Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

[ Bản Full ] Các tội phạm về mại dâm theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam – Thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 97 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN TRƯỜNG AN





CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM -
THỰC tIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI - 2014





2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN TRƯỜNG AN





CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM -
THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Cao Thị Oanh




HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn Tr-ờng An







4

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM
9
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định các tội phạm về mại dâm
9
1.1.1.
Khái niệm tội phạm về mại dâm
9
1.1.2.

Ý nghĩa việc quy định các tội phạm về mại dâm trong luật
hình sự Việt Nam
12
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam về các tội phạm mại dâm
14
1.2.1
Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945
14
1.2.2
Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến khi
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam 1985
15
1.2.3.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 cho đến
khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999
18
1.3.
Các tội phạm về mại dâm theo quy định pháp luật một số
nước trên thế giới
22
1.3.1.
Pháp luật Nhật Bản
22
1.3.2.
Pháp luật Thái Lan
24

1.3.3.
Pháp luật nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
26
1.3.4.
Pháp luật Vương quốc Thụy Điển
27
1.3.5.
Pháp luật Liên bang Nga
29

5

Chương 2: CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT
XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH
32
2.1.
Các tội phạm về mại dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam
32
2.1.1.
Những dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm
33
2.1.2.
Vướng mắc trong những quy định của Bộ luật hình sự về các
tội phạm mại dâm
45
2.2.
Thực tiễn xét xử các tội phạm về mại dâm trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình

46
2.2.1
Một số đặc điểm, tình hình của tỉnh Hòa Bình liên quan đến
tội phạm mại dâm và hoạt động mại dâm
46
2.2.2.
Thực tiễn xét xử các tội phạm về mại dâm của Tòa án nhân
dân các cấp trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
49

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI
MẠI DÂM
72
3.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội
phạm mại dâm
72
3.2.
Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội
phạm mại dâm
74
3.2.1.
Luật hóa một số tội phạm mới trong Bộ luật hình sự
74
3.2.2.
Hoàn thiện quy định về tình tiết tăng nặng định khung đối với
các tội phạm mại dâm

77
3.3.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật
hình sự về các tội phạm mại dâm trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
78
3.3.1.
Tăng cường công tác xây dựng pháp luật tạo hành lang pháp
lý cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mại dâm
79

6
3.3.2.
Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình các văn bản pháp luật liên quan
đến tội phạm mại dâm
80
3.3.3.
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
cơ quan tư pháp trên địa bàn tình Hòa Binh, tăng cường phối
hợp giữa các chủ thể phòng ngừa tội phạm trong công tác đấu
tranh phòng chống các tội phạm về mại dâm
82

KẾT LUẬN
85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87

7



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tình hình xét xử tội chứa mại dâm theo Điều 254 Bộ luật
hình sự trên địa bàn tỉnh Hòa Bình so với cả nước
50
2.2
Chế tài Tòa án áp dụng đối với bị cáo phạm tội chứa mại
dâm theo Điều 254 Bộ luật hình sự trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình so với cả nước
52
2.3
Tình hình xét xử tội môi giới mại dâm theo Điều 255 Bộ
luật hình sự trên địa bàn tỉnh Hòa Bình so với cả nước
56
2.4
Chế tài Tòa án áp dụng đối với bị cáo phạm tội môi giới
mại dâm theo Điều 255 Bộ luật hình sự trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình so với cả nước
58







8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mại dâm là một loại tệ nạn đã xuất hiện và tồn tại từ rất lâu trong lịch
sử xã hội loài người. Ngay từ thời xa xưa tệ nạn này đã trở nên phổ biến ở
khắp nơi trên thế giới và đã trở thành vấn đề xã hội nhức nhối ở nhiều quốc
gia. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VI năm 1986
đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã và đang tiến hành công
cuộc đổi mới. Hơn 25 năm qua những chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước, đã thúc đẩy nền kinh tế- xã hội của nước ta phát triển. Đời
sống nhân dân ngày càng được nâng cao rõ rệt. An ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội được giữ vững. Cùng với sự phát triển xã hội, giao lưu hội nhập
với quốc tế, trong những năm qua tệ nạn xã hội, tội phạm ở nước ta cũng diễn
biến vô cùng phức tạp ảnh hưởng xấu đến đời sống và an toàn của xã hội, ảnh
hưởng đến phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, phá vỡ hạnh phúc gia đình,
đe dọa tới tương lai giống nòi của dân tộc. Sau những năm đổi mới nền kinh
tế xã hội đặc biệt những năm gần đây tệ nạn mại dâm đã hoạt động dưới nhiều
hình thức công khai, bí mật thông qua các hình thức kinh doanh trá hình như
vũ trường, karaoke, massage, cà phê vườn, gội đầu thư giãn không chỉ ở
thành thị mà cả vùng nông thôn, không chỉ dừng lại ở trong nước mà còn biến
tấu thành tội phạm có tổ chức buôn bán phụ nữ ra nước ngoài. Báo cáo của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: "Mặc dù có nhiều cố gắng ngăn chặn
song tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, nhất là tệ nạn nghiện hút, cờ bạc,
mại dâm, trộm cướp, tham nhũng và buôn lậu làm cho nhân dân bất bình, ảnh
hưởng niềm tin đối với Đảng và Nhà nước" [11].
Ngày 15/4/2003, Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm đã được công bố,

