Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

[ Bản Full ] Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 83 trang )

đại học quốc gia hà nội

khoa luật

phùng đăng tr-ờng

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về chế định án tích trong luật hình sự việt nam

luận văn thạc sĩ luËt häc

Hµ néi - 2014

1


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

phùng đăng tr-ờng

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về chế định án tích trong luật hình sự việt nam
Chuyên ngành

: Luật hình sự

MÃ số

: 60 38 40


luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng

Hà nội - 2014

2


LI CAM OAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn ch-a từng
đ-ợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TC GI LUN VN

Phựng ng Trng

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các tư viế t tắ t

̀
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ

7

ĐỊNH ÁN TÍCH

1.1.

Khái qt lịch sử lập pháp hình sự về án tích trong luật hình

7

sự Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985

7

1.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999

8

1.1.3. Giai đoa ̣n từ năm 1999 đến nay

9


1.2.

10

Khái niệm và bản chất pháp lý của chế định án tích

1.2.1. Khái niệm án tích

10

1.2.2. Các đặc điểm pháp lý cơ bản của án tích

13

1.2.3. Bản chất pháp lý của án tích

18

1.3.

18

Án tích theo quy định của một số nước trên thế giới

1.3.1. Án tích theo quy định của Bộ luật hình sự Liên Bang Nga

18

1.3.2. Án tích theo quy đinh của Bộ luật hình sự nước Cộng hịa

̣

21

nhân dân Trung Hoa
1.3.3. Án tích theo quy đinh của Bộ luật hình sự Thụy Điển
̣

22

1.3.4. Án tích theo quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản

23

4


Chương 2: CHẾ ĐỊNH ÁN TÍCH THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ

26

VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

2.1.

Chế định án tích theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam

26

năm 1999

2.2.

Thực tiễn áp dụng chế định án tích

41

2.2.1. Tình hình áp dụng chế định án tích

41

2.2.2. Một số vướng mắc, tồn tại khi áp dụng chế định án tích

44

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ

52

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG CHẾ
ĐỊNH ÁN TÍCH

3.1.

Hồn thiện pháp luật hình sự về chế định án

52

3.2.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định án tích


59

3.2.1. Tăng cường cơng tác hướng dẫn, tun truyền và giải thích

59

pháp luật
3.2.2. Kiện tồn cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ, năng lực của

61

đội ngũ cán bộ các cơ quan áp dụng pháp luật
3.2.3.

Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc áp dụng pháp

64

luật
3.2.4.

Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát lẫn nhau

65

giữa các cơ quan hữu quan trong việc áp dụng pháp luật
về án tích
KẾT LUẬN


69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

72

5


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Số vụ án và bị cáo đưa ra xét xử trong cả nước từ năm

42

bảng
2.1

2009 đến năm 2013

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLHS

: Bộ luật hình sự

TAND

: Tịa án nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam hiện hành đã được Quốc hội khóa X, kỳ
họp thứ 6 thơng qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và được sửa đổi, bổ sung năm
2009 là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong

việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc cũng như bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, góp phần giữ gìn,
duy trì trật tự an toàn xã hội. Mặc dù, đã được kế thừa và tiếp thu những tinh thần
và sự tiến bộ của BLHS năm 1985 nhưng kể từ năm 1999 đến nay, BLHS năm
1999 đã bộc lộ những bất cập không chỉ trong thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự mà cả trên phương diện nhận thức và lý luận.
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện
nay, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ về mặt lý luận và đưa ra các kiến giải lập pháp
là vô cùng cần thiết và quan trọng khơng chỉ trong lĩnh vực pháp luật hình sự nói
riêng mà đối với cả hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
Án tích là một trong những chế đinh rất quan trọng trong phần chung của
̣
BLHS. Việc nghiên cứu và làm sáng tỏ về mặt nhận thức và lý luận là một địi hỏi
cấp bách, khơng chỉ góp phần làm cho nhận thức một cách đúng đắn và khoa học về
chế định án tích mà cịn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng chính xác
các quy định của pháp luật hình sự. Bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích
chính đáng của công dân.
Từ trước đến nay, về mặt lý luận, vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu một cách tổng thể, tồn diện và có hệ thống vấn đề liên quan đến chế định án
tích. Ngồi ra, việc hiểu vấn đề liên quan đến án tích cũng cịn có nhiều quan điểm

