Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 100 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN ĐĂNG DŨNG




BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
7
1.1.
Khái niệm

7
1.1.1.
Khái niệm biện pháp ngăn chặn
7
1.1.2.
Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
11
1.2.
Vị trí, vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
14
1.2.1.
Vị trí các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
14
1.2.2.
Vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
17
1.3.
Căn cứ, nội dung, điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
18
1.3.1.
Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
18
1.3.2.
Nội dung áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự

21
1.3.3.
Điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra hình sự
23
1.4.
Vấn đề bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
24
1.4.1.
Quyền con người được quy định trong Hiến pháp và các
văn bản pháp lý khác
24
1.4.2.
Bảo vệ quyền con người thông qua quy định của luật tố
tụng hình sự về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
26
1.5.
Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự trong một số mô hình tố tụng hình sự tiêu biểu
28
1.5.1.
Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Liên bang Nga
28
1.5.2.
Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Trung Quốc
30
1.5.3.

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Cộng hòa Liên bang Đức
33

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
36
2.1.
Quy định của pháp luật việt nam về biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
36
2.1.1.
Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trước năm 2003
36
2.1.2.
Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp ngăn
39


chặn theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
2.2.
Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
54
2.2.1.
Thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự

54
2.2.2.
Những khó khăn, vướng mắc và hạn chế trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
63

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ
72
3.1.
Cơ sở nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
72
3.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
74
3.2.1.
Hoàn thiện quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn
chặn
74
3.2.2.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong áp dụng biện pháp ngăn chặn
78
3.2.3.
Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm

trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn
80
3.2.4.
Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu
quan
84
3.2.5.
Các giải pháp khác
87

KẾT LUẬN
92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là một chế định quan trọng của
pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), là phương tiện cưỡng chế nhà nước có hiệu
quả nhất để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho việc giải quyết
vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mặt khác, nó còn là
phương tiện pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đối với
người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả
người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo, cũng như thân
nhân của họ.
Việc áp dụng các BPNC đối với người có hành vi phạm tội được xem

là một yếu tố quan trọng, thiết yếu của quá trình điều tra, bởi lẽ nó ảnh hưởng
trực tiếp đến sinh mệnh chính trị và các quyền cơ bản của công dân, liên quan
đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn điều tra hình sự nói chung, điều tra vụ án hình sự nói riêng
cho thấy, việc áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hết
sức phức tạp, nhạy cảm và còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, việc áp dụng các BPNC không chỉ là áp dụng pháp luật
đơn thuần mà còn phải cân nhắc tới nhiều yếu tố như pháp luật, chính trị,
nghiệp vụ, vấn đề quyền con người để cân nhắc tính toán, hạn chế đến mức
thấp nhất những sơ hở, thiếu sót.
Tuy nhiên, trong khoa học luật TTHS, chế định các BPNC vẫn chưa
được quan tâm, nghiên cứu một cách thỏa đáng đối với tầm quan trọng của nó
theo định hướng của Đảng về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
phòng ngừa và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng các BPNC thời
gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể, thu được những kinh nghiệm
nhất định, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế, tồn tại, vướng mắc về
mặt nhận thức, tổ chức thực hiện… cần phải được nghiên cứu giải quyết.
2

Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự" làm đề tài luận văn thạc sĩ nhằm đáp
ứng yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luôn được nhà nước,
cơ quan chức năng xác định vị trí quan trọng, cần được tập trung tiến hành. Vì
tính chất quan trọng của việc áp dụng các BPNC nên chúng trở thành trọng
tâm nghiên cứu không những của các nhà lý luận mà cả những cán bộ làm
công tác thực tiễn trong các ngành bảo vệ pháp luật ở trong và ngoài nước.
Các BPNC được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
của hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy, có nhiều tác giả ở nước ngoài đã

