của từng giáo viên
Trong khi đó, hoạt động ngoại khóa cũng là hoạt động giáo dục được nhà
trường tổ chức vào thời gian ngoài giờ lên lớp nhưng gắn liền với bài học và môn
học cụ thể. Thông qua việc tổ chức cho các em được tiếp xúc với thực tiễn cuộc

sống xã hội phong phú, tham gia các hoạt động đa dạng, giúp các em củng cố khắc
sâu, mở rộng những tri thức được hình thành qua những bài học trên lớp.
Vậy để khắc phục nhược điểm, đồng thời phát huy được những ưu điểm của
cả 2 con đường trên, trong luận văn này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu việc giáo dục
ứng phó với biến đổi khí hậu cho học sinh tiểu học bằng cách tích hợp trong hoạt
15
động ngoại khóa của các môn học tiềm năng, cụ thể là môn Khoa học, môn Lịch sử -
Địa lí và môn Tiếng Việt lớp 4, 5.
3. Hoạt động ngoại khóa và việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu
cho học sinh tiểu học
3.1. Hoạt động ngoại khóa là gì?
Như chúng ta đã biết, ở tiểu học, quá trình dạy học được tổ chức theo hình thức
nội khóa (bài lên lớp) và ngoại khóa [14, tr.170]. Vậy hoạt động ngoại khóa là gì?
Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức học tập ngoài lớp, có tổ chức,
có kế hoạch, có phương hướng xác định; không bắt buộc trong chương trình, được
tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện dưới sự điều khiển, hướng dẫn của giáo viên
nhằm bổ sung, củng cố, nâng cao những kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã được
học trong chương trình chính khóa [15, tr.23].
Vậy có thể hiểu, hoạt động ngoại khóa là sự tiếp nối hoạt động dạy - học các
môn học được tổ chức vào thời gian ngoài giờ lên lớp, là con đường gắn lí thuyết với
thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động của học sinh, là việc tổ
chức giáo dục thông qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học - kĩ thuật, lao
động công ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa văn nghệ, thẩm mĩ, thể
dục thể thao, vui chơi giải trí, để giúp các em hình thành và phát triển nhân cách (đạo
đức, năng lực, sở trường, ). Như vậy, hoạt động ngoại khóa là một trong hai hoạt động
giáo dục cơ bản, được thực hiện một cách có tổ chức, có mục đích theo kế hoạch của
nhà trường; là hoạt động tiếp nối và thống nhất hữu cơ với hoạt động học tập trên lớp,
nhằm góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo, đáp
ứng những yêu cầu đa dạng của xã hội đối với thế hệ trẻ. Hoạt động ngoại khóa do nhà
trường tổ chức và quản lí với sự tham gia của các lực lượng xã hội. Nó được tiến hành

tiếp nối hoặc xen kẽ với hoạt động dạy - học trong nhà trường hoặc trong phạm vi cộng
đồng. Hoạt động này diễn ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín
quá trình giáo dục, làm cho quá trình này được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc.
Với cách hiểu như trên, hoạt động ngoại khóa được xem là một hình thức tổ
chức dạy học quan trọng, là một trong những con đường để thực hiện đổi mới
16
phương pháp dạy học theo định hướng: “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lứa tuổi, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Điều 24.2, Luật giáo dục).
3.2. Đặc điểm của hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa được phân biệt với các hình thức tổ chức dạy học khác
dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau:
- Hoạt động ngoại khoá được thực hiện ngoài giờ lên lớp, không được quy
định trong chương trình chính khoá.
- Là hoạt động không mang tính bắt buộc mà tùy thuộc vào sự tự nguyện của
mỗi cá nhân hay nhóm học sinh có cùng hứng thú, sở thích, mối quan tâm về một
vấn đề nào đó của nội dung học tập, không phân biệt học sinh giỏi hay yếu kém.
- Khi tổ chức hoạt động ngoại khoá, giáo viên có thể không trực tiếp tham
gia hoạt động cùng học sinh, nhưng phải là người hướng dẫn, tổ chức, tư vấn, giám
khảo cho các trò chơi và có thể trong nhiều trường hợp cần thiết còn là người chỉ
đạo, điều khiển các hoạt động ngoài giờ học của học sinh.
- Nội dung hoạt động ngoại khoá thường liên quan với nội dung được học
tập trên lớp và phù hợp với hoàn cảnh của địa phương và đặc điểm của các em tham
gia hoạt động.
- Khi tổ chức hoạt động ngoại khoá, giáo viên không tổ chức kiểm tra, đánh
giá kết quả hoạt động ngoại khoá với các hình thức tương tự như một giờ học chính
khoá (bằng điểm số hoặc bằng nhận xét), mà đánh giá dựa trên các yếu tố như sản
phẩm của buổi hoạt động ngoại khóa hay tính tích cực, chủ động tham gia vào các
hoạt động và tự lực sáng tạo của học sinh