8


khác nhau và chưa thống nhất. Như vậy, đòi hỏi phải có một cơng trình nghiên cứu
một cách tồn diện và sâu sắc, điều đó đặt ra yêu cầu hết sức cần thiết trong điều
kiện hiện nay.
Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc và toàn diện về
mặt lý luận vấn đề liên quan đến chế định án tích để đưa ra các lý giải khoa học và

mơ hình lý luận vấn đề này đồng thời cũng đưa ra các kiến giải lập pháp góp phần
hồn thiện pháp luật hình sự mà cụ thể là BLHS Việt Nam để giải quyết các vấn đề
còn bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy phạm này của các cơ
quan tiến hành tố tụng là vô cùng quan trọng và cần thiết trong giai đoạn xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay.
Từ những lý do phân tích trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam” làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu và tham khảo BLHS của một số nước trên thế giới, BLHS
Việt Nam năm 1985, năm 1999 thì có thể thấy án tích là một trong những chế định
quan trọng và phức tạp trong pháp luật hình sự. Việc nghiên cứu về chế định này
vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Nhìn chung, đã có một số bài viết, khóa luận
tốt nghiệp lý giải vấn đề trên góc độ lý luận nhưng vẫn chưa đưa ra được một bức
tranh tổng quát cũng như các kiến giải lập pháp về chế định này.
Ở Việt Nam, chế định án tích và các chế định liên quan đến chế định này
đã có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Đề tài “Chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Xuân Nghiệp, luận văn thạc sĩ luật học năm 2006; đề tài “Chế định xóa án
tích trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Lan, khóa luận tốt nghiệp
cử nhân năm 2003.

9


Ngồi ra, về giáo trình, sách chun khảo có các cơng trình sau đây:
GS.TSKH Lê Văn Cảm, Mục VII, Chương VIII – Các biện pháp tha miễn trong
luật hình sự, sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật hình sự (Phần chung), Nhà xuất bản (NXB) Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005;
TSKH. Lê Cảm (chủ biên), Mục VI, Chương XVII – Thời hiệu thi hành bản án,

miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt và xóa án tích,
Chương XVIII – Những đặc thù về trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người chưa
thành niên phạm tội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật – Đại học quốc
gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
Bên cạnh đó cịn có các bài viết sau đây: Hồ Sĩ Sơn, “Án tích theo luật hình
sự Viêt Nam 1999”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2001; Phạm Hồng Hải,
“Xóa án”, trong sách: Mơ hình lý luận về BLHS Việt Nam. NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1993;…
Từ một số nội dung đề cập ở trên cho thấy các cơng trình và bài viết
nghiên cứu liên quan đến chế định án tích đã đưa ra những quan điểm và phần
nào đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản mà lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy phạm pháp luật hình sự đặt ra. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các cơng trình này
đã cho thấy, chế định án tích với tư cách là một trong những chế định quan trọng
và cơ bản trong pháp luật hình sự nhưng chế định này hiện nay vẫn còn nhiều
thiếu sót và bất cập.
Xuất phát từ những địi hỏi cấp bách của khoa học luật hình sự, về lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Việc nghiên cứu đề
tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định án tích trong luật hình sự Việt
Nam” là một địi hỏi khách quan và cần thiết trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn

10


3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách đồng bộ, toàn diện để làm
sáng tỏ về mặt lý luận và khoa học những nội dung cơ bản của chế định án tích
trong pháp luật hình sự Việt Nam, đồng thời chỉ ra những bất cập để đưa ra các
kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự. Nâng cao hiệu

quả trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cơng dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Về mặt lý luận: Tập trung nghiên cứu xung quanh nội dung của chế định
này trong pháp hình sự Việt Nam, đồng thời so sánh chế định án tích trong luật
hình sự Việt Nam với chế định án tích trong luật hình sự một số nước trên thế
giới để làm sáng tỏ về mặt lý luận của chế định này trong luật hình sự Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Tập trung vào nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm
pháp luật của chế định án tích trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự ở nước
ta. Từ đó tìm ra những thiếu sót, bất cập và những vướng mắc của việc áp dụng
pháp luật hình sự liên quan đến chế định này trên thực tế, qua đó đưa ra được mơ
hình lý luận về chế định án tích và đề xuất mơ hình kiến giải lập pháp cụ thể về
chế định này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết vấn đề chế định án tích theo pháp luật
hình sự Việt Nam. Đồng thời, đề cập đến một số quy phạm liên quan đến luật tố
tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự,… những vấn đề liên quan đến án tích và
xóa án tích chưa được đề cập trong pháp luật hình sự của nước ta.