quy định những biện pháp và trách nhiệm của của cơ quan, tổ chức, cá nhân

9
và gia đình trong việc loại trừ mại dâm. Ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định 679/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động
phòng chống mại dâm giai đoạn 2011- 2015. Điều này khẳng định quyết tâm
của Chính phủ, đồng thời thể hiện tầm quan trọng, tính bức xúc của công tác
này trong bối cảnh dịch HIV/AIDS đang có nguy cơ lan rộng, đe dọa đến sự
phát triển bền vững của các quốc gia trên toàn thế giới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác phòng chống mại dâm,
nhưng tệ nạn này vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp. Hoạt động mại dâm kín đáo,
tinh vi, tổ chức nhỏ nhưng ở diện rộng lan tất cả khu vực cả nước. Hoạt động
của bọn tội phạm về mại dâm không chỉ xảy ra ở khu vực thành thị và các khu
du lịch nghỉ mát mà còn xảy ra ở vùng nông thôn và miền núi. Xuất hiện một
số đối tượng là người nước ngoài lợi dụng những kẽ hở về mặt quản lý nhà
nước đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ, hùn vốn thành lập các công ty, nhà
hàng, khách sạn, karaoke, vũ trường phục vụ cho người nước ngoài ở các
khu chế xuất, khu công nghiệp nhưng thực chất là tổ chức hoạt động mại dâm.
Một số nguyên nhân khiến nạn mại dâm vẫn tồn tại như một thách
thức: đối tượng nhẹ dạ, cả tin, lười lao động, tâm lý hưởng thụ (thích nhàn hạ,
ăn ngon, mặc đẹp); lợi nhuận thu được từ công việc này không nhỏ.
Trong những năm qua, các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
tội phạm mại dâm đã góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm này. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn hiện nay, các quy định
đó còn chưa thật cụ thể và đầy đủ. Nhận thức về tội phạm này có nơi, có lúc
còn chưa nhất quán. Trong một số trường hợp, các cơ quan bảo vệ pháp luật
vẫn còn lúng túng, chưa có quan điểm thống nhất hoặc mắc phải thiếu sót
trong việc giải quyết các vụ án về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm hay
mua dâm người chưa thành niên.
Hòa Bình là tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ quốc,

có vị trí địa lý quan trọng của vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên miền núi,

10
điểm trung chuyển sức hút ảnh hưởng chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội của
một trung tâm lớn đó là Thủ đô Hà Nội. Hòa Bình có diện tích 4.596km
2
phía
bắc giáp Phú Thọ, phía đông giáp tỉnh Hà Tây cũ, phía tây giáp tỉnh Sơn La,
phía nam giáp tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa. Hòa Bình có 10 huyện và 1
thành phố trực thuộc, trên 80% dân số là người dân tộc thiểu số với 7 dân tộc
chính, trình độ dân trí thấp, kinh tế còn nghèo, còn nhiều xã thuộc diện vùng 135.
Hòa Bình có sông Đà, quốc lộ số 6 và 12b đi qua nối liền các tỉnh phía Tây Bắc
với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thuận lợi cho việc giao lưu
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Tuy nhiên đây cũng là những khó khăn cho
công tác phòng chống tệ nạn xã hội ở địa phương, nhất là tệ nạn mại dâm.
Tình hình tệ nạn mại dâm nói chung và tội phạm mại dâm nói riêng diễn biến
vô cùng phức tạp, mức độ, phương hướng, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Tội
phạm về mại dâm được thực hiện dưới nhiều hình thức như giới thiệu việc làm,
xuất khẩu lao động tạo thu nhập cao để dụ dỗ, lừa gạt những phụ nữ, trẻ em
nhẹ dạ, cả tin, có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, thiếu hiểu biết hoặc do ăn chơi
đua đòi, lười lao động, thích hưởng thụ đã bị bọn tội phạm lôi kéo, dụ dỗ, ép
buộc, tham gia hoạt động mại dâm; tình trạng gái gọi, gái bao vẫn tiếp tục
xuất hiện dẫn đến việc khó khăn trong công tác kiểm tra, đấu tranh, triệt phá.
Xuất phát từ thực trạng tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm mại
dâm nói chung và diễn biến phức tạp của loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh
Hòa bình, tác giả quyết định chọn đề tài "Các tội phạm về mại dâm theo quy
định của luật hình sự Việt Nam - thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nghiên cứu về các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công

