1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM ĐỨC TRUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO,
CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam định)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM ĐỨC TRUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO,
CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải
HÀ NỘI - 2014
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Đức Trung
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
9
1.1.
Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự và thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
9
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự
9
1.1.2.
Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo
14
1.1.3.
Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
20
1.2.
Các chủ thể thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
25
1.2.1.
Tòa án
26
1.2.2.
Viện kiểm sát
27
1.2.3.
Hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam
giữ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự
28
1.2.4.
Công an cấp xã
32
1.2.5.
Gia đình, các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở
cơ sở, cộng đồng dân cư nơi người bị kết án cư trú
33
1.2.6.
Người hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
34
1.3.
Nội dung thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
35
1.3.1.
Ra quyết định thi hành hoặc ủy thác thi hành án
35
1.3.2.
Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
36
5
1.3.3.
Thời gian thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
38
1.3.4.
Miễn, giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và rút
ngắn thời gian thử thách của án treo
39
1.3.5.
Xóa án tích đối với án treo, cải tạo không giam giữ
42
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG
ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NAM ĐỊNH VÀ MỘT SỐ TỒN TẠI, VƢỚNG MẮC
44
2.1.
Tình hình thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh nam định
44
2.1.1.
Đặc điểm về địa lý, dân cư, kinh tế, xã hội và hoạt động của
các loại tội phạm, vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Nam Định
44
2.1.2.
Số liệu người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ trên
địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 đến năm 2013
48
2.1.3.
Các cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định
53
2.1.4.
Thực trạng thi hành án treo, cải tạo không giam giữ của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh Nam Định
54
2.2.
Một số tồn tại, khó khăn trong công tác thi hành án treo, cải
tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định
61
2.2.1.
Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nam Định
61
2.2.2.
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nam Định
63
2.2.3.
Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Nam Định và Cơ
quan thi hành án hình sự Công an 10 huyện, thành phố
63
2.2.4.
Ủy ban nhân dân 229 xã, phường, thị trấn
66
2.2.5.
Công an cấp xã
69
2.2.6.
Các cơ quan, tổ chức có liên quan đến công tác thi hành hình
phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
72
2.2.7.
Người bị kết án treo, cải tạo không giam giữ và gia đình họ
73
2.3.
Nguyên nhân của những tồn tại
75
6
2.3.1.
Một số quy định pháp luật về thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ còn bất cập, chưa hoàn thiện
75
2.3.2.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ còn hạn chế
81
2.3.3.
Công tác cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện tổ chức thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu
cầu tình hình
82
2.3.4.
Công tác phối hợp và tổ chức thi hành án của một số cấp ủy,
chính quyền, cơ quan chức năng chưa đồng bộ, chặt chẽ
84
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG
GIAM GIỮ
86
3.1.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thi hành án và dự báo
những yếu tố tác động đến công tác thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
86
3.1.1.
Nâng cao hiệu quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
bắt nguồn từ sự đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
86
3.1.2.
Nâng cao hiệu quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
bắt nguồn từ những đòi hỏi của thực tiễn phải khắc phục
những tồn tại trong quá trình thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ hiện nay
89
3.1.3.
Dự báo những yếu tố tác động đến công tác thi hành án treo,
cải tạo không giam giữ
91
3.2.
Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
93
3.2.1.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Hình sự, Tố
tụng Hình sự liên quan đến công tác thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ
93
7
3.2.2.
Sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định của Luật Thi hành
án hình sự năm 2010
94
3.2.3.
Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong việc ban
hành các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thi hành án
hình sự có nội dung liên quan đến thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ
95
3.2.4.
Phát huy vai trò, tính chủ động của các nhà nghiên cứu khoa
học, hoạch định chính sách quốc gia và các tổ chức, đoàn thể xã
hội trong việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế pháp luật
96
3.3.
Giải pháp nâng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
97
3.3.1.
Tiếp tục đổi mới về nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
97
3.3.2.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
101
3.3.3.
Phát huy năng lực, trách nhiệm của các chủ thể thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ
104
3.3.4.
Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể thi hành án treo,
cải tạo không giam giữ
110
3.3.5.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm hành vi
vi phạm pháp luật thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
112
3.3.6.