nghiên cứu nội dung các BPNC với phạm vi khác nhau. Riêng dưới góc độ
luật TTHS, các công trình nghiên cứu về các BPNC khá phong phú và đa
dạng ở nước ngoài, nhất là các nước như Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật Bản,
Đức. Việc tiếp cận, nghiên cứu các công trình về các BPNC dưới góc độ luật
TTHS cũng rất thuận lợi, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế và hợp tác
trên nhiều lĩnh vực như hiện nay. Đây là điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, so
sánh quy định về các BPNC trong BLTTHS Việt Nam với BLTTHS các
nước, trên cơ sở đó có sự tham khảo nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật Việt Nam cho hợp lý, hội nhập được với thế giới.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp luật TTHS,
cũng có các công trình nghiên cứu về việc áp dụng các BPNC trong điều tra
hình sự. Bởi lẽ việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn điều tra tội phạm để hình
thành lý luận về phương pháp, chiến thuật điều tra là một đòi hỏi bức thiết đối
với mọi quốc gia. Tuy nhiên, đến nay trên thế giới chưa có nhiều công trình
khoa học nào nghiên cứu về BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự một
cách cơ bản, hệ thống.
3

Ở trong nước, trên các góc độ, khía cạnh nghiên cứu khác nhau đã có
một số đề tài, công trình khoa học đề cập có liên quan đến đề tài. Cụ thể:
- Giáo trình: Các BPNC là một chế định rất quan trọng trong
BLTTHS, vì vậy đã có rất nhiều giáo trình, sách tham khảo nghiên cứu, đề
cập đến vấn đề này dưới góc độ luật TTHS như: giáo trình Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội; giáo trình Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; Các biện pháp ngăn
chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân,
năm 1995 của Tiến sĩ Nguyễn Vạn Nguyên; Những biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997 của Thạc sĩ
Nguyễn Mai Bộ; Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - những vấn

đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, năm 1999 của Tiến sĩ
Nguyễn Duy Thuân; Hệ thống biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của lực lượng cảnh
sát nhân dân, Nxb Công an nhân dân, năm 2001 của Tiến sĩ Trịnh Văn
Thanh; Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, Nxb Chính
trị quốc gia, năm 2005 của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp; sách chuyên khảo
"Chiến thuật điều tra hình sự", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 của
PGS.TS Nguyễn Huy Thuật
Các giáo trình và sách tham khảo nói trên đã tập trung nghiên cứu về
các BPNC dưới góc độ luật TTHS. Vì vậy, nó có ý nghĩa đối với việc nghiên
cứu đề tài ở khía cạnh cơ sở pháp lý.
- Luận án, luận văn, đề tài khoa học
+ Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành hình pháp học: "Áp dụng
biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát
nhân dân" của nghiên cứu sinh Trịnh Văn Thanh, hoàn thành năm 2000.
4

+ Luận án tiến sĩ luật học năm 2001, chuyên ngành luật Hình sự và
TTHS: "Điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện
nay ở Việt Nam" của nghiên cứu sinh Lê Minh Hùng.
+ Luận án tiến sĩ luật học năm 2005, chuyên ngành luật hình sự: "Các
biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Điệp.
+ Luận văn thạc sĩ năm 2006 "Tạm giam trong Tố tụng hình sự" của
Phạm Khắc Vực
Tuy nhiên, các công trình nói trên chủ yếu đề cập đến một số BPNC
cụ thể, hoặc nghiên cứu các BPNC trong các giai đoạn điều tra cụ thể. Đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, hệ thống về các
BPNC, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên

nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện và có hệ thống về các BPNC trong
giai đoạn điều tra hình sự ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về các BPNC và thực tiễn áp dụng các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp
có tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nhận thức cơ bản về các BPNC trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự (khái niệm, đặc điểm liên quan, cơ sở áp dụng ).
- Đánh giá đúng thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
5