cộng nói chung, các tội phạm về mại dâm nói riêng trên các sách báo pháp lý
hình sự nước ta thời gian qua ít nhiều đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các
mức độ khác nhau, song đáng chú ý là một số công trình khoa học sau:

11
- Luận án tiến sĩ luật học: "Tệ nạn mại dâm- Thực trạng và các giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa" của tác giả Trần Hải Âu bảo vệ năm
2004. Tác giả đã đề cập những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tệ nạn
mại dâm, quan điểm một số nước trên thế giới và Việt Nam, phân tích làm rõ
vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa tệ nạn mại dâm, tác giả đã làm rõ
thực trạng, tình hình tệ nạn mại dâm, đặc điểm nhân thân người chứa mại
dâm. Đây là công trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu về tệ nạn mại dâm và
hoạt động phòng ngừa mại dâm.
- Luận án tiến sĩ luật học: "Điều tra tội phạm về mại dâm có tổ chức"
tác giả Nguyễn Hoàng Minh bảo vệ năm 2010. Tác giả đi sâu làm rõ khái
niệm tội phạm về mại dâm và tội phạm về mại dâm có tổ chức, phân tích làm
rõ thực trạng của loại tội phạm này và đưa ra dự báo cũng như các giải pháp
nâng cao hoạt động điều tra loại tội phạm nay.
- Luận văn thạc sĩ "Tội mua dâm người chưa thành niên theo Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999 - Lý luận và thực tiễn", Nguyễn Việt Khánh Hòa,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2010.
- Sách chuyên khảo: "Mại dâm, ma túy, cờ bạc - Tội phạm thời hiện
đại", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2003, của GS.TS Nguyễn Xuân
Yêm cùng tập thể tác giả. Nhóm tác giả đã nghiên cứu tệ nạn xã hội nói chung
và tệ nạn mại dâm nói riêng dưới góc độ đối tượng của khoa học xã hội, tội
phạm học, đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng
chống tệ nạn xã hội và tội phạm trong trong điều kiện mở cửa của nền kinh tế.
- Sách chuyên khảo: "Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam thời
kỳ đổi mới", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm.
Trong chương XIX - Phòng chống các tội phạm mại dâm, tác giả đã đề cập

đến khái niệm mại dâm và các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm mại dâm,
phân tích các đặc điểm tội phạm học của tội phạm mại dâm, nguyên nhân,
điều kiện của tội phạm mại dâm,dự báo tình hình mại dâm ở Việt Nam và đưa

12
ra giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa. Đây là công trình công phu có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Ngoài ra còn một số bài báo nghiên cứu, công trình khoa học ở cấp độ
luận văn cao học như: Nguyễn Trung tín, "Pháp luật một số quốc gia về
chống mại dâm và mua bán phụ nữ", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7,
năm 1998. Nguyễn Văn Trượng, "Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự về tội phạm liên quan đến mại dâm và những vấn đề hoàn thiện", Tạp
chí tòa án nhân dân, số 24, năm 2007. Đỗ Đức Hồng Hà, "Tội chứa mại dâm,
môi giới mại dâm: Lý luận và thực tiễn", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 22,
năm 2010; "Tội mua dâm người chưa thành niên: Lý luận và thực tiễn", Tạp
chí Tòa án, số 10, năm 2010. Nguyễn Thị Ngọc Hoa, "Về những vướng mắc
và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về tội chứa mại dâm, tội môi giới
mại dâm", Tạp chí tòa án nhân dân, số 20, năm 2011.
Tuy nhiên, các công trình nêu trên nghiên cứu dưới góc độ tội phạm
học hoặc nghiên cứu riêng rẽ từng tội trên sự phân tích một số vụ án thực tế
điển hình mà chưa có một công trình khoa học nào ở cấp độ một luận văn thạc
sĩ giải quyết một cách tổng thể các tội phạm về mại dâm, đồng thời tổng kết
thực tiễn xét xử để qua đó đề xuất hoàn thiện trên phương diện lập pháp về
nhóm tội phạm này, cũng như đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng,
qua đó góp phần bảo vệ vững chắc hơn nữa các quyền con người, quyền tự
do, dân chủ của công dân, và trật tự an toàn xã hội. Do vậy, trong giai đoạn
hiện nay khi mà tội phạm mại dâm đang bùng phát dưới nhiều hình thức tinh
vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng, an toàn công cộng thì
việc nghiên cứu đề tài này là cấp thiết và có ý nghĩa khoa học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm sang tỏ những vấn đề về lý luận, các dấu
hiệu pháp lý các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật hình sự và thực tiễn xét