3.3. Một số hình thức hoạt động ngoại khóa giáo dục ứng phó với biến đổi
khí hậu cho học sinh tiểu học
Các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh tiểu học rất phong
phú và đa dạng, với nhiều mối quan hệ khác nhau (thầy cô, bạn bè, các tầng lớp xã
hội, ). Những hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa thường gặp ở tiểu học như:
17
câu lạc bộ môn học, nhóm năng khiếu, tham quan, lao động, văn nghệ, báo tường,
hái hoa dân chủ, vui chơi, công tác xã hội, thưởng thức các loại hình nghệ thuật,
giao lưu với các nhân vật điển hình, Những hình thức cụ thể này, trong thực tiễn
giáo dục có thể được tổ chức độc lập hoặc kết hợp với nhau. Và những hoạt động
này có thể được tổ chức theo tổ, nhóm, theo tập thể lớp, khối lớp hay toàn trường
Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa có tiềm năng to lớn trong việc giáo
dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Với những hoạt động và những hình thức tổ
chức cụ thể như kể trên sẽ rất phù hợp cho việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí
hậu nói riêng và giáo dục môi trường nói chung. Ví dụ như:
*) Vui chơi:
Vui chơi là hoạt động giải trí có ý nghĩa giáo dục to lớn. Vui chơi được thực
hiện qua các trò chơi phù hợp với lứa tuổi học sinh như: văn nghệ, thể dục thể thao,
trò chơi trí tuệ, Giáo viên có thể vận dụng nhiều hình thức vui chơi để giáo dục
ứng phó với biến đổi khí hậu như: hái hoa dân chủ để tìm hiểu về biến đổi khí hậu;
thi văn nghệ về chủ đề biến đổi khí hậu; giải ô chữ về chủ đề biến đổi khí hậu; tổ
chức các cuôc thi như “Rung chuông vàng”, “Ai thông minh hơn học sinh tiểu
học” với nội dung về giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu
*) Lao động:
Để giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu, giáo viên có thể đưa ra các hoạt
động lao động vừa sức với các em và có ý nghĩa giáo dục lớn như: trực nhật lớp;
trồng và chăm sóc cây, hoa trong sân trường; thu gom và phân loại rác trong
trường; tham gia phòng trào xanh hóa đường phố, khu xóm nơi em ở;
*) Tham quan:
Tham quan là một hình thức học tập trải nghiệm có ý nghĩa giáo dục to lớn.