Đảm bảo các điều kiện cần thiết và có chế độ chính sách cho
cán bộ làm công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
114
KẾT LUẬN
118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
121
8
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
THAHS
: Thi hành án hình sự
UBND
: Ủy ban nhân dân
9
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
38
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm
2009 - 2013
49
2.2
Tình hình thực tế thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2013
51
10
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động quan
trọng của Nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật ra thi hành trong thực tế; liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hoạt động THAHS là khâu cuối cùng và có ý nghĩa quan trọng trong
bảo đảm hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý mà Tòa án đã
nhân danh Nhà nước ra bản án, quyết định; mặt khác, thi hành án kịp thời,
nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi phạm tội chính là
biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức
và cá nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS, được quy định phong
phú, đa dạng, có sự kế thừa, bổ sung ngày càng hoàn thiện, phù hợp với xu
thế phát triển của đất nước và đáp ứng yêu cầu ở từng thời điểm lịch sử khác
nhau. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ chủ yếu tập trung vào công tác thi hành hình
phạt tù, tử hình, trục xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến việc tổ chức thi
hành các hình phạt khác, nhất là hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không
giam giữ. Hệ thống các văn bản quy pháp pháp luật về thi hành hình phạt tù
cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đã được ban hành ở những thời
điểm khác nhau nên còn bất cập, chưa đồng bộ, nhiều nội dung chưa được quy
định cụ thể, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Bên cạnh
đó, qua thực tiễn thi hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong
thi hành án chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ
vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát,
11
nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người bị
kết án không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm, có vi phạm chưa được
quy định đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tái phạm;
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách, nâng cao trình độ cho cán bộ
thực thi và cơ sở vật chất cho công tác thi hành án chưa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đặt ra Tất cả những tồn tại và hạn chế nêu trên đã làm giảm hiệu quả
của công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Hiện nay, khoa học tư pháp hình sự trong và ngoài nước đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo,
cải tạo không giam giữ nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ
thống chung nhất về hình phạt, THAHS hoặc chuyên sâu về hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ mà chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Hơn nữa, các thông tin, số liệu
của các công trình nghiên cứu trên đã lạc hậu so với thực tiễn, nhất là trong
thời gian qua có nhiều cơ quan chức năng, các nhà nghiên cứu đã tiến hành
khảo sát, cập nhật một cách toàn diện để phục vụ tổng kết thi hành Bộ luật
Hình sự (BLHS) năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và
triển khai Luật THAHS năm 2010, Hiến pháp năm 2013 đảm bảo tính thống
nhất, toàn diện, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Ngoài ra, trong bối cảnh
Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với
nội dung:
12
Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố
tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng
hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại
tội phạm… Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình
phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án. Từng bước
thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để
giao tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công
việc thi hành án [22, tr. 3]
Việc tăng cường áp dụng các hình phạt không tước tự do, nhất là hình
phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ thể hiện rõ nét nhất chính
sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự,
tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hoàn lương mà không phải cách ly
khỏi xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước trong việc
giam giữ người phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng,
góp phần hiệu quả phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn để
làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả
thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Điều đó không
chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận
chứng cần thiết để tôi lựa chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do thi hành hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách
hình sự của mỗi quốc gia, thể hiện được hiệu quả đạt được của cả hệ thống tư
pháp, nên trong những năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa
13
học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về
THAHS và hệ thống các hình phạt.