13
xử các loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, qua đó đưa ra giải pháp
hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng và thực tiễn xét xử các tội phạm về mại dâm tại Hòa Bình từ năm
2008 đến 2013.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn
đề pháp lý cơ bản các tội phạm về mại dâm theo luật hình sự Việt Nam
như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Tổng kết đánh giá thực tiễn xét xử các loại tội này trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình từ năm 2008 - 2013. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số
vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, từ đó đề xuất một số kiến nghị,
giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm này trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Nhà nước ta về đấu tranh và phòng
chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý
như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp
luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận
điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài

viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và
nước ngoài.

14
5.2 Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: so sánh, phân
tích, tổng hợp đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu thống kê trong
các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình và
các vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình,
cũng như các thông tin trên mạng internet để tổng hợp và làm sáng tỏ các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm mại dâm trong luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử tại một địa phương ở cấp luận văn thạc
sĩ luật học. Tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
- Phân tích một cách tương đối có hệ thống những vấn đề lý luận về
các tội phạm mại dâm trong luật hình sự Việt Nam như: khái niệm và các dấu
hiệu pháp lý hình sự của các tội phạm này, mối quan hệ của các tội phạm này
với trật tự an toàn công cộng, phân biệt các loại tội này với nhau và các loại
tội phạm khác có liên quan trong luật hình sự;
- Phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự, tình tiết định khung tăng
nặng của các tội phạm này để chỉ ra những vướng mắc, hạn chế nhằm hoàn
thiện pháp luật;
- Phân tích thực tiễn xét xử tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
trong thời gian 6 năm (2008-2013), phân tích các vụ án áp dụng chưa đúng,
chưa chính xác và các nguyên nhân cơ bản của thực trạng này;
- Đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các tội về mại dâm trong Bộ luật
hình sự Việt Nam 1999 hiện hành và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của pháp luật về các loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh

Hòa Bình, qua đó nâng cao hiệu quả bảo vệ trật tự an toàn công cộng nói
chung và trật tự công cộng đối với vấn đề mại dâm nói riêng.

15
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội phạm mại dâm.
Chương 2: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm mại
dâm trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.


16
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM
VỀ MẠI DÂM
1.1.1. Khái niệm tội phạm về mại dâm
Mại dâm là hiện tượng tiêu cực gây ra ảnh hưởng xấu cho xã hội, làm
suy đồi đạo đức, lối sống, thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Không những thế
một số hành vi mại dâm còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển về
thể chất và trí tuệ của người chưa thành niên, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự xã
hội xâm phạm đến quyền được bảo vệ và sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, ảnh
hưởng những giá trị đạo đức xã hội, làm suy giảm sức khỏe và giống nòi và là
một trong những nguyên nhân gây lan các bệnh xã hội, đại dịch HIV/AIDS…
kéo theo nó là những tệ nạn xã hội khác nảy sinh. Chính vì vậy, pháp luật hình

sự nước ta đã quy định một số hành vi nguy hiểm trong hoạt động mại dâm là
tội phạm cần phải xử lý nghiêm minh bằng hình phạt và cụ thể hóa nó trong
Bộ luật hình sự 1999 tại các Điều 254 - Tội chứa mại dâm với khung hình
phạt cao nhất từ hai mươi năm đến tù chung thân, Điều 255 - Tội môi giới
mại dâm với khung hình phạt cao nhất đến hai mươi năm tù, Điều 256 - Mua
dâm người chưa thành niên với khung hình phạt cao nhất đến mười lăm năm.
Tội phạm về mại dâm đã có lịch sử xuất hiện từ lâu đời và hiện nay
vẫn đang tồn tại và diễn biến phức tạp, gây ra nhức nhối cho toàn xã hội. Thế
nhưng cách hiểu thế nào là tội phạm về mại dâm thì chưa có một khái niệm
thống nhất.
Theo tác giả Trần Hải Âu:
Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
về mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm

17
đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội
chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh
hưởng đến an ninh trật tự [1].
Tương tự như trên, theo PGS.TS Nguyễn Huy Thuật:
Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
liên quan đến mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình
sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý xâm hại đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh
xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh
hưởng đến an ninh xã hội [33, tr. 409].
Tuy nhiên một số học giả khi nghiên cứu tội phạm về mại dâm lại cho
rằng, tội phạm về mại dâm bao gồm các hành vi: Chứa mại dâm; Môi giới
mại dâm; Mua dâm người chưa thành niên; Mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục
đích mại dâm. Trong tác phẩm "Phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam thời kỳ hội

nhập", GS.TS Nguyễn Xuân Yêm cho rằng:
Tội phạm mại dâm bao gồm các hành vi về hoạt động mua
bán tình dục được quy định và điều chỉnh bằng pháp luật hình sự,
tội phạm về mại dâm bao gồm các hành vi sau:
Chứa mại dâm: là hành vi sử dụng, thuê, mượn, cho mượn
địa điểm, phương tiện để mua bán dâm.
Môi giới mại dâm: là hoạt động dụ dỗ, dẫn dắt, làm trung
gian để các đối tượng gặp nhau thực hiện hành vi mua bán dâm.
Mua dâm người chưa thành niên: là hành vi thỏa thuận trả
tiền hoặc vật chất khác để được giao cấu với người chưa thành niên.
Mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm: là hành vi
chuyển giao phụ nữ, trẻ em để thực hiện hành vi mại dâm nhằm thu
lợi nhuận [50, tr. 609-610].
Theo tác giả Nguyễn Hoàng Minh:

18
Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong hoạt động mua bán tình dục được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý xâm phạm tới trật tự công cộng, an toàn công cộng, đến nếp sống
văn minh, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, cần phải xử lý
nghiêm minh bằng pháp luật hình sự [24, tr. 33].
Chúng tôi đồng ý với các quan điểm trên khi nói tội phạm về mại dâm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc lĩnh vực mua bán tình dục do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý. Tuy nhiên qua nghiên
cứu cụ thể cho thấy tội phạm về mại dâm bao gồm nhiều hành vi khác nhau
nên không thể dùng "tội phạm mại dâm" mà phải dùng "tội phạm về mại
dâm" mới bao hàm hết hành vi thuộc nhóm tội này, vì vậy để chính xác về
thuật ngữ chúng tôi hoàn toàn đồng ý như tác giả Nguyễn Hoàng Minh đã sử
dụng cụm từ "tội phạm về mại dâm".

Mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm đã được quy định tại
khoản 2, điểm a Điều 119 và khoản 2 điểm g Điều 120 Bộ luật hình sự 1999
làm tình tiết tăng nặng trong định khung hình phạt của hai tội nói trên nên
không thuộc tội phạm về mại dâm. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự năm 2009 chuyển mua bán phụ nữ Điều 119 thành mua bán
người bao gồm cả phụ nữ và đàn ông và vì mục đích mại dâm là một trong
tình tiết tăng nặng.
Từ những phân tích trên, khái niệm tội phạm về mại dâm theo chúng
tôi được hiểu như sau: Tội phạm về mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội trong hoạt động mua bán tình dục được quy định trong Bộ luật hình sự
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm
trật tự xã hội, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được thể hiện
qua các hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa
thành niên.

19
1.1.2. Ý nghĩa việc quy định các tội phạm về mại dâm trong luật
hình sự Việt Nam
Ở Việt Nam, đứng trên phương diện đạo đức xã hội mại dâm là vấn đề
tiêu cực bị xã hội lên án gay gắt. Ngay ở thời kỳ phong kiến hiện tượng mại
dâm đã tồn tại, hoạt động dưới hình thức đơn giản như: gái nhảy, hát cô đầu
nhằm phục vụ các quan lại, mặc dù thời kỳ này mại dâm không bị coi là tội
phạm. Trải qua thời kỳ thực dân pháp đô hộ để dễ bề cai trị, thực dân Pháp
cho phép mại dâm tồn tại như một nghề và hoạt động công khai. Tuy nhiên
ngay khi giành được chính quyền năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, gây ảnh hưởng tác động xấu đối
với đời sống xã hội, ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống thuần phong mỹ tục của
dân tộc cần phải được đấu tranh phòng ngừa triệt để. Quan điểm này càng
được thể hiện khi đất nước được thống nhất, cả nước tập trung xây dựng chủ
nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, mại dâm đã được