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về áp dụng các BPNC trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2003 (thời điểm ban hành
BLTTHS năm 2003) đến nay.
- Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi toàn quốc, tập trung
chủ yếu ở các tỉnh, thành phố đã xảy ra nhiều án hình sự như: thành phố Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Nguyên, Quảng Ninh, Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách hình sự và đấu tranh
phòng chống tội phạm. Đồng thời, sử dụng một số phương pháp cụ thể sau:
Phương pháp khảo sát điển hình, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, Phương pháp chuyên gia
6. Những đóng góp mới của luận văn
* Về mặt lý luận
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học về
điều tra hình sự nói chung và các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
nói riêng.
* Về mặt thực tiễn
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về BPNC trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, xác lập cơ sở pháp lý, đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao
hiệu quả áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong thời
gian tới.
6

- Luận văn và các sản phẩm khoa học được tạo lập trong quá trình
nghiên cứu luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu chuyên ngành luật Hình sự và TTHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và thực trạng áp dụng.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.



7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, BLTTHS cho
phép cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có
các biện pháp cưỡng chế TTHS.
Các biện pháp cưỡng chế được hầu hết các giáo trình luật TTHS Việt
Nam chia ra làm ba nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, các BPNC, gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi
nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Nhóm thứ hai, các biện pháp thu thập chứng cứ, gồm: khám xét người,
chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; xem xét dấu vết trên thân thể; thu giữ thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm; tạm giữ đồ vật là vật chứng, tài liệu có liên
quan trực tiếp đến vụ án.
Nhóm thứ ba, các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án, gồm: kê biên tài sản; áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải
người làm chứng; tạm đình chỉ chức vụ của bị can; những biện pháp kỷ luật
người vi phạm trật tự phiên tòa.
Các BPNC thuộc nhóm thứ nhất, chiếm vị trí trung tâm và có vai trò
quan trọng, vì nó có khả năng ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, việc bỏ
trốn, tiêu hủy chứng cứ, ngăn ngừa phạm tội mới và bảo đảm cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm góp phần hạn chế tội phạm và các

8

vi phạm pháp luật khác. Mặt khác, việc áp dụng các BPNC làm hạn chế một
số quyền và tự do cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật và có
mức độ hạn chế nghiêm khắc hơn so với các biện pháp khác trong TTHS. Nếu
việc áp dụng các BPNC đối với người bị oan có thể gây ra hậu quả rất nghiêm
trọng không những đối với cá nhân người bị áp dụng mà cả gia đình họ, đồng
thời, làm mất uy tín của cả hệ thống cơ quan tư pháp, giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Các BPNC là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số
quyền và tự do cá nhân nên chúng được quan tâm không những từ phía các
nhà lập pháp mà cả những nhà nghiên cứu khoa học luật TTHS ở nước ngoài
cũng như ở trong nước.
Tuy vậy, BLTTHS năm 2003 vẫn chưa có quy phạm định nghĩa về
khái niệm BPNC.
Nghiên cứu pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới như: Liên
bang Nga, Nhật Bản, Cộng hòa Pháp, Thái Lan, Malayxia, Canada, Hàn
Quốc, v.v , cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về số lượng các
BPNC, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp đó.
Bộ luật TTHS Liên bang Nga có quy định về bảy biện pháp ngăn
chặn: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh của cá nhân, giám sát của đơn vị quân
đội, theo dõi người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, giam tại nhà, tạm giam (Mục 13 - Các
BPNC; chương IV - Các biện pháp cưỡng chế tố tụng), nhưng cũng không có
quy phạm định nghĩa về khái niệm BPNC [45]
Bộ luật TTHS Nhật Bản không sử dụng cụm từ "biện pháp ngăn
chặn", mà quy định trình tự, thủ tục bắt người tình nghi, giam giữ người bị
tình nghi, bắt khẩn cấp người bị tình nghi, bắt người phạm tội quả tang tại
Chương 1 - Điều tra và thẩm vấn, quyển II - Sơ thẩm [43].