Giáo viên có thể tổ chức các buổi đi tham quan, thực tế ở các địa phương khác nhau
để giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu như: tổ chức cho các em đi tham quan các
di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, tham quan rừng Quốc gia Cúc Phương, các
khu bảo tổn sinh học,
*) Công tác xã hội:
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tham gia giúp đỡ, khắc phục hậu quả
thiệt hại sau thiên tai, lũ lụt ở những gia đình neo đơn; quyên góp ủng hộ đồng bào
18
gặp khó khăn do bão lũ; viết thư thăm hỏi, động viên các chú bộ đội đóng quân ở
những vùng biên giới, hải đảo;
*) Giao lưu với chuyên gia hoặc các nhân vật điển hình:
Đây là hình thức tổ chức gặp gỡ, trao đổi, trò chuyện với một hoặc một
nhóm người am hiểu về một vấn đề nào đó, hoặc các nhân vật liên quan trực tiếp
đến vấn đề quan tâm. Ví dụ ở chủ đề giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu, giáo
viên có thể tổ chức cho học sinh tham gia gặp gỡ, trò chuyện với các chuyên gia về
lĩnh vực này hoặc cho các em gặp gỡ những gương người tốt việc tốt có những hành
động dũng cảm bảo vệ môi trường, cứu người bị lũ cuốn trôi,
Các hoạt động ngoại khóa còn góp phần hình thành tinh thần trách nhiệm, ý
thức gắn bó với tập thể của học sinh; giúp học sinh hòa nhập với môi trường, với
cuộc sống tập thể một cách tự nguyện, tự tin; phát huy tính độc lập, sáng tạo, tự học,
tự rèn luyện và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế
Mặt khác, qua các hoạt động ngoại khóa, học sinh không chỉ học cách vận
dụng kiến thức các môn đã học vào trong các tình huống cụ thể gần gũi với cuộc
sống, mà còn được rèn luyện, bồi đắp thêm kiến thức cũng như kĩ năng giúp học tập
tốt các môn học đó.
Như vậy, hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức giáo dục mang tính
tích hợp cao, có khả năng hình thành cho học sinh không chỉ kiến thức mà còn rèn
luyện kĩ năng, phát triển thái độ và hành vi tích cực đối với môi trường nói chung
và ứng phó với biến đổi khí hậu nói riêng.
4. Quan điểm dạy học tích hợp và việc giáo dục ứng phó với biến đổi khí

hậu cho học sinh tiểu học
4.1. Khái niệm về tích hợp và dạy học theo quan điểm tích hợp
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ “tích hợp”. Có ý kiến cho
rằng: Tích hợp là tổ hợp (combination) hay phối hợp (coordination) các môn học.
Có ý kiến khác lại cho rằng tích hợp chẳng qua là sự lắp ghép cơ giới, phép cộng
đơn thuần giữa các môn học [24].
19
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương
trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa
là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau
trong cùng một kế hoạch dạy học”.
Hiểu một cách khái quát, tích hợp (integration): là sự liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một hay vài lĩnh vực khác nhau trong cùng
một kế hoạch dạy học [24].
Tích hợp chương trình (program integration): là sự liên kết, hợp nhất nội
dung các môn học có nguồn tri thức khoa học và có những quy luật chung, gần gũi
với nhau. Tích hợp nhằm giảm bớt được những phần kiến thức trùng nhau, tạo điều
kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Tích hợp không phải là phương pháp
dùng để rút bớt môn học, nhằm giảm tải kiến thức. Tích hợp cần được hiểu là một
phương hướng nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ, các
môn học, các phân môn khác nhau theo những mô hình, hình thức, cấp độ khác
nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và yêu cầu khác nhau [24].
Trong dạy học, tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị bài học, thậm chí là
một tiết học hay một bài tập nhiều mảng kiến thức và kĩ năng liên quan đến nhau
nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học. Quan điểm dạy học
tích hợp kiến thức đã được nhiều nhà giáo dục ở nước ta nghiên cứu và nhận thấy
ý nghĩa thiết thực của nó trong giáo dục cũng như trong mọi mặt của xã hội hội
nhập hiện nay.

