Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

[ Bản Full ] Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc triều hình luật và sự kế thừa trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 105 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


VŨ GIA HÂN



CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ SỰ KẾ THỪA
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ GIA HÂN


CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ SỰ KẾ THỪA
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH


Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN



Hà Nội – 2014

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Vũ Gia Hân
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1:CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRONG
QUỐC TRIỀU HÌNH…… 6
1.1. Giới thiệu khái quát về Quốc triều hình luật 6
1.1.1. Sự ra đời, hình thành và phát triển của Quốc triều hình luật 6
1.1.2. Bố cục và nội dung cơ bản của Quốc triều hình luật 12
1.2.Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc triều hình luật 16.
1.3. Các giá trị lập pháp của các tội xâm phạm tính mạng của con người
trong Quốc triều hình luật 19
1.3.1. Khách thể của tội phạm 19
1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm 19
1.3.3. Mặt chủ quan của tội phạm 22
1.3.4. Chủ thể của tội phạm 26
1.3.5. Hình phạt và quyết định hình phạt 27
1.3.6. Các quy định khác liên quan đến chính sách hình sự 32
Chương 2:CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRONG

BỘ LUÂT HÌNH SỰ NĂM 1999……… 43
2.1. Khái niệm các tội xâm phạm tính mạng của con người
43 43
2.2. Lịch sử hình thành, phát triển của các tội xâm phạm tính mạng của con
người trong Luật hình sự Việt Nam hiện đại 44
2.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước ngày Bộ luật hình sự năm 1985 có
hiệu lực 45
2.2.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực đến trước khi
ban hành BLHS năm 1999 48
2.3. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong BLHS năm 1999.49
2.3.1. Những điểm mới về quy định các tội xâm phạm tính mạng của con
người trong BLHS năm 1999 so với BLHS năm 1985 49
2.3.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Bộ
luật hình sự năm 1999 52
Chương 3: NHỮNG ĐIỂM KẾ THỪA QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 TỪ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỂ HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY TRONGBỘ
LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 64
3.1. So sánh các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc triều
hình luật với BLHS hiện hành 63
3.1.1. Khách thể của tội phạm 63
3.1.2. Chủ thể của tội phạm 63
3.1.3. Mặt khách quan của tội phạm 65
3.1.4. Mặt chủ quan của tội phạm 68
3.1.5. Hình phạt 71
3.1.6. Các tội phạm tương ứng 72
3.2. Đánh giá những thành tựu lập pháp của các tội xâm phạm tính mạng của
con người trong Quốc triều hình luật cần được kế thừa trong Bộ luật hình
sự hiện hành 74

3.1.1. Những hạn chế về kỹ thuật lập pháp 74
3.1.2. Những ưu điểm cần được kế thừa 76
3.3. Những vấn đề đặt ra để hoàn thiện Bộ luật hình sự hiện hành trong các
tội xâm phạm tính mạng của con người 79
3.3.1. Những bất cập trong các quy định của BLHS hiện hành 79
3.3.2. Những đề xuất hoàn thiện BLHS hiện hành 83
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 88
PHỤ LỤC 91

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



BLHS : BỘ LUẬT HÌNH SỰ
TANDTC : TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TNHS : TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm đường lối xây dựng đất nước của Đảng ta là xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong nội dung này là vấn đề xây
dựng nền văn hóa pháp lý. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật
phong kiến cần phải làm sáng tỏ tinh thần pháp luật và sự kế thừa truyền thống
lập pháp để học tập cái hay, các đặc sắc trong cách làm luật của cha ông ta, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm để giải quyết vấn đề pháp luật của ngày nay.
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển lập pháp của các triều đại
phong kiến Việt Nam, hầu hết các nhà cầm quyền đều chú trọng tới việc xây

dựng, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhiều bộ luật lớn đã ra đời và đóng vai
trò quan trọng trong việc trị nước, an dân. Triều đại nhà Lê sơ, với tư cách là
một triều đại phong kiến có nền pháp luật phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử
các triều đại phong kiến Việt Nam, đã xây dựng hệ thống pháp luật tương đối
hoàn thiện và phát triển. Hệ thống pháp luật hoàn thiện là một trong những
công cụ sắc bén, hiệu quả để phát triển đất nước, tạo nên sức mạnh của dân
tộc để chống lại giặc ngoại xâm phương Bắc hùng mạnh. Trong hệ thống
pháp luật đó, một trong những bộ luật nổi tiếng, có ý nghĩa và giá trị phải kể
đến Quốc triều hình luật (hay còn gọi là “Luật hình triều Lê” hay “Luật Hồng
Đức”) là một trong những bộ luật hoàn chỉnh nhất trong lịch sử pháp luật của
các nhà nước phong kiến Việt Nam. Đây là bộ luật đã được nhiều học giả
trong nước cũng như ngoài nước nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Bên
cạnh đó, Quốc triều hình luật cũng chứa đựng những tư tưởng tiến bộ và được
xây dựng ở một trình độ lập pháp cao so với các văn bản pháp luật phong kiến
trước đó và sau này.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu, luật gia đã có nhiều công trình nghiên cứu
về Quốc triều hình luật dưới nhiều lĩnh vực và góc độ khác nhau. Đặc biệt, các
tội xâm phạm tính mạng của con người được các nhà nghiên cứu, luật gia rất
2