Trước hết, hoạt động THAHS được phân tích trong một số giáo trình
và sách tham khảo như: Luật Thi hành án hình sự năm 2010; Tài liệu tập
huấn chuyên sâu Luật Thi hành án hình sự, Nxb Lao động, năm 2011, của
GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, tái bản lần thứ 5, năm 2009, của tập thể tác giả
do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Sách chuyên khảo: Pháp luật thi hành
án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, năm
2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh - PGS.TS Nguyễn Mạnh
Kháng chủ biên; Sách chuyên khảo: Một số vấn đề về thi hành án hình sự,
Nxb Công an nhân dân, năm 2002, của TS. Trần Quang Tiệp
Hoặc được đề cập trong một số báo cáo, đề tài, công trình nghiên cứu khoa
học độc lập như: Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, của Trần
Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; Đề tài khoa học: Cơ sở lý luận và
thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không
phải là tù và tử hình, của Đặng Quang Phương năm 1996; Các căn cứ thi hành
án, của Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1998; Nhu cầu hoàn thiện
pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay, của Nguyễn Trọng Hách,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2002; Thi hành án: Bất cập từ cơ quan
pháp luật, của Nguyễn Khắc Bộ, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2003; Quan
niệm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước từ góc nhìn của hoạt
động thi hành án hình sự, của Phạm Văn Tỉnh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 1/2003; Đề tài khoa học: Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, của Bộ Tư pháp,
Hà Nội, 2003; Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị, của
Nguyễn Phong Hòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2006; Kỷ yếu Hội thảo khoa
học: Về tổ chức, quản lý công tác thi hành án và báo cáo về kết quả tọa đàm về
14
mô hình quản lý công tác thi hành án một số nước trên thế giới, của Ban chỉ đạo
Cải cách tư pháp Trung ương năm 2013; Chuyên đề khoa học: Công tác thi hành
án hình sự và việc tổ chức, quản lý công tác thi hành án hình sự - thực trạng và
phương hướng hoàn thiện mô hình quản lý, của Nguyễn Ngọc Anh năm 2013 v.v
Vấn đề thi hành hình phạt không cách ly người bị kết án ra khỏi xã
hội, bao gồm cả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù cho
hưởng án treo còn được nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng đề cập đến
như: Công ước chống đối xử hoặc hình phạt tàn bạo, được thông qua bằng
Nghị quyết số 39/46 ngày 10/2/1984 của Đại hội đồng Liên hợp quốc; Các
quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về các biện pháp không giam giữ
(các quy tắc Tôkyô, 1990), được thông qua bằng Nghị quyết số 45/110 ngày
14/12/1990 của Đại hội đồng Liên hợp quốc v.v
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về hệ thống hình phạt và THAHS
nói chung, hoặc các khía cạnh chuyên sâu về thi hành hình phạt tù, tử hình,
trục xuất, còn riêng đối với thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức hoặc chỉ mới
được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về
hình phạt, THAHS, các quy định của pháp luật có liên quan chứ chưa được
triển khai nghiên cứu độc lập, chuyên sâu, đánh giá lý luận và tổng kết thực
tiễn. Mặt khác, từ trước đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu nào đề cập đến
tình hình thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên
địa bàn tỉnh Nam Định. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với
bất kì công trình nào đã được nghiên cứu trước đây.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
15
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật và
thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, từ
đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
- Làm rõ một số nội dung cơ bản về lý luận khoa học và quy định của
pháp luật về THAHS, các hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam
giữ và nhất là thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
về: khái niệm, đặc điểm, chủ thể, khách thể, nội dung, nguyên tắc, phương
pháp, hình thức thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án
treo, cải tạo không giam giữ, trên cơ sở có so sánh, đối chiếu với tình hình
thực tiễn thi hành án trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại,
khó khăn trong việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không
giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 đến 2013.
- Trên cơ sở nghiên cứu để đề xuất phương hướng và giải pháp nâng
cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, giải quyết những vấn đề xung quanh lý luận và
thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định, nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế để đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thi hành trong thực tiễn.
16
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trong 05 năm (2009 - 2013).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các
Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp
quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức
khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của các ngành Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp
trong những năm 2009 - 2013 và thông tin, tài liệu trên mạng Internet để phân
tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh hoạt động
thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn
tỉnh Nam Định nói riêng và trên địa bàn cả nước nói chung.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng, góp
phần giải quyết nhiều vấn đề về phương diện lý luận và thực tiễn thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ để
xây dựng khái niệm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình
17
phạt cải tạo không giam giữ, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời làm
rõ quá trình phát triển, hoàn thiện pháp luật và các đặc điểm, nội dung cơ bản
của thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ trong mối tương quan so sánh với một số chế định khác;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình thực tiễn thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn cả
nước nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng; chỉ ra những tồn tại, hạn chế
trong thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ cũng
như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp
luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan THAHS,
Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý, tổ
chức THAHS đảm bảo khách quan, đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành hình phạt tù cho hưởng án
treo, cải tạo không giam giữ.
Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ.