Xu hướng toàn cầu hóa đặt con người trước những vấn đề, thử thách phong
phú và phức tạp hơn nên nền giáo dục cần có những điều chỉnh và thay đổi kịp thời
để đáp ứng được những yêu cầu của việc đào tạo con người trong xã hội mới. Sự
điều chỉnh và thay đổi ở đây không hiểu đơn giản chỉ là bổ sung thêm những kiến
thức mới vào trong chương trình học. Mà vấn đề ở đây là làm thế nào trang bị cho
người học những kiến thức cơ bản, những kĩ năng và năng lực tư duy cần thiết để
20
biết linh hoạt liên kết các tri thức, kĩ năng ấy vào việc giải quyết các tình huống cụ
thể trong cuộc sống.
Mặt khác, kiến thức mà học sinh tiếp thu trong quá trình học tập không phải
là những mảng kiến thức rời rạc, biệt lập mà có sự liên kết chặt chẽ với nhau, phát
triển theo vòng xoáy trôn ốc. Kiến thức ở lớp trước là tiền đề, là cơ sở để tiếp thu
kiến thức ở lớp tiếp theo. Do đó, việc tích hợp trong dạy học sẽ giúp học sinh biết
cách liên hệ các mảng kiến thức và kĩ năng gần nhau, xem xét chúng ở nhiều khía
cạnh để tìm ra lời giải cho vấn đề mới.
Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, dạy học tích hợp là quá trình dạy
học trong đó giáo viên tổ chức hoạt động để học sinh huy động nội dung, kiến
thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học
tập, thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới từ đó phát triển năng
lực cần thiết [2, tr.5].
4.2. Các chương trình giáo dục tích hợp
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm
nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới và ở
Việt Nam trong những năm gần đây. Chương trình tích hợp là đề tài được bàn bạc từ
những năm đầu thế kỷ XX. Hơn một trăm năm qua, các tác giả đã đưa ra ba loại hoạt
động tích hợp cơ bản là: tích hợp đa môn, tích hợp liên môn và tích hợp xuyên môn.
*) Tích hợp đa môn (The Multidisciplinary Integration)
Cách tiếp cận tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học. Các
môn liên quan với nhau có chung một định hướng về nội dung và phương pháp
dạy học nhưng mỗi môn lại có một chương trình riêng. Tích hợp đa môn được

thực hiện theo cách tổ chức các Chuẩn từ các môn học xoay quanh một chủ đề, đề
tài, dự án, tạo điều kiện cho người học vận dụng tổng hợp kiến thức của các môn
học có liên quan [24].
*) Tích hợp liên môn (Interdisciplinary Integration)
Theo cách tiếp cận tích hợp liên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập
xoay quanh các nội dung học tập chung: các chủ đề, các khái niệm và kĩ năng liên
21
ngành/môn. Họ kết nối các nội dung học tập chung nằm trong các môn học để nhấn
mạnh các khái niệm và kỹ năng liên môn. Các môn học có thể nhận diện được,
nhưng họ cho rằng ít quan trọng hơn so với cách tiếp cận tích hợp đa môn. Tích hợp
liên môn còn được hiểu như là phương án trong đó nhiều môn học liên quan được
kết lại thành một môn học mới với một hệ thống những chủ đề nhất định xuyên suốt
qua nhiều cấp lớp [24].
*) Tích hợp xuyên môn (Transdisciplinary Integration)
Trong cách tiếp cận tích hợp xuyên môn, giáo viên tổ chức chương trình học
tập xoay quanh các vấn đề và quan tâm của người học. Học sinh phát triển các kĩ
năng sống khi họ áp dụng các kĩ năng môn học và liên môn vào ngữ cảnh thực tế
của cuộc sống. Hai con đường dẫn đến tích hợp xuyên môn: học tập theo dự án
(project-based learning) và thương lượng chương trình học (negotiating the
curriculum) [24].
Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản và khái quát nhất về 3 cách tiếp cận
tích hợp đa môn, tích hợp liên môn, tích hợp xuyên môn như sau:
Tích hợp đa môn là cách tiếp cận tích hợp các môn học có liên quan với nhau
(chung định hướng về nội dung và phương pháp dạy học) nhưng giữ nguyên tính
chất độc lập của từng môn học đó, mỗi môn là một chương trình riêng. Ví dụ: tích
hợp 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và kiến thức văn hoá, xã hội, tự nhiên, tích hợp
giữa phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ với phát triển nhân cách trong môn
Tiếng Việt, trong đó vẫn đảm bảo tính chất riêng rẽ của các phân môn như Tập đọc,
Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn
Còn cách tích hợp liên môn có thể hiểu là cách tiếp cận tích hợp các môn học