11


Luận văn nghiên cứu về chế định án tích khơng chỉ trong quy định của
BLHS Việt Nam năm 1985, năm 1999 mà còn nghiên cứu cả các quy phạm về
chế định này trước khi có BLHS năm 1985.
Đồng thời luận văn cũng phân tích một số quy định về chế định án tích
trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đề tài luận văn còn được
thực hiện trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải
cách tư pháp để thể hiện. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
và đặc thù như: phương pháp phân tích, tổng hợp, logic và so sánh.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Nghiên cứu về chế định án tích có ý nghĩa và vai trị to lớn về mặt lý luận
và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật hình sự, vì đây là cơng trình đầu
tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu tồn diện, có hệ thống vấn
đề án tích. Luận văn có những điểm mới cơ bản là:
- Tập trung vào nghiên cứu một cách đồng bộ, thống nhất về mặt lý luận
nội dung cơ bản của chế định án tích theo luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm cơ bản và chủ yếu của q trình hình
thành và phát triển chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu làm sáng tỏ và chỉ ra những bất cập, hạn chế đối với các quy
định về chế định án tích trong việc áp dụng các quy phạm này vào thực tiễn.

12


- Đề xuất mơ hình kiến giải lập pháp cụ thể về chế định án tích góp phần
vào việc hồn thiện hơn nữa BLHS trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chế định án tích
Chương 2: Chế định án tích theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và
thực tiễn áp dụng

Chương 3: Hồn thiện pháp luật hình sự và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng chế định án tích

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH ÁN TÍCH

1.1. Khái quát lịch sử các quy phạm pháp luật về án tích từ năm
1945 đến khi có bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985
Án tích là một trong những chế định quan trọng trong pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985, thời kỳ đất nước ta mới
thành lập chính quyền và trải qua hai cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, các nhà
làm luật thời kỳ này vẫn chưa thực quan tâm đúng mức và ghi nhận nó. Mặc dù
vậy, chế định này cũng đã được đề cập rải rác trong một số văn bản pháp luật của
nước ta trong giai đoạn này. Ngày 20 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm
thời Việt Nam dân chủ cộng hịa Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 52 về đại
xá được đăng trên tờ Việt Nam Công báo, số 7, trang 78, tại Điều 4 của Sắc lệnh
số 52 quy định: “Những tội được xá miễn đều coi như không phạm bao giờ…”
hay tại Điều 6 của Sắc lệnh: “Cấm tất cả các cơng chức hành chính pháp và các
thẩm phán viên không được nhắc đến, hoặc trong hồ sơ một vết tích gì về những
tội đã được xá…”. Ngày 01 tháng 12 năm 1961, Tòa án nhân dân (TAND) tố i cao
ban hành Thông tư 2308/NCLP về xóa án đố i với người đươ ̣c hưởng án treo ngày
;
05 tháng 7 năm 1963, TAND tối cao có Công văn số 1082/NCLP khẳ ng đinh :
̣
“Tòa án không thể coi một người đã bị án treo nhưng đã được xóa bỏ , nay la ̣i
phạm tội mới, như là tái phạm”. Như vâ ̣y, từ rấ t sớm trong pháp luâ ̣t hinh sự Viê ̣t

̀
Nam, án tich đã đươ ̣c ghi nhâ ̣n, là một trong những căn cứ quan tro ̣ng đố i với Tòa
́
án cũng như các cơ quan nhà nước khác có thẩ m quyề n áp du ̣ng đố i với người
phạm tội. Theo pháp luâ ̣t thời kỳ này thì người đang có án tich mà pha ̣ m tô ̣i mới
́
cũng có thể bị xem xét việc tái phạm.

14


1.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999
Ngày 27 tháng 6 năm 1985, BLHS đầ u tiên của nước ta đươ ̣c Q́ c hơ ̣i
Khóa VII kỳ ho ̣p thứ 9 thông qua. Đây là mô ̣t sự kiê ̣n quan tro ̣ng đánh dấ u mô ̣t
bước tiế n lớn đố i với luâ ̣t hình sự nước ta . Chế đinh án tích đã chính thức đươ ̣c
̣
ghi nhâ ̣n trong mô ̣t văn bản pháp lý có giá tri ̣cao này . Tại Chương 6 quy đinh về
̣
viê ̣c quyế t đinh hình pha ̣t , miễn, giảm hình phạt . Chế đinh án tích đươ ̣c go ̣i với
̣
̣
cái tên là xóa án và được quy định từ Điều

52 đến Điều 56, ngoài ra còn một

trường hơ ̣p đă ̣c biê ̣t là xóa án trong trường hơ ̣p người chưa thành niên pha ̣m tơ ̣i
(Điề u 67).
Án tích ngồi việc chín h thức đươ ̣c ghi nhâ ̣n trong BLHS Viê ̣t Nam năm
1985, các văn bản dưới luật cụ thể là các Thông tư đã kịp thời được ban hành để
hướng dẫn các quy đinh liên quan đế n án tích trong BLHS. Ngày 01 tháng 8 năm