Chính phủ cách mạng lâm thời quy định là tội phạm và phải chịu hình phạt
trong Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15 tháng 3 năm 1976. Trải qua từng giai
đoạn phát triển của đất nước, tội phạm về mại dâm tiếp tục được ghi nhận
trong Bộ luật hình sự đầu tiên năm 1985 tại Điều 202, tội chứa mại dâm, tội
môi giới mại dâm.
Các tội phạm về mại dâm gồm các Điều 254 tội chứa mại dâm,
Điều 255 tội môi giới mại dâm, Điều 256 tội mua dâm người chưa thành niên
được quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 - thuộc Chương XIX - Chương
các tội phạm xâm phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Do
đó, vị trí đó thể hiện nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của quy định về các tội
phạm này.
Việc quy định các tội phạm về mại dâm trong Bộ luật hình sự năm 1999
là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để đấu tranh chống lại hành vi xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng - các hành vi suy đồi đạo đức, ảnh hưởng

20
thuần phong mỹ tục và đang có xu hướng gia tăng trong thực tiễn. Việc quy
định các tội phạm về mại dâm có ý nghĩa to lớn ở nhiều phương diện, cụ thể:
Thứ nhất, quy định các tội phạm về mại dâm là sự ghi nhận và bảo
đảm trong pháp luật Việt Nam các chuẩn mực xã hội, đạo đức, lối sống, thuần
phong mỹ tục, nếp sống văn minh, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người
được thừa nhận bởi cộng đồng nhân loại. Các chuẩn mực xã hội này được
được khẳng định trong các văn kiện của Liên hợp quốc, cũng như nhiều đạo
luật của khắp các quốc gia trên thế giới. Ngăn chặn các hành vi xâm phạm và
biểu hiện xâm phạm bằng pháp luật hình sự là phương pháp đảm bảo hữu
hiệu nhất các giá trị chuẩn mực xã hội, thuần phong mỹ tục, nếp sống văn
minh, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người.
Thứ hai, quy định các tội phạm về mại dâm là nội dung cụ thể hóa
nhiệm vụ của Bộ luật hình sự Việt Nam đã được ghi nhận tại Bộ luật này và:
Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào
các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [29].
Chính vì thế bảo vệ các chuẩn mực xã hội, thuần phong mỹ tục, đạo
đức, danh dự, nhân phẩm con người là một nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu mang
ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết.
Thứ ba, quy định các tội phạm về mại dâm cùng với các tội xâm phạm
an toàn công cộng, trật tự công cộng đã thể chế hóa chủ trương của Đảng ta.
Nghị quyết Đại hội Đảng XI đã đưa nhiệm vụ "Tập trung giải quyết một số vấn
đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương
xã hội) làm nhiệm vụ trọng tâm cần giải quyết trong giai đoạn tới" [17].

21
Với những ý nghĩa nêu trên, các tội phạm về mại dâm cần phải được
các nhà làm luật nước ta quy định một cách chính xác, khoa học, đầy đủ và áp
dụng nghiêm minh, hiệu quả trên thực tế.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM
1.2.1 Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945
Mại dâm là một hiện tượng xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài
người, nhưng mãi đến cuối thế kỷ XX một số luật gia mới nhìn nhận nó là tội
phạm. Nghiên cứu lịch sử phát triển của pháp luật về chống mại dâm ở các
quốc gia trên thế giới, thì Anh là nước đầu tiên ban hành Bộ luật chống mại
dâm năm 1885, tiếp đến là Đan Mạch, Hoa Kỳ, Phần Lan
Trong pháp luật Việt Nam,quan điểm cho rằng mại dâm là tội phạm
cũng hình thành rất muộn. Nghiên cứu lịch sử pháp luật Việt Nam cho thấy
pháp luật phong kiến Việt Nam, điển hình là hai bộ luật Quốc triều Hình luật

triều Lê và Hoàng Việt luật lệ triều Nguyễn đều chưa có những quy định rõ
ràng về hành vi mại dâm. Hai bộ luật này đều coi hành vi hiếp dâm, thông
dâm, phạm gian là những tội phạm bị trừng trị nghiêm khắc, vì nó xâm hại
nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục và trật tự xã hội phong kiến. Tuy nhiên
trong một khía cạnh nào đó thì hiện tượng mại dâm cũng được phản ánh trong
bộ Hoàng Việt luật lệ. Theo Điều 9, phần Phạm gian của Bộ luật này quy định:
Phàm quan lại nuôi con hát trong nhà phạt 60 trượng. Người
làm mối được giảm một mức. Nếu là con cháu quan viên (được tập ấm)
nuôi con hát trong nhà, tội cũng như vậy. Con hát là loại đàn bà thuộc
loại nhạc tịch, quan lại nuôi con hát trong nhà tuy so ra không phải là
tội gian dâm, song hành vi cũng có tì vết nên phạt 60 trượng. Người
làm mối được giảm một mức, phạt 50 roi. Nếu là con cháu quan viên
văn võ mà nuôi con hát trong nhà tội cũng như vậy [45, tr. 882].

22
Phần điều lệ quy định thêm:
Các giám sinh, sinh viên chơi bời, rượu chè, trêu ghẹo các
vị sư trưởng không giữ gìn nội quy nhà trường và mua dâm, đánh
bạc, ra vào phủ quan chạy tiền lo việc, lạm dụng các loại vật liệu
đều bị đuổi về làm dân và trị các tội đã phạm. Nếu thu được của hối
lộ thì kê khai các thứ hối lộ rồi luận theo tội nặng nhất [45, tr. 882].
Như vậy đối tượng bị trừng phạt ở đây là quan lại (con cháu quan lại)
và người làm mối "cuộc vui". Có thể coi đây là quy định đầu tiên trong lịch sử
pháp luật Việt Nam về mại dâm.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng đã biến nước ta
thành nhà nước thực dân nửa phong kiến. Chúng chia nước ta thành ba kỳ
(Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và ở mỗi kỳ chúng cho áp dụng một bộ luật
khác nhau. Ở Trung Kỳ, thực dân Pháp cho áp dụng bộ Hoàng Việt hình luật
do Bảo Đại ban hành. Nghiên cứu Hoàng Việt hình luật (1933) cho thấy trong
số 424 điều luật, nhà làm luật đã dành 8 điều (Điều 300- Điều 307) để quy

định tội phạm gian dâm và trong đó có 07 điều luật về 07 tội danh tương tự
các tội đã được quy định trong 04 điều của Hoàng Việt luật lệ. Tại Điều 301
quy định: "Người nào xét quả là làm tuyến dẫn cho người đàn bà có chồng
thông gian được dễ dàng hay là dẫn dụ đàn bà, con gái mại dâm sẽ bị phạt
giam từ 06 tháng đến 02 năm hay phạt bạc từ 20$00 đến 240$00 hoặc nhất
thiết phạt giam" [45]. Như vậy hành vi môi giới mại dâm đã được điều chỉnh
ở thời kỳ này và bị coi là tội phạm.
1.2.2 Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến khi
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam 1985
Suốt từ năm 1945 đến năm 1954 kể từ khi nhà nước ta ra đời
(02/9/1945) chúng ta phải dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, nên trong giai đoạn này chưa có một văn bản pháp luật hình sự nào mới
điều chỉnh các hành vi mại dâm vì tệ nạn mại dâm phát triển chưa mạnh tính

23
tổ chức còn hạn chế mà chủ yếu là hoạt động mang tính đơn lẻ dưới hình thức
hát cô đầu, hát ả đào.
Thời kỳ 1954-1975 đất nước ta bị chia thành hai miền Nam, Bắc. Ở
miền Nam, giai đoạn đầu chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn cho duy trì một số
đạo luật của chế độ thuộc Pháp trước đây về vấn đề mại dâm. Các nhà chứa
và gái mại dâm được cấp phép là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm
cho tệ nạn mại dâm bùng phát nhanh chóng. Ngày 17/10/1955, Chính quyền
Sài Gòn đã ban hành Dụ số 64 về bài trừ nạn mại dâm và quy định các hành
vi bán dâm, môi giới mại dâm và chứa mại dâm đều bị coi là tội phạm. Tiếp
theo đó Luật số 12/62 ngày 22/5/1962 còn bổ sung hành vi mua dâm cũng là
phạm tội, đặc biệt luật này coi các tình tiết mua dâm người dưới 16 tuổi;
người mua dâm là người đảm nhiệm chức vụ bài trừ tệ nạn mại dâm hoặc có
phận sự giữ gìn sức khỏe cho dân chúng là các tình tiết định khung.
Dưới thời chế độ cũ ở miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã ban hành
Bộ hình luật theo Sắc luật số 026/TT/SLU ngày 20/12/1972. Theo Bộ luật này

hành vi mua dâm, bán dâm không bị coi là tội phạm, các hành vi chứa mại dâm,
tổ chức mại dâm, môi giới, dẫn dắt gái mại dâm và các hành vi đồng phạm
đều bị trừng trị (Điều 357 đến Điều 364). Bộ luật này còn tách hành vi cưỡng
bức mại dâm thành một tội độc lập và có hình phạt nghiêm khắc. Điều 359
quy định: "Kẻ nào giam giữ hoặc dùng bạo hành để cưỡng bách người khác
mại dâm sẽ bị phạt tử hình. Những đồ vật trang trí trong nhà chứa sẽ bị tịch
thâu, kể luân cả nhà chứa, nếu nhà này thuộc quyền sở hữu của kẻ phạm
pháp" [Dẫn theo 50, tr. 128].
Ở miền Bắc, kể từ năm 1954, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã ban hành nhiều chính sách để bài trừ tệ nạn mại dâm, như Nghị quyết số
49-TVQH ngày 20-06-1961 về tập trung giáo dục, cải tạo những phần tử có
hoạt động nguy hiểm cho xã hội; Thông tư 121/CP ngày 09/08/1961 của Hội
đồng Chính phủ hướng dẫn cụ thể việc thi hành Nghị quyết 49/TVQH đã nêu
rõ các đối tượng cần tập trung cải tạo trong đó có những tên chủ chứa và bọn