18
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VÀ THI HÀNH
HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO
KHÔNG GIAM GIỮ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự
Hiện nay, xung quanh khái niệm THAHS còn nhiều ý kiến khác nhau,
nhưng có hai quan điểm chính:
Quan điểm thứ nhất: cho rằng THAHS là hoạt động tư pháp và là một
giai đoạn của tố tụng hình sự, tiêu biểu là nhà luật học Liên Xô (cũ) M.A
Trenxốv và một số nhà khoa học Luật học khác như TS. Nguyễn Hữu Thư,
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn, trong đó: (1) Thi hành án là các hoạt động bảo vệ
pháp luật, nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện
trên thực tế, do đó về bản chất khác với các hoạt động hành chính là tổ chức
và quản lý. Việc Tòa án tuyên bản án, quyết định chưa phải là đã kết thúc
hoạt động tư pháp, vì công lý chỉ thực sự được thực hiện khi bản án, quyết
định của tòa án được thi hành đầy đủ, nên thi hành án phải là bộ phận không
thể tách rời của hoạt động tư pháp; (2) Thi hành các bản án, quyết định của
tòa án là thực hiện một quyết định tư pháp, gắn liền và tiếp theo quá trình xét
xử, chịu sự chi phối của các cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án; không phải là
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hay quyết định hành chính cá biệt;
(3) Cơ quan thi hành án không phải là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng là cơ
quan có nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp.
Quan điểm thứ hai: cho rằng THAHS là hoạt động hành chính - tư
pháp, tiêu biểu là GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Trần Văn Độ, GS.TS. Võ
Khánh Vinh và một số nhà khoa học Luật học khác. Tác giả đồng tình với
quan điểm thứ hai, bởi vì: (1) Thi hành án không phải là hoạt động xét xử nên
19
không phải là hoạt động tư pháp mà chỉ là hoạt động thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án; hoạt động THAHS có mục đích, nhiệm vụ khác với
hoạt động tố tụng hình sự mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với tố tụng hình sự;
(2) Hoạt động thi hành án phản ánh mối liên hệ giữa quyền hành pháp và
quyền tư pháp trong thi hành án. Thủ tục thi hành án không hoàn toàn là thủ
tục tố tụng mà là quy trình của hoạt động chấp hành, điều hành. Các nguyên
tắc, phương pháp của hoạt động thi hành án không giống với hoạt động tố
tụng; mà nó bao gồm kết hợp giữa phương pháp giáo dục thuyết phục với
mệnh lệnh hành chính; (3) Trong giai đoạn thi hành án không chỉ Tòa án mà
còn nhiều cơ quan hành chính Nhà nước cùng tham gia như đã phân tích ở các
đặc điểm của THAHS. Do đó, không thể coi thi hành án là hoạt động tư pháp
đơn thuần mà có đan xen, gắn bó chặt chẽ với hoạt động hành chính. Pháp
luật được áp dụng không phải chỉ riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các qui
định pháp luật hành chính - tư pháp.
Để làm rõ vấn đề trên, tác giả thấy cần thiết phải đi sâu tìm hiểu, phân
tích về các đặc điểm, bản chất của THAHS như sau:
Theo Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết
định" [35, tr. 1599]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản
án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn THAHS là thực hiện các bản án,
quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Những
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước,
người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền và lợi ích liên
quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng nội dung bản án, quyết định của
Tòa án. Điều đó có nghĩa là chỉ các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật mới được đem thi hành. Đó là các bản án, quyết định
hình sự của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS gồm: (1) Những
bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
theo trình tự phúc thẩm; (2) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc
thẩm; (3) Những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
20
Mục đích, nhiệm vụ của hoạt động THAHS khác biệt so với mục đích,
nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự là quá trình làm rõ sự thật khách quan
của vụ án hình sự, xác định rõ có hay không có tội phạm xảy ra, qua đó quyết
định việc áp dụng hay không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp tại bản án,
quyết định của Tòa án. THAHS là công đoạn cuối cùng của việc thực thi
quyền lực tư pháp, hiện thực hóa công lý đã được Tòa án tuyên trong các bản
án, quyết định; là quá trình tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm thực hiện
nghiêm các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; một mặt
bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã
hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa
án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Điều đó không chỉ là
ước muốn của mọi người dân, mọi nhà nước dân chủ tiến bộ mà đã trở thành
những cam kết, nguyên tắc, chuẩn mực thực thi quyền tư pháp trên toàn thế
giới, thể hiện rõ ràng thông qua các Công ước quốc tế.
Để đạt được mục đích trên, đòi hỏi hoạt động THAHS phải thực hiện
tốt ba chức năng cơ bản là: (1) Chức năng bảo đảm, thực thi công lý. Công lý
được thực thi đầy đủ hay không là một phần phụ thuộc vào quá trình tổ chức
thi hành của các cơ quan, tổ chức thi hành án; (2) Chức năng cưỡng chế, được
thực hiện thông qua những biện pháp cưỡng chế của cơ quan, tổ chức thi hành
án; (3) Chức năng giáo dục, được thực hiện bằng các biện pháp động viên,
thuyết phục hoặc cưỡng chế người có nghĩa vụ thi hành án, thông qua đó giáo
dục thái độ tôn trọng pháp luật, quyền của người khác.