̣
1986, TAND tối cao đã phố i hơ ̣p với Vi ện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao,
Bô ̣ Tư pháp , Bô ̣ Nô ̣i vu ̣ (nay là Bô ̣ Công an ) ban hành Thông tư liên ngành số
02/TTLN quy đinh về viê ̣c xóa án , hướng dẫn cu ̣ thể về thẩ m quyề n xóa án , điề u
̣
kiê ̣n cu ̣ thể để đươ ̣c xó a án, thủ tục xóa án,… Theo đó , người bi ̣kế t án ḿ n xin
xóa án thì phải nộp đơn xin xóa án cho Tịa án cấp sơ thẩm đồng thời là chung
thẩ m tô ̣i pha ̣m cũ của mình , kèm theo các giấy tờ chứng minh về việc chấp hành
xong bản án và không phạm tội mới khi còn mang án tich. Trong trường hơ ̣p xóa
́
án theo quyết định của Tòa án hoặc trong trường hợp đặc biệt thì cần phải có
thêm giấ y tờ xác nhâ ̣n về thái đô ̣ chấ p hành pháp luâ ̣t của chính quyề
n điạ
phương nơi người bi ̣kế t án thường trú . Thông tư liên ngành này sau đó gầ n ba
năm đã đươ ̣c sửa đổ i , bổ sung bằ ng Thông tư l iên ngành số 03/TTLN ngày 15
tháng 7 năm 1989.
Chế đinh án tích lầ n đầ u tiên đươ ̣c ghi nhâ ̣n trong BLH S Viê ̣t Nam năm
̣
1985 cùng các văn bản pháp lý khác đã tạo một hành lang pháp lý tương đối đầy
đủ và rõ ràng, là căn cứ pháp luật quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan

15


tiế n hành tố tu ̣ng thực thi pháp luâ ̣t đúng vớ i các quy đinh của pháp luâ ̣t . Ngoài
̣
ra, viê ̣c chính thức ghi nhâ ̣n án tích trong BLHS Viê ̣t Nam trong giai đoa ̣n này ,
với viê ̣c quy đinh mô ̣t số các điề u luâ ̣t quy đinh về viê ̣c xóa đi án tich khi người
̣
̣

́
bị kết án đã đủ các yêu cầ u của pháp luâ ̣t để ho ̣ đươ ̣c đương nhiên đươ ̣c xóa án
tích hoặc được Tịa án xóa đi vết xấu trong lý lịch của họ , giúp cho họ được xóa
đi những mă ̣c cảm về hành vi vi pha ̣ m pháp luâ ̣t do ho ̣ đã gây ra đ ồng thời
khuyế n khích họ tích cực lao động đ ể trở thành người có ich cho xã hô ̣i . Tuy
́
nhiên, viê ̣c quy đinh án tích trong giai đoa ̣n này vẫn chưa đươ ̣c rõ ràng
̣

, chưa

đảm bảo đươ ̣c nô ̣i dung cũng như kỹ thuâ ̣t lâ ̣p pháp
, viê ̣c sử du ̣ng thuâ ̣t ngữ
“Xóa á n” là khơng chính xác , mà phải là “Xóa án tích” mới đúng được ý nghĩa
của nó, hay vẫn chưa đươ ̣c ra đươ ̣c mô ̣t khái niê ̣m khoa ho ̣c thế nào là án tich,…
́
1.1.3. Giai đoan từ năm 1999 đến nay
̣
Ngày 21 tháng 12 năm 1999, BLHS Việt Nam hiện hành đã được Quốc hội
Khóa X, kỳ họp thứ 6 thơng qua. Đây là lầ n pháp điể n hóa thứ hai chế đinh án tich
,
̣
́
đã đươ ̣c kế thừa và có sự đổi mới nhiều so với BLHS năm 1985. Thuâ ̣t ngữ “xóa
án” đã đươ ̣c thay đổ i bằ ng“xóa án tích
”.
Ngoài ra, chế đinh án tích trong BLHS năm 1999 đươ ̣c ghi nhâ ̣n trong mô ̣t
̣
chương riêng biê ̣t (Chương IX), khác hẳn với chế định án tích trong BLHS năm
1985, điề u đó thể hiê ̣n ở viê ̣c nhà làm luâ ̣t nước ta đã đánh giá đươ ̣c tầ m qua tro ̣ng

n
của chế định này trong pháp luật hình sự. Về thời ha ̣n để đươ ̣c xóa án tích trong
BLHS năm 1999 cũng được mở rộng hơn so với BLHS năm1985. Trong giai đoa ̣n
từ năm 1999 đến nay BLHS năm 1999 đã đươ ̣c sửa đổ i, bổ sung mô ̣t sớ điề u cho
phù hợp với tình hình mới
.
Chế đinh án tích ngoài viê ̣c quy đinh trong BLHS năm1999 đươ ̣c sửa đổ i,
̣
̣
bổ sung năm 2009. Hiê ̣n nay, chế định còn được quy định trong các luật và thông tư
hướng dẫn các điề u của BLHS như Luâṭ Lý lich tư pháp năm 2010, Nghị quyết số
,
̣
01/2000/NQ - HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ngày 04 tháng 8

