Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

[ Bản Full ] Kiểm sát hoạt động điều tra - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn (trên cơ sở nghiên cứu số liệu tại địa bàn tỉnh Nam Định)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 114 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT






NG TH HNG THY




Kiểm sát hoạt động điều tra -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
(trên cơ sở nghiên cứu số liệu tại địa bàn tỉnh Nam Định)


Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04




LUN VN THC S LUT HC







Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN NGC CH





H NI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN


Đặng Thị Hồng Thủy



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT
ĐỘNG ĐIỀU TRA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM 8
1.1. Khái quát về giai đoạn điều tra và hoạt động điều tra trong
tố tụng hình sự 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động điều tra vụ án hình sự 11
1.2. Kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự 13
1.2.1. Khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự 14
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát hoạt động điều tra 17
1.2.3. Mối quan hệ giữa kiểm sát hoạt động điều tra và thực hành
quyền công tố trong tố tụng hình sự 19
1.2.4. Ý nghĩa, vai trò của kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự 23
1.2.5. Kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự ở nước ta từ năm 1945
đến nay 26
1.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
hoạt động điều tra vụ án hình sự 29
1.4. Tổ chức thực hiện công tác kiểm sát hoạt động điều tra vụ án
hình sự 32


Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ
ÁN HÌNH SỰ 35
2.1. Kiểm sát Khởi tố bị can 35
2.2. Kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi 37
2.3. Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan 40
2.3.1. Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can 40
2.3.2. Kiểm sát hoạt động lấy lời khai người làm chứng 42
2.3.3. Kiểm sát hoạt động lấy lời khai người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan 44
2.4. Kiểm sát hoạt động khám xét, đối chất, nhận dạng, thực
nghiệm điều tra 45
2.4.1. Kiểm sát hoạt động khám xét 45
2.4.2. Kiểm sát hoạt động đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra 46
2.5. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn 47
2.5.1. Kiểm sát hoạt động bắt người 47
2.5.2. Kiểm sát việc áp dụng bỏ biện pháp tạm giữ 52
2.5.3. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam 54
2.5.4. Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác 56
2.5.5. Kiểm sát việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam 59
2.6. Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra 60
2.6.1. Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra 60
2.6.2. Kiểm sát đình chỉ điều tra 63
Chương 3: THỰC TIỄN CÔNG TÁC KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU TRA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 66


3.1. Thực tiễn công tác kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự
trên địa bàn tỉnh Nam Định 66
3.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Nam Định 66
3.1.2. Tình hình tổ chức cán bộ và hoạt động của VKSND tỉnh Nam Định 67
3.1.3. Một số kết quả đạt được trong công tác kiểm sát hoạt động điều
tra các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Nam Định từ năm 2009
đến 2013 68
3.1.4. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm sát hoạt động điều
tra của VKSND tỉnh Nam Định 80
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác kiểm sát
hoạt động điều tra 85
3.2.1. Quy định của pháp luật 85
3.2.2. Tổ chức thực hiện công tác kiểm sát hoạt động điều tra 88
3.2.3. Việc đào tạo, sắp xếp cán bộ, kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ
kiểm sát điều tra 88
3.2.4. Điều kiện cơ sở vật chất 89
3.3. Các giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt
động điều tra 90
3.3.1. Đề xuất xây dựng hoàn thiện pháp luật 90
3.3.2. Giải pháp để thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ kiểm sát hoạt
động điều tra 95
3.3.3. Giải pháp kiến nghị về tăng cường công tác chỉ đạo điều hành, tổ
chức tập huấn nghiệp vụ và tổng kết rút kinh nghiệm 97
3.3.4. Giải pháp kiến nghị về công tác cán bộ 99
3.3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và hoàn thiện chính sách 101
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



ATGT: An toàn giao thông
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CSGT: Cảnh sát giao thông
HĐTP: Hội đồng thẩm phán
HĐXX: Hội đồng xét xử
KNHT: Khám nghiệm hiện trường
KNTT: Khám nghiệm tử thi
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
THQCT: Thực hành quyền công tố
TTHS: Tố tụng hình sự
UBND: Ủy ban nhân dân
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1:
Công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của
VKS tỉnh Nam Định (kết quả giải quyết của CQĐT)