Thi hành án hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật hình sự,
nhất là mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chặt chẽ với các quy định của
pháp luật hình sự về hình phạt và biện pháp tư pháp. Trong mối quan hệ này,
hình phạt và biện pháp tư pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung,
phương pháp, hình thức, thời hạn THAHS. Căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của từng loại tội phạm được thực hiện thì mỗi người bị kết án sẽ bị
21
áp dụng một loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp cụ thể. Theo đó, việc thi
hành các loại hình phạt, biện pháp tư pháp trong thực tế cũng được thực hiện
theo những trình tự, thủ tục khác biệt phụ thuộc vào mục đích và đặc điểm
của từng loại hình phạt, biện pháp tư pháp. Ngược lại, THAHS có tác động
trở lại nhất định đối với hình phạt, biện pháp tư pháp, làm cho mục đích của
hình phạt, biện pháp tư pháp được thực hiện trên thực tế. Lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và công dân, trật tự pháp luật chỉ thực sự được đảm bảo khi
công tác THAHS được thực hiện triệt để.
Hoạt động THAHS có các quan hệ pháp luật, đối tượng điều chỉnh
khác với hoạt động tố tụng hình sự. Quá trình thi hành bản án và quyết định
hình sự của Tòa án đã có hiệu lực là một hoạt động phức tạp, đa dạng, có liên
quan đến nhiều chủ thể như: Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp,
UBND xã, phường, thị trấn, trại tạm giam, cơ quan THAHS, cơ quan quản lý
THAHS đến UBND cấp huyện, cấp tỉnh, các bộ, ngành hoặc cơ quan, tổ
chức, đoàn thể xã hội và các cá nhân có liên quan.
Vai trò của từng loại chủ thể khi tham gia vào quá trình THAHS khác
nhau và phụ thuộc vào từng loại thi hành án. Các chủ thể THAHS phải tuân
thủ những quy định rất chặt chẽ về thi hành án. Những quy định rất chi tiết, cụ
thể như: trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án; cách thức tổ chức việc thi
hành án; giải quyết khiếu nại hoặc trả lời kháng nghị việc thi hành án
Những quy định này được thực hiện một cách độc lập, do người có thẩm
quyền tiến hành mà không phụ thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như
trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.
Do có nhiều loại chủ thể khác nhau và liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhau, lại thường diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài nên các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình THAHS cũng hết sức phức tạp; có
thể phân loại thành các nhóm quan hệ như sau: (1) Các quan hệ xã hội phát
sinh phát sinh sau sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật, phản ánh nội dung của việc thi hành và chấp hành các bản án, quyết định
22
của Tòa án, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc thi hành
bản án, quyết định của Tòa án; (2) Quan hệ liên quan đến việc hình thành cơ
cấu tổ chức, quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan
THAHS; (3) Quan hệ phát sinh trong quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết
án; quan hệ của các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức xã hội khi
tham gia vào quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết án.
Phương pháp THAHS có sự kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp giáo
dục, thuyết phục và cưỡng chế. Như vậy, phương pháp điều chỉnh của
THAHS khác với tố tụng hình sự - sử dụng phương pháp quyền uy, phương
pháp phối hợp và chế ước. Sự tự nguyện thi hành án là một trong yếu tố quan
trọng tạo điều kiện cho hoạt động THAHS diễn ra thuận lợi, đạt được hiệu
quả cao nhất. Sự tự nguyện đối với người phải thi hành án xuất phát từ bản
chất, mục đích tốt đẹp nhân đạo trong việc hướng người thi hành án hòa nhập
với cộng đồng, tạo cho họ môi trường thân thiện, ổn định để họ được học tập,
lao động và có cơ hội quyết tâm cải tạo trở thành người có ích trong xã hội.