có liên quan thành một môn học mới với một hệ thống chủ đề xuyên suốt qua nhiều
cấp lớp. Điều này hoàn toàn trái ngược với cách tiếp cận đa môn. Đây cũng là cách
tích hợp đã được vận dụng trong chương trình giáo dục tiểu học mới. Ví dụ: tích
hợp các yếu tố đại số, yếu tố thống kê vào mạch số học; tích hợp mạch số học, hình
học, giải toán có lời văn trong môn Toán ở tiểu học hiện nay; hay tích hợp môn Sức
22
khỏe với môn Tự nhiên - xã hội và Khoa học thành môn mới là Tự nhiên và Xã hội
(lớp 1, 2, 3) và môn Khoa học (lớp 4, 5);
Cách tiếp cận tích hợp xuyên môn được hiểu là cách tích hợp trong đó giáo
viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các vấn đề mà người học quan tâm,
hứng thú. Với cách tích hợp xuyên môn này, học sinh được phát triển các kĩ năng
cần thiết khi vận dụng các kiến thức và kĩ năng học được của các môn học vào ngữ
cảnh thực tế của cuộc sống. Vậy có thể thấy, đây là phương thức tích hợp phù hợp
với việc giáo dục nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua các hoạt động
ngoại khóa ở Tiểu học.
4.3. Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp để giáo dục nội dung ứng phó
với biến đổi khí hậu qua hoạt động ngoại khóa cho học sinh tiểu học
Theo báo cáo kết quả của nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Giáo dục
Việt Nam trong Hội thảo “Dạy học tích hợp – Dạy học phân hóa trong chương
trình giáo dục phổ thông” được Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức vào tháng
11/2012 thì: Dạy học theo quan điểm tích hợp là sự lồng ghép, sự kết hợp những
nội dung các môn học (hoặc các phân môn trong một môn học) theo những cách
khác nhau. Có tích hợp nội dung, tích hợp phương pháp, tích hợp trong đánh giá.
Ngoài tích hợp kiến thức còn có tích hợp kĩ năng, tích hợp năng lực, [2, tr.114].
Và chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã nêu rõ: chương trình hướng tới
mục tiêu phát triển năng lực không chỉ dựa vào tính hệ thống, logic của khoa học
tương ứng khi xác định nội dung học tập mà còn gắn với các tình huống thực tiễn,
chú ý đến khả năng học tập và nhu cầu, phong cách học của mỗi cá nhân học sinh.
Các yêu cầu này đòi hỏi chương trình cần được phát triển theo định hướng tích
hợp nhằm tạo điều kiện cho người học liên tục huy động kiến thức, kĩ năng thuộc

nhiều lĩnh vực môn học và hoạt động giáo dục khác nhau để thực hiện các nhiệm
vụ học tập. Qua đó, các năng lực chung cơ bản cũng như năng lực chuyên biệt của
người học được phát triển.
Không nằm ngoài xu hướng đó, giáo dục nội dung ứng phó với biến đổi khí
hậu cho học sinh tiểu học cũng cần phải được xây dựng trên quan điểm định hướng
23
tích hợp. Có thể giáo dục nội dung này theo hướng tích hợp đa môn bằng cách lồng
ghép vào các môn học có liên quan với nhiều mức độ tích hợp khác nhau. Tuy
nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như xu hướng dạy học tích hợp
hướng đến hình thành những kĩ năng sống cần thiết cho học sinh, đáp ứng nhu cầu
xã hội hiện nay nên chúng tôi đi sâu tìm hiểu về cách tích hợp là: thông qua các
kiến thức, kĩ năng, thái độ về môi trường cũng như về ứng phó với biến đổi khí hậu
được lồng ghép vào các môn học tiềm năng như Khoa học, Lịch sử - Địa lí, Tiếng
Việt, sẽ được củng cố, rèn luyện, thực nghiệm ở các hoạt động ngoại khóa với
nhiều hình thức tổ chức phong phú, đa dạng. Đồng thời, qua hoạt động ngoại khóa,
các kiến thức, kĩ năng, năng lực, thái độ, hành vi, mà học sinh được tích lũy từ
nhiều môn học khác nhau sẽ được huy động để tìm hiểu chủ đề giáo dục ứng phó
với biến đổi khí hậu gắn với thực tiễn đời sống. Đó cũng chính là quan điểm của
cách tiếp cận theo hướng tích hợp xuyên môn như đã nói ở trên.
Như vậy, việc dạy học chủ đề giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu nói
riêng và dạy học các nội dung khác nói chung cho học sinh tiểu học thông qua hoạt
động ngoại khóa theo quan điểm tích hợp xuyên môn sẽ giúp học sinh củng cố
những kiến thức, kĩ năng đã được học ở các môn học và hình thành những kiến
thức, kĩ năng mới có tính ứng dụng thực tiễn cao (kĩ năng sống). Đồng thời, giúp
học sinh có một cái nhìn tổng thể, khái quát và khoa học nhất về những kiến thức,
kĩ năng của các môn học được sử dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày. Điều
này phù hợp với xu hướng dạy học tích hợp đang được nhiều nhà giáo dục trên thế
giới quan tâm, trong đó có Việt Nam.
5. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học và việc giáo dục ứng phó với
biến đổi khí hậu qua hoạt động ngoại khóa theo quan điểm tích hợp