69
Bảng 3.2:
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của VKS tỉnh Nam Định (kết
quả giải quyết của VKS)
70
Bảng 3.3:
Các hình thức bắt
76
Bảng 3.4:
Số người bị tạm giữ xử lý hình sự
77
Bảng 3.5:
Số người tạm giữ bị xử lý hình sự bị áp dụng biện
pháp tạm giam
77
Bảng 3.6:
Hoạt động đình chỉ điều tra của CQĐT, VKS tỉnh
Nam Định
79
Bảng 3.7:
số liệu trả hồ sơ để điều tra bổ sung
83



DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 3.1:
Kết quả giải quyết án hình sự của Viện kiểm sát tỉnh
Nam Định
70



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều tra là một giai đoạn của Tố tụng hình sự. Theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam thì điều tra là một trong những hoạt động tư
pháp có chức năng làm rõ tội phạm và người phạm tội, chứng minh mọi tình
tiết khách quan của vụ án, hướng tới mục đích mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng theo đúng pháp luật. Để bảo đảm
mọi hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng qui định của pháp luật, một
cơ chế giám sát được hình hình thành; đó là, Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư
pháp, trong đó có hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự có vai trò, ý nghĩa quan
trọng trong hoạt động tố tụng. Công tác kiểm sát hoạt động điều tra được thực
hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho Cơ quan điều tra hoạt động
đúng hướng, các quyết định khởi tố bị can được đảm bảo đúng người, đúng
tội, các hoạt động điều tra được thực hiện đầy đủ, chính xác và kịp thời theo
đúng quy định của pháp luật. Kết quả điều tra vụ án hình sự phụ thuộc vào
hoạt động điều tra và công tác kiểm sát hoạt động điều tra; là điều kiện tiên
quyết, thiết thực, trực tiếp cho việc truy tố, xét xử nói chung và việc thực hiện

quyền công tố của Viện kiểm sát nói riêng nhằm đảm bảo mọi tội phạm đều
phải được phát hiện xử lý nhanh chóng kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, tránh oan, sai và bỏ lọt tội phạm, tăng cường đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở nước ta hiện nay.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
Nhà nước, được sự chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh uỷ Nam Định và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, trong những năm qua ngành kiểm sát nhân dân tỉnh Nam


2
Định đã có nhiều cố gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao và đã
đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong công tác kiểm sát các hoạt động
tư pháp nói chung, công tác kiểm sát các hoạt động điều tra nói riêng, góp
phần có hiệu quả trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trên địa bàn tỉnh, phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị địa
phương, được cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân tin tưởng, đánh giá cao.
Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp, công tác kiểm sát điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định vẫn còn có những tồn tại, thiếu
sót nhất định. Ở một số đơn vị, có kiểm sát viên được phân công thực hiện
nhiệm vụ kiểm sát điều tra chưa đầu tư nghiên cứu, chưa nắm vững các quy
định của pháp luật, còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh trong thao
tác nghiệp vụ, không kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố bị can và các hoạt động
điều tra khác, không nắm chắc được tiến độ điều tra cũng như không kiểm sát
chặt chẽ việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra nói chung, điều tra viên
nói riêng; năng lực trình độ tổng hợp, phân tích đánh giá chứng cứ còn hạn
chế, thiếu toàn diện tỷ mỉ dẫn đến nhiều vụ án gặp không ít khó khăn cho các
cơ quan và người tiến hành tố tụng ở giai đoạn sau, làm ảnh hưởng đến công
tác phòng chống đấu tranh tội phạm ở địa phương. Tình trạng án trả lại hồ sơ
vì thiếu chứng cứ hoặc vi phạm thủ tục tố tụng vẫn xảy ra.