Để các chủ thể tự nguyện thi hành án, nhà nước phải áp dụng biện pháp
thuyết phục và cưỡng chế, lấy thuyết phục, giáo dục là chính, làm cho người
thi hành án hiểu được các quyền lợi của họ khi thực hiện tốt nghĩa vụ của
mình; song, cũng phải xử lý nghiêm minh các chủ thể khi không chấp hành
nghiêm các quy định của pháp luật thi hành án nhằm mục đích đảm bảo hiệu
lực tối đa của các bản án đã tuyên. Việc kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và
cưỡng chế trong quá trình THAHS đòi hỏi phải đảm bảo vận dụng linh hoạt,
phù hợp tùy theo mỗi hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, trong đó chỉ áp dụng
cưỡng chế trong trường hợp thật cần thiết khi không có cách nào khác.
Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, các
quy phạm pháp luật trong hoạt động THAHS là các quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế của nhà nước. Tuy nhiên, để hoạt động
THAHS đạt hiệu quả cao nhất thì không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực của các
23
cơ quan nhà nước mà cần có sự chấp hành, phối hợp của nhiều chủ thể, sự
quan tâm tham gia của cả cộng đồng xã hội, do vậy hoạt động này còn mang
tính xã hội rộng lớn.
Từ những phân tích trên, tác giả có thể tổng hợp và đưa ra khái niệm
THAHS là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, kết hợp chặt
chẽ giữa phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế để đưa bản án,
quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù cho hƣởng án treo
Trên thế giới, mỗi quốc gia có quy định khác nhau về chế định này,
chẳng hạn luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp hoãn tuyên
án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình
sự của Pháp, Bỉ và một số nước coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành
hình phạt. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây coi án treo là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nhưng cũng có nước coi
án treo là hình phạt chính như Cộng hòa dân chủ Đức.
Ở nước ta, chế định án treo được qui định ngay từ những năm đầu của
Nhà nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù chưa có văn
bản luật nào đưa ra định nghĩa chính thức án treo là gì, song nhìn chung các
văn bản đều đưa ra những qui định về án treo, điều kiện được hưởng án treo.
Trải theo dòng lịch sử lập pháp Việt Nam, các quy định về án treo có một số
thay đổi và ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng
ngừa tội phạm. Văn bản đầu tiên quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 ngày
14/2/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tổ chức
của Tòa án quân sự thiết lập tại Bắc, Trung và Nam Bộ, trong đó:
Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo
nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình
chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngay tuyên án,
24
tội nhân không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản
án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy,
tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một tòa án thì bản án treo sẽ
đem ra thi hành [131, tr. 2].
Bộ luật hình sự 1985, BLHS 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
xác định án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Khoản 1 Điều 60 BLHS 1999 quy định: "Khi xử phạt tù không quá ba năm,
căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo
và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [41]. So với BLHS
năm 1985, chế định án treo trong BLHS năm 1999 có nhiều thay đổi, trong đó
mức hình phạt tù xem xét cho hưởng án treo từ 5 năm xuống còn 3 năm tù;
điều kiện thử thách không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm
tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù.
Thời gian qua, đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan điểm về án
treo và mặc dù có khác nhau trong cách đặt vấn đề nhưng nhìn chung các tác
giả đều thống nhất với sự hướng dẫn, giải thích của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18/10/1990 và
mới đây nhất là Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013, có thể
thống nhất xác định: án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3
năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét
thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra
nhận xét về đặc điểm hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo:
Thứ nhất: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện, không phải là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt. Pháp luật Hình sự
Việt Nam quy định bảy hình phạt chính trong đó có hình phạt tù, còn án treo
là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi người phạm tội có đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành;
25
Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử
thách bằng lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không
quá năm năm; phương pháp thử thách là thông qua việc phải chịu sự giám sát,
giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo
dục để chứng tỏ sự cải tạo tích cực, trở thành người có ích cho xã hội;
Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới thì
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo
buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng
án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện.
Theo Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ
về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thì việc thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh
sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã
hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân
đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người được
hưởng án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người
đó. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục
của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó. Theo Luật
THAHS năm 2010, thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của Luật này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo
trong thời gian thử thách. Từ hai quy định trên tác giả nhận thấy, khái niệm thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo và thi hành án treo là một, cách giải thích,
đặt vấn đề trong Luật THAHS có cô đọng, ngắn gọn hơn nhưng về bản chất
không thay đổi so với quy định tại Nghị định số 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ.
Bên cạnh những đặc điểm chung của THAHS, thi hành án treo có một
số đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất: Thi hành án treo là một bộ phận cấu thành của công tác
THAHS, là hoạt động hành chính - tư pháp của cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản