Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thủ đô Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.29 KB, 89 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THẾ LINH






KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM
VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn Thủ đô Hà Nội)





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2014



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN THẾ LINH





KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM
VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn Thủ đô Hà Nội)

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng




HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Trần Thế Linh












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SÁT
TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
8

1.1.
Khái niệm tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
8
1.1.1.
Tạm giữ
8
1.1.2.
Tạm giam
10
1.1.3.
Thi hành án hình sự
14
1.2.
Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
16
1.2.1.
Khái niệm kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
16
1.2.2.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
19
1.3.
Khái quát lịch sử phát triển các quy phạm pháp luật về kiểm
sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân
22
1.3.1.
Giai đoạn từ 1945 đến 1960

22
1.3.2.
Giai đoạn từ 1960 đến 1981
23
1.3.3.
Giai đoạn từ 1981 đến 2002
24
1.3.4.
Giai đoạn từ 2002 đến nay
26

5

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT TẠM
GIỮ, TẠM GIAM VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
29
2.1.
Các quy định của pháp luật về kiểm sát tạm giữ, tạm giam và
thi hành án hình sự
29
2.1.1.
Quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự
29
2.1.2.
Chức năng và nhiệm vụ trong việc kiểm sát thi hành án phạt
tù, thi hành án treo, cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát
nhân dân
35

2.2.
Thực trạng kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội từ 2008
đến 2012
41
2.2.1.
Những kết quả đã đạt được và những tồn tại trong công tác
tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự trên địa bàn thành phố
Hà Nội
41
2.2.2.
Những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong công tác
kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội
46

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM
GIAM VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN
63
3.1.
Hoàn thiện pháp luật
63
3.1.1.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
63
3.1.2.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, các quy chế, nghiệp vụ và các văn bản pháp luật khác

68
3.2.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự
69

6
3.2.1.
Về công tác cán bộ
69
3.2.2.
Tăng cường quan hệ phối hợp trong thực thi nhiệm vụ
71
3.2.3.
Áp dụng công nghệ thông tin vào thực hiện nghiệp vụ
73
3.2.4.
Về xây dựng cơ sở vật chất như nhà tạm giữ, trại tạm giam và
trại giam
74

KẾT LUẬN
75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77

7



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Số liệu kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
từ 2008 đến 2012
47


8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp và
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nâng cao chất lượng
hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp nói chung, nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nói riêng trong giai đoạn hiện nay phải được đổi mới, đảm bảo mọi hành vi, vi
phạm pháp luật hình sự phải được phát hiện kịp thời, nhanh chóng, truy tố
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, công minh, không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2001 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ:
Nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của
các cơ quan và cán bộ tư pháp; Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp; tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ,

bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ,
tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm
giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn
của mình [21].
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định một trong những nhiệm vụ của
cải cách tư pháp là: "Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện
pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm
quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam" [23].

9
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam và thi hành án hình sự là một trong các công tác thực hiện chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Đối tượng của hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là sự tuân thủ pháp luật của cơ quan,
đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự nhằm đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự đúng theo
quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam được chấp hành nghiêm
chỉnh; tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm
giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn
trọng. Hoạt động này giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính thống
nhất, công bằng và nghiêm minh của pháp luật nhằm phục vụ công tác đấu
tranh phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền con người,
bảo vệ quyền dân chủ của công dân góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của
ngành Kiểm sát.
Thời gian qua, hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, nhanh chóng phát hiện
những vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức và người có trách nhiệm trong

việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, kịp thời kiến nghị, kháng nghị
khắc phục vi phạm trong hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập như
chất lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự chưa cao, vẫn
còn để xảy ra tình trạng bị can, bị cáo, phạm nhân trốn, tự sát, phạm tội mới;
chế độ, tiêu chuẩn của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, phạm nhân còn chưa
đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật, nhiều Nhà tạm giữ, Trại tạm giam
còn diễn ra tình trạng vi phạm nội quy, quy chế. Việc nghiên cứu để phân tích
thực trạng của hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự,
xác định nguyên nhân của những hạn chế để đề ra các giải pháp khắc phục
những tồn tại, hạn chế đó là rất cần thiết và có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.