24
gái điếm: "Những tên lưu manh trộm cắp đã tái phạm nhiều lần và không có
nghề nghiệp, hoặc chỉ có nghề ngụy trang chuyên sống bằng trộm cắp, lừa
đảo và những tên chủ chứa bọn gái điếm hiện đang hoạt động" [34, tr. 182];
Quyết định 129/CP ngày 08-8-1968 của Hội đồng Chính phủ về công tác bảo
vệ an ninh trật tự; Quyết định 154-CP ngày 01-1-1973 của Hội đồng Chính
phủ về việc bổ sung các đối tượng bị coi là phần tử lưu manh chuyên nghiệp
thuộc dạng tập trung cải tạo.
Thời kỳ 1975-1985, ở miền Nam chính quyền ngụy quyền Sài Gòn
sụp đổ nhung những tàn dư tệ nạn của chế độ cũ vẫn để lại nặng nề đặc biệt là
tệ nạn mại dâm. Ngày 15-3-1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL quy định các
tội phạm và hình phạt, tại Điều 9 quy định:
Phạm một trong các tội sau đây:
-

- Cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm, buôn bán, tàng trữ ma túy và
các chất độc khác;
thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm. Trường hợp nghiêm
trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Trong mọi trường hợp, có thể bị
phạt tiền đến 1.000 đồng ngân hàng [35, tr. 237].
Theo Quyết định số 1513/QĐ/UB ngày 25/11/1977 của Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết cải tạo các đối tượng hình sự
và tệ nạn xã hội trong thành phố thì gái mại dâm được phân thành các loại
khác nhau để áp dụng các biện pháp cải tạo thích hợp như: tập trung cải tạo
dài hạn; cưỡng bức lao động tại các trường, trại; tổ chức cải tạo tại chỗ Sau
này theo Chỉ thị số 54/TATC ngày 06/07/1977 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất trong trong cả nước quy định:
Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 (Điều 9) nêu một số
tội phạm như phá rối trật tự công cộng; vi phạm luật lệ giao thông

25
gây tai nạn, tổ chức du đãng, càn quấy, cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm,
buôn bán ma túy và các chất độc nhất và quy định mức hình phạt
cao nhất là 15 năm tù.
Các tòa án thuộc các tỉnh, thành phố phía Bắc cũng có thể
áp dụng thống nhất điều khoản này,vì đối với một số tội nói trên các
tòa án phía Bắc cho đến nay chỉ căn cứ vào án lệ, vào đường lối,
chính sách chung để xử lý [35, tr. 20].
Như vậy sắc luật 03/SL ngày 15-03-1976 của Hội đồng Chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là văn bản pháp luật hình
sự đầu tiên quy định tội phạm về mại dâm và mức xử phạt cụ thể áp dụng đối
với tội phạm này. Sắc luật 03-SL có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng cường tính
pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần bài trừ tệ nạn mại dâm trong phạm vi
toàn quốc.
Qua nghiên cứu pháp luật hình sự về tệ nạn mại dâm dưới các chế độ

xã hội khác nhau mặc dù tệ nạn mại dâm là tệ nạn xã hội xấu xa ảnh hưởng
thuần phong mỹ tục của dân tộc, nhưng trên phương diện luật pháp thì tệ nạn
này có bị coi là hành vi phạm tội hay không còn phụ thuộc vào thực trạng
phát triển của tệ nạn này và bản chất của mỗi chế độ xã hội trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
1.2.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 cho đến
khi pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Mặc dù sắc luật 03-SL có ý nghĩa về mặt lập pháp song nó không
tránh khỏi hạn chế trong quá trình áp dụng như: việc quy định điều luật còn
chung chung dẫn đến sự hiểu sai pháp luật. Vì thế, qua một thời gian nghiên
cứu, soạn thảo, thảo luận, lấy ý kiến từ kỳ hợp thứ 9 Quốc hội khóa VII Bộ
luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực ngày
01/01/1986. Trong đó hoạt động mại dâm được quy định tại một điều luật độc
lập Điều 202 "Tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm" cụ thể là:

×