Như chúng ta đã biết, trẻ ở tuổi tiểu học (6 đến 11 tuổi) là lứa tuổi các em vừa
bước vào một giai đoạn mới với hoạt động học tập là chủ đạo. Ở lứa tuổi này, cơ thể
của các em đang có sự phát triển và hoàn thiện dần về cả cấu trúc và chức năng. Các
hệ cơ quan trong cơ thể đang phát triển mạnh, nhưng chưa thật đồng bộ. Cụ thể:
24
- Hệ xương: Nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương
tay, của các em đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo,
gãy dập do ngồi sai tư thế hoặc quá lâu trên lớp học hay vận động mạnh, Vì thế,
không nên bắt ép trẻ ngồi quá lâu với tư thế gò bó mà cần cho các em vận động nhẹ
nhàng sau những phút ngồi học trong lớp.
- Hệ cơ: Theo nghiên cứu của các nhà sinh học, lứa tuổi từ 6 đến 11 tuổi là
giai đoạn hệ cơ phát triển mạnh mẽ nhất nên các em rất thích các trò chơi vận động
như chạy, nhảy, nô đùa, Hơn nữa, do hệ cơ đang trong quá trình hoàn thiện nên khả
năng tập trung chú ý của tuổi này còn thấp, trẻ thường không ngồi yên lâu một chỗ
được. Vì vậy mà các hoạt động vận động nhẹ nhàng, an toàn rất thích hợp với các
em.
- Hệ thần kinh: Hệ thần kinh cấp cao đang trong quá trình phát triển cả về
mặt chức năng cũng như cấu tạo. Đến 9, 10 tuổi, hệ thần kinh của các em tương đối
hoàn thiện. Điều này tạo điều kiện cho việc thành lập nhiều phản xạ có điều kiện.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, khả năng ức chế thần kinh còn yếu, các em dễ bị kích
thích, hưng phấn, dễ khóc, dễ cười, Đây cũng là một đặc điểm mà trong quá trình
giáo dục cho học sinh tiểu học cần chú ý.
Như vậy, qua phân tích các đặc điểm cơ bản nhất về mặt cơ thể của học sinh
tiểu học, ta thấy tổ chức giáo dục nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu qua hoạt
động ngoại khóa là hoàn toàn phù hợp. Các em được lĩnh hội kiến thức một cách tự
nhiên, nhẹ nhàng, không gượng ép và hiệu quả. Giáo dục thông qua hoạt động ngoại
khóa, các em sẽ được vận động thông qua các hình thức tổ chức phong phú như lao
động, tham quan, trò chơi, các em được tự mình trải nghiệm để tìm ra kiến thức, kĩ
năng cần lĩnh hội. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức các hoạt động ngoại khóa giáo
dục ứng phó với biến đổi khí hậu nên lựa chọn các hình tổ chức với mức độ vận động

nhẹ nhàng, an toàn và hấp dẫn, không làm học sinh mệt mỏi, chán nản hay quá sức,
Về đặc điểm nhận thức, các quá trình và thuộc tính tâm lí cũng đang trong
quá trình phát triển và hoàn thiện. Cụ thể:
25

×