quan tâm. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chỉ mang tính khái quát mà chưa
đi sâu nghiên cứu để rút ra được những giá trị tiến bộ trong Quốc triều hình luật
mà BLHS hiện hành đã kế thừa và cần phải kế thừa để sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện các quy định sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn trong công tác đấu
tranh phòng và chống các tội xâm phạm tính mạng của con người.
Trong giai đoạn hiện nay, việc đấu tranh phòng, chống tội phạm được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trên tinh thần chỉ đạo của Đảng được thể
hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020là “Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền
thống pháp lý dân tộc”[9]. Nhà nước ta đã tiến hành nhiều cuộc cải cách tư

pháp, một trong số đó là việc sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 vào năm 2009.
Tuy nhiên, trước những diễn biến của tình hình tội phạm trong thời gian gần đây,
BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập
của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh. Một trong những
hạn chế đó, liên quan đến kỹ thuật lập pháp, quyền con người, tính nhân đạo,
tính pháp chế
Hiện nay, Quốc hội đang có chương trình nghiên cứu sửa đổi một cách
toàn diện và cơ bản BLHS năm 1999, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung nội dung
những quy định của các tội xâm phạm tính mạng của con người. Do vậy, việc
tiếp tục nghiên cứu những giá trị pháp lý của Quốc triều hình luật trong đó có nội
dung về quy định các tội xâm phạm tính mạng của con người nhằm sửa đổi, bổ
sung để hoàn thiện các quy định của BLHS là vấn đề cấp thiết.
Trên cơ sở đó, tác giả chọn đề tài: “Các tội xâm phạm tính mạng
của con người trong Quốc triều hình luật và sự kế thừa trong BLHS Việt
Nam hiện hành” làm đề tại luận văn thạc sĩ là hết sức cấp thiết trong tình
hình hiện nay.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh những vấn đề có liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng
con người đã có nhiều học giả, luật gia nghiên cứu và có nhiều sách báo dưới
nhiều góc độ khác nhau đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, đề tài “Các tội xâm
phạm mạng con người trong Quốc triều Hình luật và sự kế thừa trong BLHS
Việt Nam hiện hành” là một đề tài mới, từ trước đến nay chưa có một công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Chỉ có một số các công trình nghiên
cứu có liên quan như: Quốc triều hình luật lịch sử hình thành, nội dung và giá
trị của tác giả Lê Thị Sơn; Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam –
Những suy ngẫm của tác giả Bùi Xuân Đính; Quy định về tội giết người trong Bộ

luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long và phương hướng hoàn thiện quy định về tội
giết người trong BLHS Việt Nam hiện hành của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà và
Nguyễn Thị Ngọc Hoa; Quốc triều hình luật và các nguyên tắc của luật hình sự
hiện đại của tác giả Lê Thị Sơn;Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật,
của tác giả Hồ Thị Lý; Kế thừa các quy định tiến bộ, nhân văn đối với những
người bị thiệt thòi trong Quốc triều hình luật của tác giả Lương Văn Tuấn

Như vậy, có thể nói có ít các công trình nghiên cứu về các tội xâm
phạm tính mạng con người trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Quốc triều
hình luật và BLHS hiện hành, chỉ ra những điểm kế thừa và đưa ra những đề
xuất hoàn hiện BLHS hiện hành với tư cách là một đề tài độc lập, chuyên sâu.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đề tài “Các tội xâm phạm tính mạng con
người trong Quốc triều Hình luật và sự kế thừa trong BLHS Việt Nam hiện
hành” là cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề trong các quy
định của các tội xâm phạm tính mạng con người trong Quốc triều hình luật và
BLHS hiện hành. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích, tìm ra những giá trị pháp lý
đã kế thừa và cần phải tiếp tục kế thừa của BLHS hiện hành được rút ra từ Quốc
4

triều hình luật và đưa ra những đề xuất hoàn hiện các quy định của BLHS sửa
đổi, bổ sung năm 1999 trong các tội xâm phạm tính mạng của con người.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quy định
về các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc triều hình luật và
BLHS hiện hành. Trên cơ sở phân tích các quy định trên, luận văn tập trung làm
rõ những điểm kế thừa và đưa ra những đề xuất hoàn hiện BLHS năm 1999.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích: Luận văn cần phảilàm rõ một cách cơ bản và toàn diện về
những quy định củacác tội xâm phạm tính mạng con người trong Quốc triều

hình luật và BLHS hiện hành. Trên cơ sơ đúc kết những thành tựu lập pháp của
Quốc triều hình luật để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy
định về các tội xâm phạm tính mạng con người trong BLHS hiện hành, từ đó
góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, trong quá trình nghiên
cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
1- Nghiên cứu làm rõ những quy định về các tội xâm phạm tính mạng
con người trong Quốc triều hình luật;
2-Làm rõ những quy định về các tội xâm phạm tính mạng con người
trong BLHS hiện hành;
3-So sánh các quy định giữa các tội xâm phạm tính mạng con người
trong Quốc triều hình luật với BLHS hiện hành;
4- Chỉ rõ những điểm đã kế thừa và cần tiếp tục kế thừa của BLHS hiện
hành từ Quốc triều hình luật;
5- Đưa ra đề xuất, kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện các quy định
trong các tội xâm phạm tính mạng của con người trong BLHS hiện hành.

5

5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời những chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung, trong đó có các tội xâm phạm tính mạng
của con người. Một số phương pháp nghiên cứu cụ thểđược luận văn sử dụng
là:phương pháp hệ thống, phương pháp logic, phương pháp phân tích,phương
pháp tổng hợp,phương pháp so sánh và phương pháp lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Việc làm rõ những nội dung của luận văn có ý nghĩa quan trọng trong
việc giúp các nhà nghiên cứu, các nhà lập pháp có thêm một nguồn tài liệu
tham khảo trong việc nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của BLHS hiện

hành liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng của con người. Ngoài ra, luận
văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo giảng dạy, nghiên cứu, học tập trong
các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc triều
hình luật
Chương 2: Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Bộ luật
hình sự năm 1999
Chương 3: Những điểm kế thừa quy định các tội xâm phạm tính mạng
của con người trong Bộ luật hình sự năm 1999 từ Quốc triều hình luật và những
vấn đề đặt ra để hoàn thiện những quy định này trong Bộ luật hình sự hiện hành
6

Chương 1
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TRONGQUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT
1.1. Giới thiệu khái quát về Quốc triều hình luật
1.1.1. Sự ra đời, hình thành và phát triển của Quốc triều hình luật
Quốc triều hình luật ra đời gắn liền với sự hình thành, phát triển của
pháp luật phong kiến Việt Nam, nó không chỉ học tập, tham khảo pháp luật
nhà Đường, nhà Tống, nhà Minh mà nó còn kế thừa pháp luật của các triều
đại trước đó. Thời đại phong kiến Việt Nam bắt đầu và kết thúc từ khi nào,
hiện nay còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong giới học giả. Nhưng đa phần
các ý kiến cho rằng, các triều đại phong kiến Việt Nam bắt đầu từ triều đại
nhà Ngô và kết thúc ở triều đại nhà Nguyễn. Trên cơ sở đó, tác giả xin nêu ra
một số các đặc điểm của pháp luật phong kiến Việt Nam qua các thời kỳ:
Thời kỳ nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê (939- 1009): Thời kỳ này, khi đất
nước ta mới thoát khỏi hơn 1000 năm Bắc thuộc, các nhà nước buổi đầu thời

kỳ xây dựng nền độc lập, tự do dân tộc. Vì vậy, nhà nước mang đậm màu sắc
tù trưởng quân sự. Những yếu tố này ảnh hưởng lớn đến luật pháp. Từ những
tư liệu ít ỏi, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét đối với pháp luật thời kỳ
này như sau: Triều đình chủ yếu dùng uy lực để răn dạy và chế ngự nhân dân,
nhằm củng cố quyền lực trung ương. Các biện pháp rất cụ thể như vua Đinh:
“Muốn dùng uy chế ngự thiên hạ bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ
trong cũi, hạ lệnh rằng: kẻ nào trái phép phải chịu tội vạc dầu, cho hổ ăn.
Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm”[32, tr.59].
Thời kỳ nhà Lý – Trần – Hồ (1010 -1407):Năm 1010, Lý Công Uẩn lên
ngôi lập ra nhà Lý, đặt nền móng cho một trong những triều đại thịnh trị của lịch
sử phong kiến dân tộc. Các nhà nghiên cứu đã thống nhất cho rằng trước thời Lý,
ở Việt Nam chưa có luật thành văn, pháp luật chủ yếu còn tồn tại dưới dạng các
7

hương ước và tục lệ. Như vậy, Hình thư là bộ luật đầu tiên của Việt Nam. Về lý
do ban hành Hình thư, sách Đại Việt sử ký toànthưchép:
Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ
luật pháp phải câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có
người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư
san định luật lệnh, châm trước cho thích dụng với thời thế, chia ra
muôn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một
triều đại, để cho người xem dễ hiểu [32, tr.98-99].
Từ những tư liệu trên cho thấy, người đứng đầu triều đại nhà Lý đã nhận
thức được sự cần thiết phải có luật thành văn để dân biết mà điều chỉnh hành vi,
“quan lại có căn cứ để xét xử, tránh việc tùy tiện dẫn đến oan sai, nhà nước có cơ
sở để kiểm tra, giám sát” [18, tr.15]. Trong các tội xâm phạm tính mạng, nhà Lý
có chính sách rất nhân đạo, cụ thể: Năm 1142, Lý Anh Tông xuống chiếu “Nếu
tranh nhau ruộng ao, mà lấy binh khí nhọn, sắc đánh chết hay làm bị thương
người thì đánh 80 trượng, xử tội đồ, đem ruộng ao trả cho người chết hoặc bị
thương”. Có thể nói, hình phạt đối với tội giết người trong pháp luật nhà Lý quá

nhẹ, nên sử thần Ngô Sĩ Liên có nhận xét rằng: “Giết người thì phải xử tội chết,
đó là phép của đời xưa. Nay tội giết người cũng xử như tội khác thực là không
phân biệt mức độ, mất sự cân nhắc nặng nhẹ”[32, tr.314]
Nhà Trần (1225 – 1400) thay thế nhà Lý tiếp tục xây dựng và bảo vệ
đất nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó có luật pháp. Nhà Trần có nhiều văn
bản luật hoàn chỉnh hơn so với nhà Lý. Nổi bật lên là những bộ luật: “Quốc
triều tông chế”;“Quốc triều thường lễ” (1230); “Hoàng triều ngọc điệp”
(1267); “Hoàng triều đại điển” (1341); “Hình luật thư” (1341); “Công văn
cách thức” (1290)… Hầu hết những văn bản luật này có phạm vi điều chỉnh
rộng, bao quát hầu hết mọi lĩnh vực đời sống xã hội thời bấy giờ.
Nhà Hồ (1400 - 1407): Triều đại Trần bước vào giai đoạn suy tàn, tình
hình đất nước rối ren, nông dân khởi nghĩa. Nhân thời cơ đó, Hồ Quý Ly đoạt
8

ngôi về tay họ Hồ (1400). Cũng trong giai đoạn này, Hồ Quý Ly cho thi hành
cuộc cải các táo bạo. Cuộc cải cách không lấy được lòng dân nên không thành
công. Cũng trong thời gian đó, quân Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ kháng
chiến nhanh chóng bị thất bại. Đất nước rơi vào tay giặc. Quân Minh thi hành
chính sách vơ vét, bóc lột về kinh tế và tàn phá các giá trị văn hoá Đại Việt.
Các tư liệu lịch sử rất ít nhắc đến luật pháp triều Hồ. Tuy nhiên, nhà Hồ có
ban hành bộ “Đại Ngu quan chế hình luật” nhưng hiện nay không còn do
quân Minh sang đốt phá.
Thời kỳ nhà Lê sơ (1428 – 1527): Theo các tài liệu lịch sử, năm 1428
nhà Lê được thành lập trên cơ sở cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Lê Lợi lên ngôi vua (Lê Thái tổ), lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quan chế,
xây dựng bộ máy chính quyền, quan lại, ban hành pháp luật để cai trị đất nước.
Ngay khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã tiến hành công cuộc tái thiết và phục hồi đất
nước sau chiến tranh, một trong số đó là việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn
thiện. Khi hạ lệ cho các tướng hiệu và các quan, Lê Thái Tổ cho rằng:
Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp

luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy
các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào
là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để
đến nỗi phạm pháp[32, tr.361].
Trong thời gian tồn tại của mình từ năm 1428 đến năm 1789, triều đại
nhà Lê đã để lại những thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp luật và điển chế.
Theo thứ tự thời gian, có thể kể đến các văn bản pháp luật quan trọng sau đây:
Quốc triều hình luật gồm có 6 quyển; Luật thư gồm có 6 quyển do Nguyễn
Trãi soạn (1440 – 1442); Lê triều quan chế (1471); Thiên Nam dư hạ tập gồm
100 quyển (1483); Hồng Đức thiện chính thư (1470 – 1497); Sĩ hoạn châm
quy (1470 – 1497); Quốc triều chiếu lệnh thiện chính (1619 – 1705); Quốc
triều điều luật; Cảnh Hưng điều luật (1740 – 1786 ) [33, tr.11].Trong tất cả
9

các văn bản trên, Quốc triều hình luật được coi là bộ luật quan trọng nhất và
tiêu biểu cho hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam nói chung và hệ thống
pháp luật của triều Lê sơ nói riêng. Quốc triều hình luật được các nhà nghiên
cứu cổ luật trong và ngoài nước đánh giá cao. Trong các công trình nghiên
cứu tùy thuộc vào góc độ tiếp cận, các nhà nghiên cứu cổ luật đều thống nhất
đánh giá rằng: “Tính thực tiễn và những yếu tố luật tục chứa đựng trong
nhiều chế định là nét đặc sắc của Bộ luật” [29, tr.43].
Thời kỳ nhà Mạc (1527 – 1593), Lê Trung hưng(1533-1789), nhà Tây
Sơn (1788-1802):Sau giai đoạn thịnh trị của nhà nước Đại Việt là khoảng thời
gian xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ
XVIII. Các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến với nhau, các cuộc
khởi nghĩa nông dân từ Đàng ngoài đến Đàng trong là những sự kiện nổi bật
nhất.Thời kì này, luật pháp chủ yếu theo pháp luật nhà Lê sơ. Ở Đàng ngoài
xuất hiện thêm bộ “Khánh tụng điều lệ” qui định các thủ tục rõ ràng chặt chẽ
hơn. Ngoài ra, luật pháp Đàng ngoài có thêm những qui định về cấm đạo
Thiên chúa. Triều đại Tây Sơn tồn tại ngắn ngủi nên pháp luật không có điểm

nổi bật.Nhìn chung pháp luật thời kì này vẫn dựa trên bộ luật Quốc triều hình
luật. Vì bộ luật đó khá hoàn chỉnh. Và ánh hào quang của nhà Lê vẫn còn nên
nó là cơ sở cho sự tồn tại lâu năm của Quốc triều hình luật. Ngoài ra, pháp
luật không có những thay đổi mạnh vì pháp luật phải dựa trên nền tảng ổn
định về chính trị, trong khi thời kì này loạn lạc nhiều.
Thời kỳ nhà Nguyễn (1802 – 1858): Nguyễn Ánh sau khi đánh bại
triều đại Tây Sơn đã lập ra triều đình nhà Nguyễn năm 1802. Triều Nguyễn
xây dựng pháp luật trên cơ sở đề cao hệ tư tưởng Nho giáo. Để củng cố chế
độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời
gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần
thần biên soạn bộ luật mới có tên là: Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật
Gia Long). Bộ luật này được nhiều học giả đánh giá là không có tính dân tộc,
10

vì luật Gia Long gần như sao chép hoàn toàn luật Đại Thanh. Vì vậy, nó đã
tước bỏ hết những điểm tiến bộ, đặc sắc trong Quốc triều hình luật mà nhà Lê
xây dựng trước đó.
* Về thời điểm khởi thảo, ban hành Bộ Quốc triều hình luật
Có nhiều quan điểm khác nhau của các học giả, các nhà nghiên cứu về
thời gian ra đời của Quốc triều hình luật. Hiện nay,“Việc xác định thời điểm
khởi thảo Bộ luật này cũng như thời điểm tiêu biểu nhất cho sự hoàn chỉnh bộ
luật vẫn đang là một vấn đề chưa được khẳng định”[33, tr.13].
Căn cứ vào thiên Hình luật chí và Văn tịch chí trong Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú, Raymond Deloustal – một học giả người
Pháp khi khảo dịch Bộ luật nhà Lê ra Pháp ngữ và giáo sư Lingat trong một
công trình nghiên cứu về các chế độ hôn sản tại Đông Nam Á công bố ở Paris
năm 1952 đều cho rằng “Quốc triều hình luật được ban hành vào năm 1777”
[33, tr.13-14]. Theo tôi, quan điểm của Raymond Delaustal và Lingat về thời
điểm ban hành Quốc triều hình luật là chưa chính xác. Bởi vì, mốc thời gian
năm 1777 tương ứng với giai đoạn nhà Lê Trung hưng (1533- 1789), nên

Quốc triều hình luật không thể ban hành vào năm này được.
Theo tác giả Đinh Gia Trinh cho rằng “Quốc triều hình luật được ban
hành dưới triều vua Lê Thánh Tông trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470
– 1497) trên cơ sở tập hợp có hệ thống các luật lệ của các vua Lê trước đó và
có sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản mới. Ông gọi là Bộ luật 1483”
[11, tr.155-156].
Theo quan điểm của tác giả Vũ Văn Mẫu dựa vào ý kiến của Phan
Huy Chú viết về việc ban hành dưới thời Lê bộ Quốc triều hình luật và lời đề
tựa bộ Hoàng Việt luật lệ (bộ luật Gia Long) của vua Gia Long đầu triều
Nguyễn đánh giá cao Quốc triều hình luật và trên cơ sở một số sách chuyên
khảo về cổ luật Việt Nam cho rằng: “Bộ luật này được ban bố lần đầu tiên
11

trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) và phần chắc vào những
năm cuối của niên hiệu Hồng Đức, dưới thời Lê Thánh Tông” [33, tr.15].
Theo học giả Nguyễn Quang Quýnh cho rằng:“Quốc triều hình luật
được điển chế vào khoảng năm 1470 dưới triều vua Lê Thánh Tông. Hiện
tại, nhiều người thường gắn Bộ Quốc triều hình luật triều Lê với niên hiệu
Hồng Đức”[22, tr.73].
Một số tác giả khác như Nguyễn Ngọc Huy, Yamamoto Tatsuro và
Insun Yu lại cho rằng “Quốc triều hình luật được khởi thảo ngay dưới
triều vua Lê Thái Tổ và được sửa đổi, bổ sung nhiều dưới triều vua Lê
Thánh Tông”[27, tr.44].
Theo quan điểm Viện Sử học Việt Nam cho rằng: “Quốc Triều hình
luật được khởi thảo từ thời Lê Thái Tổ, sau đó tiếp tục được bổ sung dưới các
triều Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Tới thời Lê Thánh Tông thì bộ luật
được hoàn chỉnh”[33, tr.260].
Theo tác giả Vũ Thị Nga cho rằng: “Quốc triều hình luật được ban
hành vào năm 1428 dưới triều vua Thái Tổ ngay khi vừa thiết lập triều
đại ”[27, tr.49].Trong đó, Quốc triều hình luật được phát triển trên cơ sở là

“thành quả lập pháp của nhiều triều vua hậu Lê”[27, tr.49]và vua Lê Thánh
Tông được nhiều học giả, nhà nghiên cứu đánh giá là người có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện Bộ luật Quốc triều hình luật “Vua Lê
Thánh Tông (1460 – 1497) – vị vua anh minh bậc nhất của triều Lê sơ đã có
những đóng góp lớn lao để hoàn thiện về cơ bản của Bộ Quốc triều hình
luật” [27, tr.53].
Về thời gian có hiệu lực của Quốc triều hình luật: “Bộ luật này được
thi hành trong suốt thời gian thời nhà Lê từ Lê sơ đến Lê Trung hưng, nghĩa
là từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, tất nhiên là các triều vua sau có sửa
đổi, bổ sung ít nhiều” [31, tr.31].
12

1.1.2. Bố cục và nội dung cơ bản của Quốc triều hình luật
Quốc triều hình luật tiếp thu nhiều thành tựu lập pháp của Trung Hoa,
chịu ảnh hưởng của pháp luật nhà Đường, nhà Tống, nhà Minh. Tuy vậy, bộ
luật này có những điểm không giống với các bộ luật của nhà nước phong kiến
Trung quốc cả về nội dung lẫn bố cục. Theo tác giả Insun Yu, “trong Quốc
triều hình luật có 261 điều khoản vay mượn hoàn toàn từ bộ luật nhà Đường,
53 Điều khoản vay mượn từ bộ luật nhà Minh. Những điều khoản vay mượn từ
luật nhà Đường, nhà Minh đều thuộc các lĩnh vực hình sự, hành chính, lễ nghi
triều chính và gia đình”[13, tr.70].
Ngoài sự vay mượn luật nhà Đường, nhà Minh, cũng theo Insun Yu
cho rằng: Quốc triều hình luật còn chịu ảnh hưởng của luật nhà Tống, vì Ngũ
hình trong luật nhà Đường không có mức hình phạt lăng trì, hình phạt lăng trì
có nguồn gốc từ dân tộc Liêu, được người Trung Quốc biết đến từ đời nhà
Tống. Ngoài ra, “hình phạt thích chữ cũng không có trong nhà Đường mà nó
được thi hành ở thời nhà Tống”[27, tr.63].
Về bố cục, Quốc triều hình luật có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển
(5 quyển có 2 chương trong một quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722
điều. Bố cụ được chia ra như sau:

Quyển
Chương
STT các điều luật
Số điều
luật
I
Danh lệ (Tên gọi luật lệ)
Vệ cấm (Canh giữ bảo vệ)
1 – 49
50 – 59
49
47
II
Vi chế (Làm trái pháp luật)
Quân chính
97 – 240
241 – 283
144
43
III
Hôn hộ (hôn nhân gia đình)
284 – 341
58
13

Điền sản
- Điền sản mới tăng thêm
- Bổ sung thêm về luật hương hỏa
- Châm chước bổ sung về luật
hương hỏa

Thông gian
342 – 373
374 – 387
388 – 391
292 – 400
401 - 410
32
14
4
9
10
IV
Đạo tặc (Trộm cướp)
Đấu tụng (Đánh nhau kiện cáo)
411 – 464
465 - 514
54
50
V
Trá ngụy(Gian dối)
Tạp luật
515 – 552
553 - 644
38
92
VI
Bộ vong (Bắt tội phạm chạy trốn)
Đoán ngục (Xử án)
645 – 657
658 - 722

13
65


Tổng số
722

* Nội dung cơ bản của Quốc triều hình luật được phân thành các
phần sau đây:
Trước khi đi vào các chương, điều thì Quốc triều hình luật quy định
các đồ biểu quy định về 5 hạng để tang và tang phục, biểu đồ để tang 9 bậc họ
nội, quy định các loại hình cụ, bao gồm: roi, trượng, trượng để tra tấn, gông,
dây sắt.
- Chương 1: Các quy định chung của tội phạm và hình phạt. Chương
này có tên gọi là Danh lệ, gồm có 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản
có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác như: quy định về thập
ác tội, ngũ hình, bát nghị
14

- Chương 2: Nhóm các tội xâm phạm hoặc đe dạo tính mạng, quyền
lực của nhà vua, sự an toàn của hoàng cung và sự toàn vẹn lãnh thổ. Chương
này có tên gọi là chương Cấm vệ, gồm có 47 Điều quy định về việc bảo vệ
cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ. Các điều luật này được quy định
từ Điều 50 đến Điều 96, với các tội như: Tự tiện vào thái miếu (Điều 50), Tự
tiện vào hoàng thành (Điều 51); Ngủ đêm tại cung điện không đúng phận sự
(Điều 54);
- Chương 3: Nhóm tội xâm phạm lễ nghi, quan hệ vua tôi và chế độ
quân chủ triều Lê. Chương này có tên gọi là Vi chế (làm trái pháp luật), gồm
có 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai phạm của quan lại, các
tội phạm về chức vụ. Các quy định này được ghi nhận từ Điều 97 đến Điều

240 với các tội như: Tự tiện đặt thêm quan chức (Điều 97); quan lại vắng mặt
phiên chầu không có lý do (Điều 100);
- Chương 4: Nhóm tội phạm về quân sự. Nhóm tội này có tên gọi là
Quân chính, gồm 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của
tướng sĩ, các tội phạm liên quan đến quân sự. Các điều luật này được quy
định từ Điều 241 đến Điều 283, với các tội như: Điều động quân đội không
đúng hạn định (Điều 242); Quân lính lâm trận không theo pháp độ (Điều
245); Tướng hiệu tiết lộ quân cơ (Điều 247); Lâm trận trái lệnh chủ tướng
(Điều 252)
- Chương 5: Nhóm tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình, chế độ
quản lý nhân khẩu. Nhóm tội này có tên gọi là Hôn hộ, gồm có 58 điều quy
định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân – gia đình và các tội phạm trong lĩnh vực
này. Các điều luật được quy định từ Điều 248 đến Điều 341, với các tội như:
Thay đổi tên họ trốn sang địa phương khác để tránh việc quan (Điều 286);
người lạ đến nghỉ trọ tại thôn xóm mà không trình báo (Điều 293); Bỏ lửng
vợ (Điều 308);
15

- Chương 6: Nhóm tội xâm phạm chế độ đất đai. Chương này có tên
gọi là Điền sản, gồm có 59 điều trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung
(14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm
chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và
các tội phạm trong lĩnh vực này. Các điều luật được quy định từ Điều 342 đến
Điều 400, với các tội như: Chiếm ruộng đất công quá hạn định (Điều 343);
Chiếm đoạt đất đai của lương dân (Điều 370); Bán trộm ruộng đất của người
khác (Điều 382)
- Chương 7: Nhóm tội thông gian. Nhóm tội này có tên gọi là Thông
gian, gồm có 10 điều quy định về các tội phạm tình dục, từ Điều 401 đến
Điều 410, với các tội như: Gian dâm với vợ lẽ người khác (Điều 401); Cưỡng
dâm (Điều 403) Thông dâm với vợ người khác (Điều 405);

- Chương 8: Nhóm tội đạo tặc. Nhóm tội này có tên gọi là Đạo tặc,
gồm có 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số các tội
phạm chính trị, được quy định từ Điều 411 đến Điều 464, với các tội như:
Mưu mô làm việc đại nghịch (Điều 411); Giết người (Điều 415); cướp của
giết người (Điều 426);
- Chương 9: Nhóm tội đấu tụng, gồm có 50 điều quy định về các
nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ , được quy định từ
Điều 465 đến Điều 514, với các tội như: Cố ý đánh chết người (Điều 467);
Đánh người trong hoàng tộc (Điều 474); Đánh lại người thi hành công vụ
(Điều 493);
- Chương 10: Nhóm tội trá ngụy. Tên gọi của nhóm tội này là Trá
ngụy, gồm 38 điều quy định về các tội giả mạo, lừa dối, được quy định từ
Điều 515 đến Điều 552, với các tội như: Làm giả chiếu chế của triều đình
(Điều 519); Giả mạo công văn giấy tờ (Điều 553);
- Chương 11: Nhóm tạp luật, gồm có 92 điều quy định những tội phạm
khác nhau về mọi mặt của đời sống xã hội phong kiến. Về thực chất chương
16

này mang tính hỗn hợp, nhằm bổ sung cho những loại tội phạm được quy định
trong các chương khác của Quốc triều hình luật. Nó gồm có 92 điều, từ Điều
553 đến Điều 644, với các tội như: Đặt cạm bẫy (Điều 556); Tự tiện dời cầu,
đổi bến (Điều 575); Để xảy ra hỏa hoạn trong kinh thành (Điều 617);
- Chương 12: Nhóm tội bộ vong, gồm có 12 điều quy định về việc bắt
tội phạm chạy trốn và các tội phạm thuộc lĩnh vực này, được quy định từ Điều
645 đến Điều 657, với các tội như: Không giúp sức đuổi bắt tội phạm (Điều
647); Để lộ việc truy bắt tội phạm (Điều 648);
- Chương 13: Nhóm tội đoán ngục, gồm có 65 điều quy định về việc
xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này, được quy định
từ Điều 658 đến Điều 722, với các tội như: Tự tiện giam tội nhân ở nơi không
đúng quy định (Điều 659); Tra khảo tội phạm quá ba lần (Điều 669); Xử án

không theo cáo trạng (Điều 670);
Như vậy, sự ra đời của Quốc triều hình luật thực sự là sự kiện có giá
trị đặc biệt trong lịch sử thể chế và củng cố pháp luật thời nhà Lê sơ. Hay nói
cách khác là bản thân Quốc triều hình luật đã là thành tựu của sự tăng cường
pháp chế dưới thời nhà Lê. “Nếu xét về mặt kỹ thuật lập pháp hình sự thì tuy
được ban hành cách đây khoảng hơn 500 năm, Bộ luật này đã mang nhiều đặc
điểm của Bộ luật hình sự hiện đại” [23, tr.14]. Về cấu trúc, Bộ luật cũng bao
gồm hai phần: Phần chung và phần các tội phạm. Các quy định trong chương
Danh lệ có thể coi là phần chung, đó là các quy định mang tính chất chung thể
hiện những nguyên tắc nhất định và đã được cụ thể hóa trong các quy định về
tội phạm trong các chương tiếp theo.
1.2. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc triều
hình luật
Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc triều hình luật
không được quy định tập trung trong một chương như trong BLHS hiện hành
mà nó được quy định trong nhiều chương khác nhau, cụ thể:
17

* Chương Danh lệ (Tên gọi luật lệ): Có nhiều quy định liên quan đến
các tội xâm phạm tính mạng của con người ở Điều 2 và một số điều luật có
liên quan là Điều 1, Điều 4, Điều 5, Điều 11, Điều 16, Điều 18 Ví dụ: Khoản
4, 5, 8, 9 Điều 2 quy định về tội ác nghịch, tội bất đạo, tội bất mục, tội bất
nghĩa, đây là 4 trong 10 tội thập ác:
4. Ác nghịch, là đánh và mưu giết người ông bà, cha mẹ, bác, chú,
thím, cô, anh, chị, em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng.
5. Bất đạo, là giết một nhà ba người không đáng tội chết, giết người
chặt thây ra từng mảnh, bỏ thuốc độc bùa mê.
8. Bất mục, là giết hay đem bán những người trong họ từ hàng phải
để tang 3 tháng trở lên, đánh đập và tố cáo chồng, cùng những họ
hàng từ tiểu công trở lên.