10
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: "Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn Thủ đô Hà Nội)" làm luận
văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là một trong những
nhiệm vụ hết sức quan trọng của ngành Kiểm sát nói riêng và hoạt động tư
pháp nói chung. Vì vậy, vấn đề này đang rất được quan tâm nhằm đảm bảo
cho việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự đúng quy định của pháp
luật. Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài như:
- Đề tài khoa học cấp bộ "Kháng nghị của Viện kiểm sát với các cơ
quan có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Nguyễn Hoàng
Thế và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2004 nêu nên thực trạng
việc sử dụng quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong khâu công
tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền

năng này.
- Đề tài khoa học cấp bộ "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù
theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
do tác giả Ngô Quang Liễn và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm
2007, nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong lĩnh vực
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu
cầu cải cách tư pháp.
- Chuyên đề "Tổng kết 50 năm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù" của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, do tác giả Bùi Đức Long và các thành viên thực hiện,

11
nghiệm thu năm 2010, đã khái quát quá trình hình thành, phát triển cùng
những thành tựu, hạn chế trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù từ khi Viện kiểm sát nhân dân
thành lập năm 1960 đến năm 2010.
Vấn đề liên quan đến kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình
sự còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí
Kiểm sát số 19/2012 có bài: "Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện
pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm
quyền quyết định việc áp dụng tạm giam" của TS. Đỗ Văn Đương; tác giả
Nguyễn Hải Phùng có bài viết: "Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự có cần ban hành "quyết định trực
tiếp kiểm sát" không?", Tạp chí kiểm sát, số 7/2012. Bên cạnh đó còn có bài
viết của GS.TSKH Lê Cảm: "Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền con
người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự", Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 6/2010; bài viết của tác giả Vũ Đức Chấp: "Nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm sát thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân", Tạp
chí Kiểm sát, số 10/2008; bài viết của PGS.TS Trần Văn Độ: "Bảo vệ quyền

con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2010; bài viết của
tác giả Bùi Đức Long: "Bàn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong thi hành án hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 23/2010. Trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc đưa ra những chính sách
hình sự hợp lý đồng thời nâng cao chất lượng đấu tranh phòng chống tội
phạm, giảm bớt tình trạng oan sai và xâm phạm quyền con người đang là nhu
cầu bức thiết. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm tới công tác tư pháp mà
cụ thể là giai đoạn công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, để đảm bảo
rằng, mọi hoạt động tố tụng hình sự đều phải chấp hành nghiêm chỉnh theo
Hiến pháp và pháp luật, đồng thời phát hiện xử lý tội phạm một cách nhanh
chóng, chính xác, kịp thời và công minh.

12
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện, có hệ thống về công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận chung về kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, phân tích,
nghiên cứu thực trạng kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trên
địa bàn thành phố Hà Nội để đánh giá những ưu điểm cũng như những hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. Qua đó, luận văn đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam và
thi hành án hình sự.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn phải giải quyết
những nhiệm vụ sau đây:
+ Nghiên cứu, làm rõ các căn cứ pháp lý, khái niệm, đặc điểm, nhiệm

vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự cũng như
lịch sử hình thành các quy phạm pháp luật đó.
+ Nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc tuân theo pháp luật của người có thẩm quyền trong lĩnh vực tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, khảo sát, đánh giá thực tiễn về thực
trạng hoạt động tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trên địa bàn thành
phố Hà Nội và công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Từ đó, phân tích những ưu, khuyết
điểm cũng như tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của những tồn tại đó, trong
việc thực hiện kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội.

13
+ Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng và ngành Kiểm sát
nhân dân nói chung đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam thời gian tới.
3.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác kiểm
sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân đảm bảo
việc tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tạm giữ, tạm
giam, thi hành án phạt tù và thi hành án treo, cải tạo không giam giữ.
- Về thời gian: tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tế, thu thập
số liệu, tài liệu thực tiễn của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến 2012.

4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn, các
phương pháp nghiên cứu của tội phạm học, khoa học điều tra tội phạm và các
khoa học pháp lý khác.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về việc kiểm sát
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, đồng

14
thời xác định những vướng mắc, bất cập và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự, Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến lĩnh vực kiểm sát tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự.
Luận văn cũng tiến hành khảo sát thực tiễn, thu thập số liệu, tài liệu
thực tiễn phản ánh thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, qua đó đánh giá
những ưu và nhược điểm và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
đó để đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm
sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội nói riêng và ngành kiểm sát nói chung trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về kiểm sát tạm giữ, tạm giam
và thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Các quy định của pháp luật về kiểm sát tạm giữ, tạm giam

và thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.

15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Tạm giữ
Theo Từ điển Luật học năm 2006 thì: "tạm giữ được hiểu là biện pháp
ngăn chặn áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang để cách ly họ với xã hội trong thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn
người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định sự liên quan của người
này đối với tội phạm" [54]. Theo Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, đối
tượng bị tạm giữ là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết
định truy nã. Tuy nhiên không phải bất cứ trường hợp nào người bị bắt theo
các trường hợp trên đều bị tạm giữ mà tùy tính chất mức độ của hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà có thể bị tạm giữ hoặc không tạm giữ. Căn cứ để ra Quyết
định tạm giữ chính là việc bắt quả tang, bắt khẩn cấp theo đúng trình tự thủ
tục tại Điều 81, 82 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, tự thú, đầu thú, bắt truy nã và
căn cứ tính chất mức độ của hành vi phạm tội thì có thể ra quyết định tạm giữ
hoặc không tạm giữ. Trong trường hợp người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vẫn
có thể bị tạm giữ khi có đủ căn cứ theo luật định nhưng chỉ trong các trường
hợp phạm tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng [44, Điều 303]. Người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ chính là
những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp được Thủ trưởng, phó Thủ trưởng

Cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung
đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;

16
người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng và chỉ huy vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ [44, Điều 86].
Thời hạn tạm giữ được quy định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự,
theo đó: "Thời hạn tạm giữ không được quá 03 ngày kể từ khi cơ quan điều
tra nhận người bị bắt" [44]. Như vậy, thời hạn tạm giữ được tính theo ngày và
thời điểm nhận người bị bắt chỉ có ý nghĩa tính ngày bị tạm giữ vì thời hạn sẽ
hết vào lúc 24h. Khi người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ thì quyết
định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 12 giờ,
quyết định phải ghi rõ lý do tạm giữ ngày hết hạn tạm giữ, Viện kiểm sát xem
xét tính có căn cứ, cần thiết của quyết định tạm giữ, nếu thấy quyết định tạm
giữ không có căn cứ, không cần thiết thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định
tạm giữ đó và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ. Những trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm giữ là trường
hợp người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã; người bị tạm giữ chỉ vi phạm hành chính hoặc pháp
luật dân sự; người bị tạm giữ là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi nhưng phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc
rất nghiêm trọng do vô ý, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít
nghiêm trọng, nghiêm trong do vô ý; người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang nhưng có đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh họ không phạm
tội. Thời hạn tạm giữ có thể được gia hạn 02 lần, mỗi lần không quá 03 ngày
trong những trường hợp cần thiết và đặc biệt như chưa củng cố được tài liệu,
nhân thân, tính chất mức độ hành vi của tội phạm và mọi trường hợp gia hạn
tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trong thời hạn 12 giờ.
Trong thời hạn 12 giờ Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn

hoặc không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, khi Viện kiểm sát không
phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ hoặc không đủ căn cứ khởi tố bị can thì
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ đó sẽ được trừ vào

17
thời hạn tạm giam theo quy định một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày
tạm giam. Việc quy định thời hạn tạm giữ như vậy nhằm mục đích hạn chế
tình trạng lạm dụng tạm giữ và bảo đảm tính khách quan, có căn cứ và cần
thiết của việc tạm giữ.
Từ những nghiên cứu và phân tích trên đây thì có để đưa ra khái niệm:
tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do những chủ thể có
thẩm quyền theo luật định áp dụng trong trường hợp cần thiết đối với những
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự
thú, đầu thú hoặc đang bị truy nã nhằm ngăn ngừa và xử lý tội phạm kịp thời.
1.1.2. Tạm giam
Theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì tạm giam
là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do những người có thẩm quyền
ở Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm
tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị
can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình
sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn chứ cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Theo quy định tại Quy chế về tạm giữ, tạm giam được ban hành kèm theo
Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 thì tạm giữ, tạm
giam là những biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình
sự do Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng nhằm buộc
những người có Lệnh tạm giữ hoặc Lệnh tạm giao cách ly khỏi xã hội trong
một thời gian nhất định để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc đảm bảo thi hành án phạt tù hoặc án tử
hình [14, Điều 1]. Như vậy, tạm giam không phải là hình phạt tù vì mục đích

của tạm giam không những ngăn ngừa bị can, bị cáo phạm tội mới hoặc trốn
tránh mà còn đảm bảo cho cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố và xét xử
bị cáo được chính xác, kịp thời, bên cạnh đó cũng là biện pháp để giúp đảm

18
bảo thi hành án hình sự. Đối tượng của biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ có
thể là bị can, bị cáo tức là những người đã có quyết định khởi tố bị can hoặc
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, không phải tất cả các bị can, bị cáo
đều áp dụng biện pháp tạm giam mà theo căn cứ điều 88 Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 quy định những bị can, bị cáo có thể được áp dụng biện pháp tạm
giam bao gồm: bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng
mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục
phạm tội.
Như vậy, để áp dụng biện pháp tạm giam đối với những bị can, bị cáo
phạm tội phải tính đến khả năng người đó có thể trốn tránh hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hay tiếp tục phạm tội dựa vào nhân thân người phạm
tội, họ có tiền án, tiền sự gì không, tạm giam có cần thiết hay không. Hơn
nữa, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng quy định một số trường hợp có đủ căn
cứ thì không áp dụng biện pháp tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác như: bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi
sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng.
Tuy nhiên, những người này vẫn có thể áp dụng biện pháp tạm giam nếu họ
thuộc một trong những trường hợp sau đây: bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt
theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra,
truy tố, xét xử; bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ
căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an
ninh quốc gia.

Khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định những người có
thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ

19
chức vụ Chánh tòa, phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao;
Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Khi
Thủ trưởng, phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp ra lệnh tạm giam thì
phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời
hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và
hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định
phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ
sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
Theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, bị can, bị cáo
khi bị áp dụng biện pháp tạm giam phải có Lệnh tạm giam của người có thẩm
quyền ký, riêng Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều
tra các cấp phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi
hành. Biện pháp ngăn chặn tạm giam là biện pháp rất nghiêm khắc trong tố
tụng hình sự, theo quy định trong trường hợp người bị tạm giam bị phạt tù thì
cứ 01 ngày tạm giam được tính bằng 01 ngày tù. Vì vậy, khi áp dụng biện
pháp tạm giam cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước người bị tạm
giam để đảm bảo tính có căn cứ, chặt chẽ và chính xác, tránh xảy ra oan sai,
đồng thời phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú
hoặc làm việc biết. Người bị tạm giam có được chế độ khác với chế độ đối với
người đang chấp hành hình phạt tù. Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt,
nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy
định tại Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 được sửa đổi bổ
sung một số điều ở Nghị định số 98/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2002 và

Nghị định số 09/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2011. Người bị tạm giữ, tạm
giam được chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của mình cụ thể:
Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có
người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ
quan ra lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom.

20
Trong trường hợp người bị tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra
quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở
tại chăm nom. Nếu người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà
không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết tạm giữ, lệnh tạm
giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng và cơ
quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ,
tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
Thời hạn tạm giam được quy định cụ thể và chi tiết trong Bộ luật tố
tụng hình sự 2003. Cụ thể là, Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định
về thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra. Theo đó, thời hạn tạm giam bị
can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá
ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và
không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là
mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề
nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam phải theo quy
định như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam
một lần không quá một tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia
hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không
quá một tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm
giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai
tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam

ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng [44].
Về thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố được tính từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra trong thời hạn hai mươi ngày đối
với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với
tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường
hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá

21
mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không
quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi
ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [44, Điều 166]. Điều 177, 228
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về thời hạn tạm giam trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm và sau khi tuyên án; Điều 243 Bộ luật tố tụng hình sự
2003 quy định về thời hạn tạm giam khi xét xử phúc thẩm; Điều 250 Bộ luật
tố tụng hình sự 2003 quy định về thời hạn tạm giam khi cấp phúc thẩm hủy
bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại; Điều 287 Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 quy định về thời hạn tạm giam khi giám đốc thẩm hủy bản án đã có
hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Như vậy, trên cơ sở phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm: Tạm
giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự do
những người có thẩm quyền thuộc cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa
án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội
trong một khoảng thời gian nhất định để ngăn chặn tội phạm hoặc ngăn ngừa
người thực hiện hành vi phạm tội trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án.
1.1.3. Thi hành án hình sự
Hiến pháp 2013 khẳng định, các bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành [47, Điều 106]. Yêu
cầu mang tính nguyên tắc Hiến định này đã khẳng định hiệu lực thi hành của

tất cả các phán quyết của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật đồng thời khẳng
định ý nghĩa rất quan trọng của vấn đề thi hành án nói chung và thi hành án
hình sự nói riêng. Đồng thời, thi hành án hình sự có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc giải quyết vụ án, vì nếu như vụ án sau khi được xét xử mà không
mang ra thi hành thì tính quyền uy, nghiêm khắc, trừng trị hay giáo dục của
pháp luật hình sự không còn nữa. Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng

22
trong quá trình tố tụng hình sự, nó hiện thực hóa bản án kết tội của Tòa án vào
trong thực tế và bản án chính là căn cứ để tiến hành hoạt động thi hành án
hình sự. Mục đích của thi hành án hình sự không chỉ trừng trị người phạm tội
mà còn cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, khi họ tái hòa
nhập với xã hội không tiếp tục phạm tội mới.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính
thức quyết định" [65, tr. 1497]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực
hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn thi hành án hình sự là
thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
trên thực tế [49, tr. 5]. Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính hành
chính - tư pháp hình sự vì nó có những đặc thù riêng khác với hoạt động tố
tụng hình sự [64, tr. 22]. Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính điều
hành và chấp hành theo đặc trưng của quản lý hành chính, phương pháp trong
quá trình thi hành án là phương pháp thuyết phục giáo dục và mệnh lệnh hành
chính, việc thi hành án có liên hệ với chính quyền địa phương, theo thủ tục
hành chính như trường hợp thi hành án treo, cải tạo không giam giữ thì người
chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ được giao về Ủy ban nhân dân
phường, xã nơi người chấp hành án cư trú để theo dõi, giám sát, giáo dục.
Nếu tất cả đều hướng đến một phán quyết đúng đắn của Tòa án thì thi hành án
hình sự lại nhằm mục đích thực hiện nội dung các phán quyết đó của Tòa án.
Nhưng thi hành án hình sự có mối quan hệ biện chứng giữa quá trình tố tụng
hình sự, không có tố tụng thì không có thi hành án và ngược lại không có thi

hành án thì tố tụng trở nên vô nghĩa [64 tr. 24-26].
Phạm vi của thi hành án hình sự bao gồm thi hành bản án, quyết định
về hình phạt tù, tử hình, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản
chế, trục xuất, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định, án treo, biện pháp tư pháp. Theo đó,
khoản 3, 5, 6 Điều 3 Luật thi hành án hình sự năm 2010 giải thích:

23
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ,
giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội. Thi hành án
treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật
này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo trong
thời gian thử thách. Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc
cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát,
giáo dục người chấp hành án tại xã, phường, thị trấn và khấu trừ thu
nhập sung quỹ nhà nước theo bản án đã có hiệu lực pháp luật [46].
Các bản án hoặc quyết định được thi hành bao gồm: bản án hoặc phần
bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm; bản án của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm của Tòa án; bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận
người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã
có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
tại Việt Nam cho nước ngoài; bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
Như vậy, qua sự phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm: thi hành
án hình sự là việc đưa ra thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật do cơ quan có thẩm quyền áp dụng nhằm hiện thực hóa
bản án của Tòa án, góp phần lập lại trật tự xã hội, công bằng, trừng trị đồng

thời cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng như phòng ngừa tội phạm.
1.2. KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "kiểm sát" có nghĩa là "kiểm tra và giám
sát". Theo Từ điển Luật học 2006 thì kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm

24
tra, xem xét theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và
giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [54]. Kiểm sát là hoạt
động mang tính quyền lực Nhà nước, đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong
quá trình hoạt động tư pháp của các chủ thể. Khi tiến hành kiểm sát, phát hiện
có vi phạm Viện kiểm sát nhân dân ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị kịp
thời để khắc phục vi phạm của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong việc
tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. Mục đích của việc kiểm sát tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự nhằm phát hiện nhanh chóng, kịp thời,
chính xác những vi phạm pháp luật trong công tác tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự, đảm bảo việc giam, giữ và thi hành án hình sự có căn cứ,
đúng pháp luật đồng thời kiến nghị, kháng nghị để khắc phục kịp thời cũng
như hạn chế những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự của cơ quan, đơn vị và những người có trách nhiệm trong
việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
Đối tượng của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự là việc tuân theo pháp luật của Tòa án, nhà tạm giữ, trại tạm giam; cơ
quan quản lý thi hành án hình sự; cơ quan thi hành án hình sự; cơ quan, tổ
chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự và người có trách nhiệm
trong việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là Trưởng nhà tạm giữ,
Giám thị trại tạm giam, Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án

hình sự và người khác có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam và thi hành
án hình sự theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam bảo đảm việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình
sự có căn cứ theo luật định, kịp thời phát hiện và xử lý những vi phạm trong
việc quản lý tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam.
Phạm vi của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam bắt đầu từ khi có
người bị tạm giữ, tạm giam. Phạm vi công tác kiểm sát thi hành án hình sự bắt

25
đầu từ khi có bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án hình sự. Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam kết thúc khi chấm
dứt việc tạm giữ, tạm giam. Công tác kiểm sát việc thi hành án hình sự kết thúc
khi chấm dứt việc thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật [63, Điều 3].
Hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự có thể tiến
hành thường kỳ và bất thường để đảm bảo cho việc phát hiện những vi phạm và
khắc phục kịp thời. Điều 26 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ,
tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, nhằm
bảo đảm: Việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ,
tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù được
chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm
của người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù và các
quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng [43].
Trên cơ sở những phân tích trên có thể rút ra khái niệm kiểm sát tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để kiểm sát hoạt động của
các đơn vị, tổ chức, người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự nhằm đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự

theo đúng quy định của pháp luật, chế độ tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự phải được chấp hành nghiêm chỉnh và đảm bảo tính mạng, tài sản,
danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án và
các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.
Công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự giữ vai trò
rất quan trọng. Qua công tác này, Viện kiểm sát nhân dân phát hiện kịp thời
những vi phạm của Nhà tạm giữ, trại tạm giam, người có trách nhiệm trong

×