Thực tế nêu trên cho thấy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong công tác kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn
tỉnh Nam Định là hết sức cần thiết để tìm ra những nguyên nhân, cả nguyên
nhân chủ quan và khách quan của những yếu kém, tồn tại. Từ đó, có những
giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém, nâng cao hơn nữa chất lượng
công tác kiểm sát hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam


3
Định, đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong giai
đoạn hiện nay. Chính vì vậy, học viên chọn đề tài: "Kiểm sát hoạt động điều
tra - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (trên cơ sở nghiên cứu số liệu tại
địa bàn tỉnh Nam Định)" làm luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về kiểm sát hoạt động điều tra
được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành, trong các luận văn thạc
sỹ, luận văn tiến sỹ và trong các đề tài nghiên cứu cấp bộ do Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hiện. Đáng chú ý là các công trình đã được công bố sau:
Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát hình sự dùng cho Kiểm sát viên
tập 2,3 của trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát năm 2012; Giáo
trình Luật Tố tụng Hình sự của các trường đại học, học viện như: Học viện
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, Đại học Luật Hà Nội… “Sổ tay kiểm sát viên hình sự” của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tập 1-2006; Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
- 2006; “Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” của TS. Lê Hữu
Thể chủ biên năm 2008.
Luận án tiến sỹ luật học: “Quyền công tố ở Việt Nam” của tác giả Lê
Thị Tuyết Hoa. Các luận văn thạc sỹ “Quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan
điều tra Công an tỉnh Nam Định trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự

của Phạm Quang Định năm 2005; “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Nam Định” của Trần Văn Ngọc “Gắn công tố vơ
́
i h oạt động điều tra trong tố
tụng hình sự theo tinh thầ n Nghi
̣
quyết Đ ại hội Đa
̉
ng lần thư
́
X - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của Bùi Mạnh Cường” năm 2012.


4
Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố về vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong
công tác kiểm sát hình sự” do tác giả Ngô Văn Đọn chủ biên năm 2004; Đề
tài khoa học cấp bộ “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các vụ án về trật tự xã hội theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay” do tác giả Vũ Việt Hùng và các Kiểm sát viên vụ 1A- VKS
Tối cao thực hiện năm 2012; Đề tài khoa học cấp Bộ: “Hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát quân
sự theo tinh thần cải cách tư pháp, thực trạng và giải pháp” do Đại tá - Thạc
sỹ luật Huỳnh Quốc Hùng chủ biên năm 2012.
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả như: Hà
Mạnh Trí, “Nâng cao chất lượng quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp”- Tạp chí nghiên cứu lập pháp số
1/2003; Nguyễn Viết Hoạt “Bản chất của hoạt động điều tra trong Tố tụng

hình sự” - Tạp chí KHPL số 03/2007.
Như vậy, tuy đã có một số công trình nghiên cứu về chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong tố tụng hình sự, song chưa có
công trình nào nghiên cứu, khảo sát về kiểm sát hoạt động điều tra và thực
tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định. Đề tài này hiện được tác giả bắt đầu thực
hiện và là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ. Các công
trình nghiên cứu đã thực hiện là nguồn tư liệu bổ ích, phong phú cho học viên
thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ bản chất của công tác kiểm
sát hoạt động điều tra vụ án hình sự, mối quan hệ chặt chẽ giữa các khâu của


5
công tác kiểm sát điều tra. Luận văn cũng nghiên cứu tình hình thực tiễn của
công tác kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Nam Định
từ năm 2009 đến năm 2013. Trên cơ sở đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế của
công tác kiểm sát hoạt động điều tra và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
chất lượng công tác kiểm sát hoạt động điều tra.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những mục đích nêu trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
- Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về kiểm sát
hoạt động điều tra vụ án hình sự: xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm, phạm
vi, đối tượng kiểm sát hoạt động điều tra điều tra, mối quan hệ giữa viện kiểm
sát và cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra.
- Phân tích các quy định cụ thể về kiểm sát hoạt động điều tra trong Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét,
đánh giá.

- Đánh giá thực tiễn việc thực hiện công tác kiểm sát hoạt động điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam định, đồng thời phân tích làm rõ những
tồn tại, hạn chế của công tác này và những nguyên nhân cơ bản của nó.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
kiểm sát hoạt động điều tra trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, cũng như
những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác này trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn đúng như tên gọi của nó: Kiểm sát
hoạt động điều tra - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (trên cơ sở nghiên cứu
số liệu tại địa bàn tỉnh Nam Định).
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu


6
chức năng kiểm sát hoạt động điều tra dưới góc độ Luật TTHS và đánh giá
thực tiễn việc thực hiện chức năng này tại địa bàn tỉnh Nam định trong giai
đoạn từ năm 2009 đến năm 2013).
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận: các kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa nhất
định về mặt khoa học góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về công tác
kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát, vai trò của công
tác này trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đánh giá bức tranh toàn cảnh về công tác
kiểm sát hoạt động điều tra tại địa bàn tỉnh Nam Định. Trên cơ sở đó đề
xuất hoàn thiện một số quy định của BLHS, BLTTHS hiện hành và các giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động điều tra. Kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong
hoạt động nghiệp vụ của mình.
6. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về tăng
cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, quan điểm
chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong các nghị quyết 08/NQTW và nghị
quyết 49/NQTW của Bộ chính trị.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
như: phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương
pháp nghiên cứu của các bộ môn khác như: phương pháp hệ thống, thống kê
tội phạm, luật học so sánh.


7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm 3 chương, mục như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động điều tra trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kiểm
sát hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Thực tiễn công tác kiểm sát hoạt động điều tra trên địa bàn
tỉnh Nam Định và các giải pháp nâng cao hiệu quả.










8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU TRA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái quát về giai đoạn điều tra và hoạt động điều tra trong tố
tụng hình sự
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn
và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác,
khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự. Theo định
nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật - Đại học quốc
gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của các chủ thể
tố tụng hình sự hướng tới việc giải quyết vụ án khách quan, công bằng, góp
phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con người" [5].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi
giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và
tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự là:
Bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng
nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến
hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do
luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết
vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng
pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ
vững chắc các quyền và tự do của công dân [5].
Theo GS.TSKH. Lê Cảm, BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết



9
vụ án hình sự thành năm giai đoạn tố tụng theo thứ tự sau: giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử và giai
đoạn thi hành án [4]. Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết
những yêu cầu khác nhau; tương ứng với mỗi giai đoạn là chức năng, nhiệm
vụ cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền do pháp luật quy
định. Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của
TTHS, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát hoạt động điều
tra vụ án hình sự. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc điểm
của giai đoạn điều tra vụ án hình sự và hoạt động điều tra trong TTHS.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố
tụng hình sự, được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến
chương XIII. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu từ khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra chuyển toàn bộ hồ
sơ và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Trong trường hợp vụ án bị
đình chỉ điều tra thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra là khi cơ quan tiến
hành tố tụng quyết định đình chỉ điều tra.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được Luật TTHS quy định cụ thể. Thời hạn điều tra tối đa đối với tội ít
nghiêm trọng không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng,
đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm
trọng không quá 20 tháng kể từ khi cơ quan tiến hành tố tụng quyết định khởi
tố vụ án hình sự.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là cơ sở phục vụ cho
việc truy tố và xét xử; Đó là: chứng minh tội phạm và người thực hiện tội



10
phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều
kiện phạm tội… Tất cả các hoạt động tố tụng do chủ thể của giai đoạn điều tra
thực hiện đều phải tuân thủ đúng các quy định của luật tố tụng hình sự góp
phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, chính xác, khách quan,
đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là:
Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao thực hiện một số hoạt động điều tra
được sử dụng các biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định để thu
thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn
đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của tòa
án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra, xác định nguyên nhân
điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện
pháp phòng ngừa với các cơ quan tổ chức hữu quan [6].
1.1.1.2. Đặc điểm của giai đoạn điều tra
Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra
các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá
trình TTHS có thời hạn xác định bắt đầu từ khi cơ quan tiến hành tố tụng ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ
án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định
đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan
có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật TTHS quy định để chứng
minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao
gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị
với các cấp, các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.



11
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều
chỉ là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành
thu thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là
mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp
đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Các biện pháp được áp
dụng phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động điều tra vụ án hình sự
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động điều tra vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động có mục đích nhằm khám phá sự thật khách quan
phục vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng chống tội phạm, điều
tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Từ điển Luật học giải thích
rằng: “Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ” [28]. Có
quan điểm cho rằng: trên thực tế, hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến
hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự: điều tra, truy tố, xét xử với
những mục đích khác nhau nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy
nhiên phần lớn các quan điểm cho rằng: hoạt động điều tra là tổng hợp tất cả
các hành vi được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và do Cơ
quan điều tra thực hiện. Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai vì hoạt động
điều tra là chức năng nhiệm vụ của CQĐT và kết quả của hoạt động điều tra
trong giai đoạn điều tra là cơ sở cho việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Như vậy, hoạt động điều tra được hiểu là: "tổng hợp tất cả các hành vi
được CQĐT tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nhằm xác định

sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ".


12
1.1.2.2. Đặc điểm hoạt động điều tra vụ án hình sự
Thứ nhất, hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo các trình tự,
thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Khi tiến hành các biện pháp điều
tra phải có mặt của những người mà luật định và họ phải ký vào biên bản hoạt
động điều tra. Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện ở biện pháp và
các thủ tục tố tụng được tiến hành, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải bí
mật. Tính công khai của hoạt động điều tra là tiêu chí cơ bản nhất để phân
biệt với hoạt động trinh sát được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật
cả về nội dung, phương pháp để nắm bắt tin tức về tội phạm, theo dõi và truy
bắt các đối tượng phạm tội, nhằm phòng ngừa tội phạm.
Thứ hai, tùy theo đặc điểm của vụ án hình sự mà CQĐT áp dụng các
biện pháp điều tra cho phù hợp.
Thứ ba, phạm vi điều tra các tình tiết thực tế của vụ án rộng hơn phạm
vi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do luật định. Để xác
định được một tình tiết quy định tại Điều 63 của BLTTHS thì CQĐT phải làm
rõ được những tài liệu, chứng cứ liên quan. Chẳng hạn, để xác định ai là
người thực hiện hành vi phạm tội, trước tiên phải chứng minh người đó có
mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ án (thông qua các dấu vết, vật
chứng, lời khai người bị hại, người làm chứng…).
Thứ tư, trong hoạt động điều tra vụ án hình sự có thể phải áp dụng các
biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam và áp dụng các biện pháp
cưỡng chế như khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, thân thể; do đó thường
tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
Thứ năm, hoạt động điều tra của CQĐT phải chịu sự chế ước và
kiểm sát chặt chẽ của Cơ quan VKS. Điều này được thể hiện thông qua
việc pháp luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cho VKS để bảo đảm việc

truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp (xét phê chuẩn các


13
quyết định tố tụng của CQĐT, yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay
đổi các biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái
pháp luật của CQĐT…).
1.1.2.3. Các biện pháp điều tra
Luật TTHS Việt Nam quy định trong giai đoạn điều tra, CQĐT được
thực hiện các biện pháp điều tra sau: Khởi tố bị can; Khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi; Hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; Đối chất; nhận dạng; thực
nghiệm điều tra; Trưng cầu giám định; Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn như: bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm
tội quả tang, bắt bị can để tạm giam, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú; khám xét khẩn cấp… Các biện pháp này phải được thực hiện theo đúng
quy định của Luật TTHS.
1.2. Kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND
năm 2002 thì VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Đây là chức năng hiến định của VKSND, là một nhiệm vụ mà
VKSND vốn đảm nhiệm đã từ nhiều năm, ngay từ khi tổ chức tiền thân của
nó là Viện công tố ra đời. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong khoa học pháp
lý, trong khoa học kiểm sát và ngay cả trong thực tiễn hoạt động của
VKSND vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về lý luận. Điều này không
chỉ ảnh hưởng đến nhận thức mà còn tác động trực tiếp đến hiệu quả của
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong các cơ quan tư
pháp nói chung, cơ quan VKSND nói riêng. Để góp phần từng bước nâng
cao hiệu quả và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác kiểm sát thì cần
phải làm rõ từ trong nhận thức về các vấn đề cơ bản, đó là: Khái niệm thế

nào là kiểm sát các hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động điều tra, thế nào


14
là quyền công tố và thực hành quyền công tố, đối tượng, nội dung, phạm vi
cũng như mối quan hệ của chúng.
1.2.1. Khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự
Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình xây
dựng, củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ quan
nhà nước và mọi công dân là một trong những yêu cầu cấp bách. Để đáp ứng
được yêu cầu đó cần tổ chức thành lập một cơ quan có chức năng kiểm tra, giám
sát các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan Nhà nước và mọi công dân
nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra,
giám sát, quan điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực
thuộc và pháp chế". Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ
chức bộ máy Nhà nước ta, Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo
cho pháp luật do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh
và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát
hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là một đòi
hỏi mang tính tất yếu khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS.
Quan điểm trên đã được thể chế hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm
1959 đến Hiến pháp 2013.
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của
cơ quan VKS với quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật" [21, Điều 137]. Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp" [24, Điều 107].
Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa quy định trên với nội

dung Viện kiểm sát thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là thực hành quyền


15
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Những quy định trên đã đưa ra
tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát.
Chức năng theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương diện,
hướng hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động đó. Với
quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi) và Điều 1 Luật tổ chức
VKSND năm 2002 thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn
đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan VKS, đồng thời
thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS nước ta [23]; [24].
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các
văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, X, Nghị quyết số
08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ
chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên, các nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra
một định nghĩa pháp lý chung nhất về "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên
dẫn đến nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm này. Xung quanh
khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan điểm khác
nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp
chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án".
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp bao
gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần
"tư pháp" trong thi hành án".
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng: Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt

động thực hiện quyền lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên


16
ngoài cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và
giám sát xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát hoạt động tư pháp cũng được hiểu
là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà
nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm sát hoạt động tư
pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm sát. Phạm vi kiểm sát tư pháp là
việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử các vụ án hình sự,
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Mục đích của của kiểm
sát hoạt động tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất
trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà
pháp luật quy định.
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái
niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Theo quan điểm của chúng tôi, trước
hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến
định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà
nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên,
khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các
hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ
quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp
luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các
vụ án. Bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
tố tụng hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của
các chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng
hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các

cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho
pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.


17
Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là:
Kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc điểm của chúng?
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát hoạt động điều tra
1.2.2.1. Khái niệm kiểm sát hoạt động điều tra
Chức năng kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKS thực
chất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và
các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự (sau đây gọi chung là CQĐT). Kiểm sát hoạt
động điều tra là bộ phận cấu thành, là nhiệm vụ cụ thể của chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp. Kiểm sát hoạt động điều tra với tính chất là một chức năng
của VKS thì nó có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp
pháp các hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi CQĐT trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm đồng thời cũng không làm
oan người vô tội. "Những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động điều tra tất yếu
sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc giải quyết vụ án hình sự, như truy tố, xét xử
oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm" [14]. Vì vậy, hoạt động điều tra của CQĐT
phải chịu sự chế ước và kiểm sát chặt chẽ của cơ quan VKS. Điều này được
thể hiện thông qua việc luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cho VKS để
bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp.
Như vậy, Kiểm sát hoạt động điều tra được hiểu là: hoạt động của VKS
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của điều tra viên và những người có liên
quan trong các hoạt động điều tra nhằm bảo đảm cho tất cả các hoạt động
điều tra vụ án hình sự của CQĐT được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của kiểm sát
hoạt động điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi và các đặc điểm của nó?.

×