16


năm 2000 về hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của BLHS
năm 1999,… Mă ̣c dù, chế đinh án tich so với các giai đoa ̣n trước đã có những ưu
̣
́
điể m, tiế n bơ ̣ mới. Song quy đinh về án tích trong BLHS năm 1999 được sửa đổ i,
̣
bổ sung năm 2009 qua quá trinh áp du ̣ng trên thực tế vẫn bô ̣c lô ̣ những bấ t câ ̣p ngay
̀
trên cả phương diê ̣n lý luâ ̣n. Và để đáp ứng yêu cầ u trong giai đoa ̣n xây dựng nhà
nước pháp quyề n Viê ̣t Nam xã hô ̣i chủ nghia hiê ̣n nay , nhấ t là trong linh vực tư
̃
̃

pháp hình sự thì việc pháp điể n hóa lầ n thứ ba BLHS Viê ̣t Nam năm 1999 là một
đòi hỏi cầ n thiế t và cấ p bác theo hướng ghi nhâ ̣n án tich trong mô ̣t chương đô ̣c lâ ̣p
h
́
trong BLHS mới với tên go ̣i “án tich” trong đó có quy đinh khái niê ̣m án tich thời
̣
́ ,
́ ,
điể m bắ t đầ u và kế t thúc án tich xóa án tích, các trường hợp đương nhiên được xóa
́ ,
án tích, cơ quan ra quyế t đinh xóa án tích thủ tục để được xóa án tích,… Như vậy,
,
̣
mới đảm bảo u cầu về mặt lập pháp và dễ dàng được áp dụng trên thực tế.
1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của chế định án tích
1.2.1. Khái niệm án tích
Trong giai đoạn xây dựng NNPQ và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay,
việc nghiên cứu chế định án tích trong luật hình sự là một u cầu hết sức quan
trọng và cần thiết. Kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đến
ngày 27 tháng 6 năm 1985 Quốc hội mới thông qua BLHS đầu tiên, và trong
BLHS này chính thức ghi nhận về mặt lập pháp chế định án tích được quy định ở
các Điều 40, 52, 53, 54, 55, 55 và 67 trong Phần chung của BLHS với tư cách là
một chế định độc lập, mặc dù cách gọi chưa thật sự chính xác trên phương diện
luật học và ngơn ngữ đó là “Xóa án”. Đến lần pháp điển hóa thứ hai BLHS vào
năm 1999, chế định án tích đã được quy định hoàn thiện hơn.
Mặc dù vậy, trong BLHS Việt Nam năm 1999, Điều 63 mới chỉ quy định
thế nào là xóa án tích, trong khi đó cịn chưa quy định thế nào là án tích(?).

17



Trên phương diện nghiên cứu học thuật, rõ ràng án tích là một chế định
quan trọng trong pháp luật hình sự. Bởi vì, chế định án tích có liên quan đến một
số quy định khác trong luật hình sự như việc xem xét để xóa án tích hay để xác
định tái phạm, tái phạm nguy hiểm,... Việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý
luận khái niệm án tích khơng những tạo ra một cách hiểu thống nhất mà còn giúp
cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan tư pháp áp dụng đúng đắn và chính
xác các quy định của BLHS về vấn đề án tích.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam và trên thế giới hiện nay, ở mức
độ nhất định cũng đã có một số bài viết đề cập về chế định án tích. Ở Việt Nam
có một số quan điểm về án tích như sau:
1) GS.TSKH Lê Cảm, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng:
Án tích là hậu quả pháp lý của việc người bị kết án bị áp dụng
hình phạt theo bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án và là
giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện TNHS, được thể hiện trong việc
người bị kết án mặc dù đã chấp hành xong bản án (bao gồm hình phạt
chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của Tòa án) nhưng
vẫn chưa hết án tích hoặc chưa được xóa án tích theo các quy định của
pháp luật hình sự [3, tr.829].
2) PGS.TS, Luật sư Phạm Hồng Hải coi án tích là hậu quả pháp lý của bản
án kết tội mà Tòa án tuyên đối với người phạm tội, là một tình tiết có ý nghĩa pháp
lý trong việc đánh giá tính chất nguy hiểm của tội phạm và của người phạm tội khi
tội phạm được thực hiện trong thời gian người ấy mang án tích [12, tr.276].
3) PGS.TS Hồ Sĩ Sơn, Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng:
Án tích là vết tích đã từng bị kết án của người phạm tội, xuất
hiện khi người đó đã chấp hành xong hình phạt và được xóa để được

18



coi như là chưa bị kết án nếu người này đáp ứng được những điều kiện
do BLHS quy định hoặc tồn tại khi người bị kết án đã chấp hành xong
hình phạt nhưng chưa đáp ứng được những điều kiện đó và vẫn bị coi
là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm theo BLHS năm 1999 (Điều 49)
hoặc phải chịu TNHS về hành vi phạm tội mà theo BLHS vết tích đã
từng bị kết án đối với hành vi ấy là yếu tố cấu thành tội phạm [40,
tr.65].
4) Th.S Nguyễn Xn Nghiệp có quan điểm rằng:
Án tích là hậu quả pháp lý của việc phạm tội mà người bị kết
án phải gánh chịu hình phạt theo bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật, gánh chịu trong thời hạn nhất định kể từ khi bản án đó có hiệu lực
pháp luật cho đến khi hậu quả pháp lý đó được xóa bỏ theo quy định
của pháp luật [24, tr.12].
5) Th.S Nguyễn Thị Lan, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội coi “án
tích” là một dấu án, cho thấy người có án tích đã từng bị kết án vì đã phạm tội và
xóa án tích là việc pháp luật hình sự cho phép xóa đi dấu tích về quá khứ tội lỗi
của một người đã từng bị kết án sau khi người đó đã thỏa mãn đầy đủ những điều
kiện được quy định trong BLHS [20, tr.12-13].
Trong khoa học luật hình sự Liên Xơ cũ và Liên bang Nga hiện nay,
chế định án tích cũng có một số các quan điểm sau đây:
1) GS.TSKH luật Zelđôv X.L cho rằng:
Án tích gồm ba bộ phận hợp thành: i) Khoảng thời gian từ khi
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cho đến khi bắt đầu thi hành hình
phạt; ii) trong thời gian đang chấp hành hình phạt và iii) khoảng thời
gian từ khi chấp hành hình phạt (miễn việc chấp hành hình phạt) cho
đến thời điểm hết án tích hoặc án tích đã được Tịa án xóa [3, Tr.826]

19



2) GS.TSKH luật Vittenberg G.B coi án tích, đó là tình trạng pháp lý
hình sự đối với chủ thể do việc người này bị Tòa án xử phạt một biện pháp hình
phạt nào đó về tội phạm đã thực hiện [3, Tr.826]
3) GS.TSKH luật Nheznamơva Z.A quan niệm rằng:
Án tích - đó là một yếu tố, một bộ phận cấu thành của TNHS
với tư cách là hậu quả của sự kiện phạm tội và như vậy, án tích là tình
trạng pháp lý đặc biệt của một người được tạo ra do người này bị kết án
một hình phạt nhất định đối với tội phạm mà tình trạng ấy được thể hiện
bằng khả năng đưa đến các hậu quả nhất định (các hạn chế về quyền) có
tính chất pháp lý chung và tính chất pháp lý hình sự [3, Tr.827]
Như vậy, trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng như trên thế giới có
nhiều quan điểm khác nhau về án tích , dưới góc độ nghiên cứu và thực tiễn áp
dụng chế định này, chúng ta có thể đưa ra khái niệm án tích như sau: Án tích là
một phần nội dung của trách nhiệm hình sự, là hậu quả pháp lý bất lợi và là đặc
điểm xấu về nhân thân của người bị kết án bị áp dụng hình phạt.
1.2.2. Các đặc điểm pháp lý cơ bản của án tích
- Đặc điểm thứ nhất: Án tích là một phần nội dung của trách nhiệm hình sự.
Trách nhiệm hình sự là một loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng đối
với người thực hiện hành vi bị BLHS coi là tội phạm. Vì vậy, với đặc trưng của
án tích là một phần nội dung của trách nhiệm hình sự (TNHS) đồng nghĩa với
việc nó cũng là một loại trách nhiệm pháp lý. Cho nên, nếu khơng có việc thực
hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm thì khơng thể bị truy cứu TNHS và
khơng thể bị Tịa án kết tội, từ đó sẽ khơng phát sinh án tích.
Thực tế áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, để quy kết hành vi nào
đó là tội phạm và buộc người thực hiện hành vi phải chịu TNHS, người áp dụng
pháp luật phải trên cơ sở đối chiếu hành vi đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu

20



thành tội phạm được quy định trong BLHS, chứ không thể áp đặt theo ý thức chủ
quan. Nếu trong quá trình áp dụng pháp luật, người áp dụng pháp luật xác định
được hành vi của một người thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được
BLHS quy định thì mới có thể kết luận hành vi đó là tội phạm và được thể hiện
bằng bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị kết án phải
chịu TNHS về hành vi vi phạm pháp luật của mình đồng thời người đó phải
mang án tích trong một thời gian theo quy định của pháp luật hình sự.
Cùng với bản án kết tội của Tịa án và hình phạt mà Tịa án quyết định
đối với người phạm tội, án tích đối với người bị kết án cũng là một trong những
hình thức thể hiện nội dung của TNHS. TNHS và các dạng trách nhiệm pháp lý
khác có thể có những điểm gần giống nhau về hình thức thể hiện. Ví dụ, TNHS và
trách nhiệm hành chính đều có hình thức xử lý là cảnh cáo và phạt tiền, nhưng
cảnh cáo và phạt tiền trong luật hình sự khác với cảnh cáo và phạt tiền của hình
thức xử phạt vi phạm hành chính ở chỗ, người bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền trong
luật hình sự luôn gắn liền với hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích.
Án tích gắn liền với bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Một người bị coi là còn án tích nghĩa là bản án kết tội đối với người đó vẫn cịn
hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp người bị kết án chưa được xóa án tích lại
phạm tội mới thì dấu hiệu án tích có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến
việc giải quyết TNHS của người đó. Người chưa được xóa án tích lại phạm tội
mới có thể bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (Điều 49 BLHS) và với
việc bị coi là tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội phải chịu TNHS
nặng hơn những người khơng có án tích phạm tội khi các điều kiện khác giống
nhau (người tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm có thể bị áp dụng khung hình phạt
tăng nặng của tội phạm đã thực hiện hoặc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS). Án tích ln tồn tại cùng với bản án
kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật, thể hiện sự lên án của Nhà nước đối

21



với người phạm tội. Nói cách khác, án tích chính là một phần nội dung của TNHS,
thể hiện hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu đồng thời thể
hiện tính nghiêm khắc của pháp luật hình sự đối với người phạm tội.
- Đặc điểm thứ hai: Án tích là hậu quả pháp lý bất lợi của người bị kết
án bị áp dụng hình phạt theo bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án.
Lý luận và thực tiễn cho thấy khơng phải bất cứ người phạm tội nào đã
bị kết án và bản án của người đó đã có hiệu lực pháp luật cũng đều mang án tích.
Ví dụ, trong trường hợp người phạm tội đã bị kết án nhưng được miễn hình phạt
(khoản 1 Điều 64 BLHS). Những trường hợp mang án tích chỉ là những người bị
kết án bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án và bị áp dụng hình
phạt theo quy định của BLHS. Ngoài ra, những người bị kết án nhưng được áp
dụng các biện pháp tư pháp như đưa vào trường giáo dưỡng, giáo dục tại xã,
phường, thị trấn theo quy định tại Điều 70 BLHS hay biện pháp bồi thường về
vật chất, buộc công khai xin lỗi người bị hại theo quy định tại Điều 42 BLHS thì
sẽ khơng phải chịu hậu quả pháp lý này. Như vậy, rõ ràng chế định này cũng
chính là đặc trưng cơ bản đánh giá mức độ nghiêm khắc của hình phạt so với các
biện pháp tư pháp khác.
Sự bất lợi của một người khi mang án tích được thể hiện ở chỗ.
Thứ nhất: Nếu người đang trong thời gian mang án tích lại phạm tội mới
do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý thì sẽ
xác định là tái phạm (khoản 1 Điều 49 BLHS) hay người đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái phạm và chưa được xóa
án tích mà lại phạm tội do cố ý thì được xác định là tái phạm nguy hiểm (khoản
2 Điều 49 BLHS). Như vậy, sự bất lợi đó là việc người đang mang án tích có thể
bị áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại Điều 48 BLHS trong
quá trình định khung hình phạt và quyết định hình phạt.

22



Việc mang án tích hay chưa được xóa án tích là dấu hiệu quan trọng để
xem xét hành vi phạm tội của một người có phải là tái phạm hay tái phạm nguy
hiểm hay khơng và do đó có áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS đối với người
đó hay khơng. Ví dụ: khoản 1 Điều 93 (Tội giết người) quy định: Người nào giết
người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến
hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: p) Tái phạm nguy hiểm; điểm đ khoản
2 Điều 112 (Tội hiếp dâm trẻ em); điểm g khoản 2 Điều 113 (Tội cưỡng dâm),…
Từ phương diện nghiên cứu và thực tế xét xử cho thấy, nếu người đang mang án
tích và chưa được xóa án tích nếu phạm tội mới thì tùy theo mức độ nguy hiểm do
hành vi phạm tội gây ra sẽ là căn cứ để xác định việc tái phạm hay tái phạm nguy
hiểm, đó là các tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại Điều 48 BLHS.
Thứ hai: Trong lý lịch tư pháp của người mang án tích và các giấy tờ
chứng thực về nhân thân người đó sẽ ghi “có tiền án”, như vậy rõ ràng án tích như
một “vết nhơ” trong lý lịch của người mang án tích, điều đó có thể dẫn đến việc
kỳ thị của xã hội, cũng như sẽ gây khó khăn cho người mang án tích khi người đó
tham gia vào các giao dịch thương mại, kinh kế hay các hoạt động xã hội,...
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, ở một số lĩnh vực, pháp luật cũng
hạn chế quyền của người đang cịn mang án tích. Ví dụ: Tại Điều 17 khoản 4
Luật Luật sư năm 2006 quy định về điều kiện được cấp Chứng chỉ hành nghề
luật sư thì người “đã bị kết án mà chưa được xóa án tích về tội phạm do vơ ý
hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng,
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý”[37] thì
khơng được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư, ngồi ra theo Luật nuôi con nuôi
năm 2010, Điều 14 quy định về thì người sau đây khơng được nhận ni con
ni:
Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác;