9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đương chức tại
nhiệm; giết thày học [33].
* Chương Đạo tặc (trộm cướp): Đây là chương tập trung nhiều nhất
các quy định về các tội xâm phạm tính mạng của con người, gồm có 25 điều
được quy định từ Điều 415 đến Điều 429, như: Tội chủ mưu giết người (Điều
415); Tội chủ mưu giết bậc tôn trưởng hay ông bà, cha mẹ (Điều 416); Tội nô
tỳ mưu giết chủ (Điều 417); Ví dụ: Điều 415 quy định về tội chủ mưu giết
người: “Những kẻ mưu giết người, thì xử tội lưu đi châu gần; đã làm người ta
bị thương, thì xử tội lưu đi châu ngoài; nếu vì bị thương mà chết, thì xử tội
giảo; đã chết xử tội chém; tòng phạm đều bị xử nhẹ hơn tội trên một bậc;
phải trả tiền đền mạng và tiền thương tổn như luật”.
* Chương Đấu tụng (Đánh nhau kiện cáo): Trong chương này, mặc
dù là chương có tên gọi là đánh nhau kiện cáo, liên quan đến các nhóm tội
xâm phạm sức khỏe của con người nhưng nó có rất nhiều quy định liên quan
đến các tội xâm phạm tính mạng của con người ở các Điều 467, 479, 469,
18

475, 476, 477, 478, 480, 481, 482, 483,484, 484, 486, 490, 493, 494, 497,
498, 499 Ví dụ: Điều 467 quy định về Tội cố ý đánh chết người:
Đánh nhau mà chết người thì phải tội giảo, lấy gươm giáo cố ý
giết người thì phải tội chém. Dù vì đánh nhau mà dùng gươm giáo
đánh chết người, thì cũng phải tội cố sát. Không vì đánh nhau mà cố ý
đánh bị thương thì xử nặng hơn tội đánh nhau bị thương một bậc;
đánh nhau đã xong rồi mỗi bên đi mỗi ngả mà trở lại đánh chết, hay
làm bị thương người ta thì xử tội cố sát [33].
* Chương Bộ vong (bắt tội phạm chạy trốn): Chương này có một số
quy định liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng của con người, quy định
ở các Điều 645, Điều 646, Điều 649, Điều 652. Ví dụ: Điều 646 quy định:
Đi bắt tội nhân mà tội nhân chống cự bị người đi bắt đánh
chết, hay là vì tội nhân bỏ chạy, đuổi mà chết, hay là tội nhân cùng

quẫn quá mà tự sát, thì người đi bắt đều được miễn tội. Đã bắt được
tội nhân rồi mà còn đánh chết, thì xử nhẹ hơn tội đánh nhau chết
bốn bậc; dùng đồ nhọn sắc mà đánh chết chỉ giảm một bậc. Tội
nhân vốn phạm tội chết mà [người đi bắt] đánh chết, thì xử tội biếm
một tư. Tội nhân chống cự đánh người đến bắt, thì xử nặng hơn tội
trước một bậc; đánh bị thương thì xử nặng hơn tội đánh nhau bị
thương hai bậc; đánh chết thì xử chém. Nếu người ngoài giúp kẻ tội
nhân chống cự người đến bắt, mà người đến bắt đánh chết ngay tại
chỗ thì không bị xử tội[33].
* Chương Đoán ngục (xử án): Trong chương này cũng có một số quy
định liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng của con người, được quy định
ở các Điều 661, Điều 662 và Điều 680. Ví dụ: Điều 682 quy định về tội quan
giám lâm đánh chết người hoặc bức tử người tù:
Những quan giám lâm, nhân việc công cầm gậy đánh chết
người hay dọa nạt bức tử người ta, thì khép vào tội lầm lỡ giết
19

người. Nếu lấy gậy lớn hay dùng tay chân đánh người bị thương
đến què, thì bị tội nhẹ hơn tội đánh nhau bị thương hai bậc. Nếu
cầm mũi nhọn sắc thì xử theo tội đánh nhau giết người hay làm bị
thương [33, tr.266].
1.3. Các giá trị lập pháp của các tội xâm phạm tính mạng của con
người trong Quốc triều hình luật
1.3.1. Khách thể của tội phạm
Trong Quốc triều hình luật, khách thể của tội phạm không được các
nhà làm luật bấy giờ đề cập đến. Nó là khái niệm được nghiên cứu dưới góc
độ của khoa học luật hình sự hiện đại. Tuy nhiên, nghiên cứu dưới góc độ của
Luật hình sự hiện đại, khách thể của các tội xâm phạm tính mạng của con
người trong Quốc triều có thể hiểu là quyền sống, quyền được tôn trọng và
bảo vệ tính mạng của con người cụ thể bị hành vi phạm tội xâm hại.

Mặc dù, Quốc triều hình luật không có quy định ghi nhận đảm bảo
quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người như
trong pháp luật hiện hành, nhưng thông qua các quy định của nhóm các tội
xâm phạm tính mạng của con người thì những quyền này được pháp luật triều
Lê sơ bảo vệ rất nghiêm ngặt. Nghiên cứu nhóm tội xâm phạm tính mạng cho
thấy, những người phạm phải các tội này đều phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý rất nặng nề, như: hình phạt chém bêu đầu, chém, giảo, đồ, lưu Đây
đều là những hình phạt rất nặng, thể hiện quan điểm của nhà làm luật bấy giờ
đối với việc trấn áp nhóm tội phạm này.
1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm theo quan điểm của luật hình sự hiện đại
gồm có: hành vi phạm tội, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm
tội và hậu quả phạm tội:

×