23


ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có
cơng ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa
thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ
em.[39]
Như vậy, rõ ràng người mang án tích bị hạn chế một số quyền của mình
trong cuộc sống hằng ngày và việc quy định của pháp luật áp dụng đối với người
đang mang án tích như vậy là hồn tồn đúng đắn, xuất phát từ chính sách phịng
ngừa tội phạm nói chung trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Đặc điểm thứ ba: Án tích là đặc điểm xấu về nhân thân của người bị
kết án.
Người phạm tội ngoài việc phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi
bị tuyên trong bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án, đồng thời còn để lại
“dấu vết” xấu về nhân thân khi cịn mang án tích. Việc xác định một người cịn
mang án tích hay đã hết án tích có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá nhân
thân của người phạm tội là tốt hay xấu, từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng có căn
cứ để xác định và đánh giá tính nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra và áp dụng
chính xác các quy định của BLHS đối với người phạm tội căn cứ vào các tình tiết
giảm nhẹ hay tăng nặng TNHS được quy định tại Điều 46, 48 BLHS.
Án tích phản ánh đặc điểm xấu về nhân thân của người bị kết án và bị áp
dụng hình phạt cịn thể hiện ở chỗ nó chỉ ra rằng người đang mang án tích từng
là một “tội phạm” đã thực hiện hành vi nguy hiểm và gây ra những hậu quả
nguy hại cho xã hội được Nhà nước và pháp luật bảo vệ.
Tuy nhiên, án tích phản ánh đặc điểm xấu về nhân thân của người bị kết
án và bị áp dụng hình phạt chỉ được hiểu khi người đó đang cịn án tích, khi đã
xóa án tích hoặc trong trường hợp đương nhiên được xóa án tích thì việc phạm

24



tội của họ trước đây không được coi là nhân thân xấu để căn cứ quyết định hình
phạt trong tố tụng hay trong các quan hệ xã hội khác.
1.2.3. Bản chất pháp lý của án tích
Từ sự phân tích các đặc điểm cơ bản trên đây của án tích cũng như trên
phương diện lý luận khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng các quy phạm
pháp luật hình sự về án tích, chúng ta có thể khẳng định bản chất pháp lý của án
tích như sau:
Án tích là mợt chế đi ̣nh quan trọng trong pháp luật hình sự, viê ̣c xóa bỏ đi
án tích thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta được quy
định trong BLHS, người bị kết án sẽ chấm dứt hồn tồn TNHS khi người đó đáp
ứng được đầy đủ những điều kiện và yêu cầu của pháp luật hình sự để Tịa án ra
quyết định xóa án tích hay trong trường hợp đương nhiên được xóa án tích.
1.3. Án tích theo pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
1.3.1. Án tích theo quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Bơ ̣ l ̣t hinh sự Liên bang Nga được Đuma Quốc gia tức Hạ Nghị viện
̀
Nga thông qua ngày 24 tháng 5 năm 1996 và được Hội đồng Liên bang Nga tức
Thượng Nghị viện Nga phê chuẩn ngày 05 tháng 6 năm 1996 là một công cụ hữu
hiệu, sắc bén bảo vệ các quyền và tự do của con người và công dân Nga, chế độ
sở hữu, trật tự an toàn xã hội nước Nga,… Cũng giống như BLHS Việt Nam,
BLHS Liên bang Nga bao gồm hai phần, Phần Chung và Phần riêng (Phần các
tội phạm), ngoài ra BLHS Liên bang Nga được chia làm các mục, từ Mục I đến
Mục XII và tổng cộng có 34 chương. Xuất phát từ tầm quan trọng của chế định
án tích trong pháp luật hình sự, các nhà làm luật Liên bang Nga đã quy định án
tích trong một chương riêng, đó là Chương 13 quy định về đại xá, đặc xá và án
tích thuộc Mục IV Phần chung của BLHS Liên bang Nga. Cụ thể, chế định án
tích được quy định tại Điều 86 BLHS Liên bang Nga năm 1996. Ngoài ra, liên


25


×