9

Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức có sử dụng cụm từ BPNC tại
Mục 7 - Giám sát tư pháp và BPNC là giám sát tư pháp và tạm giam, nhưng
cũng không đưa ra khái niệm BPNC [46].
Các chuyên gia luật học của nước ngoài đã nêu ra những khái niệm
khác nhau về BPNC, phản ánh được khái quát những đối tượng nghiên cứu
mà chúng ta cần tham khảo, tiếp thu, như: quan niệm về bản chất pháp lý của
BPNC, sự cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa, quyền lựa chọn BPNC
trong TTHS.
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có nhiều khái niệm khác
nhau về BPNC, như:
- Từ điển Luật học giải thích BPNC là biện pháp cưỡng chế về mặt tố
tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa
bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn
hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn
tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án [27, tr.69]. Từ điển đã xác định đúng đối tượng và mục đích
áp dụng các BPNC, nhưng không chỉ ra chủ thể có quyền áp dụng chúng.
- Một số khái niệm khác về BPNC của các nhà khoa học nghiên cứu
pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm được công bố trong các giáo trình Luật TTHS Việt Nam, sách chuyên
khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái niệm đó đều dựa trên cơ sở
phân tích nội dung của các quy phạm pháp luật tại Điều 61 BLTTHS năm
1988 và Điều 79 BLTTHS năm 2003, cũng như thực tiễn áp dụng chúng trong
công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
- Điều 79 BLTTHS quy định những biện pháp ngăn chặn bao gồm:
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để đảm bảo. Đây là những biện pháp cưỡng chế cần thiết của TTHS nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế một phần các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp

ghi nhận [31].
10

Bởi vậy, biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng là bị
can, bị cáo hoặc những người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang do Bộ luật TTHS quy định.
Mục đích của việc áp dụng BPNC là để cho người phạm tội không có
điều kiện tiếp tục thực hiện tội phạm; chặn đứng hành động chống đối; không để
cho người phạm tội trốn tránh pháp luật, đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và chấp hành án hình sự được đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố
tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với những người
chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm
ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án.
Từ các nội dung trên có thể rút ra một số đặc điểm sau của các BPNC:
- Bản chất pháp lý: biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa.
- Căn cứ cụ thể áp dụng: những tài liệu nói lên khả năng cản trở việc xác
định sự thật của vụ án, khả năng trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử từ phía bị
can, bị cáo hoặc khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm của họ và chứng cứ khẳng
định một người đã thực hiện tội phạm, cũng như các điều kiện áp dụng đã được
luật hóa. Những tài liệu đó phải thể hiện trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ ra
quyết định áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC.
- Chủ thể có quyền áp dụng BPNC: người có quyền hạn được quy
định tại BLTTHS.
- Đối tượng bị áp dụng: người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố,
bị can, bị cáo.

- Mục đích áp dụng: ngăn chặn đối tượng nói trên phạm tội và bảo
đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
11

Từ sự phân tích ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm BPNC như sau: Biện
pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa do
người có quyền hạn được quy định trong Bộ luật TTHS áp dụng đối với bị can,
bị cáo, người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng
nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự.
Các BPNC trong Bộ luật TTHS được sử dụng hầu như đối với mọi vụ
án hình sự. Chúng có tác dụng ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc cản trở
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bảo đảm cho quá trình giải
quyết vụ án theo thời hạn đã quy định, nên có ý nghĩa rất to lớn trong công
cuộc phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm thông qua các khía cạnh, như:
Thứ nhất, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể
hiện sự chuyên chính của Nhà nước trong đấu tranh chống tội phạm bằng sức
mạnh cưỡng chế.
Thứ hai, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý
nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho cả quá trình xử lý vụ án.
Thứ ba, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn thể
hiện tính ưu việt của Nhà nước XHCN.
Thứ tư, những quy phạm pháp luật về các biện pháp ngăn chặn có ý
nghĩa to lớn trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do cá nhân được Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận.
1.1.2. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục
vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là
hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận
và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị,

chính sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội
phạm ở từng nước.
12

Trong khoa học pháp lý của Liên Xô trước đây và của Nga hiện nay
có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra. Đặc điểm chung của các
quan điểm đó đã nêu bật được nội dung bản chất của hoạt động điều tra là
hoạt động phát hiện, thu thập, củng cố, ghi nhận, thu giữ những thông tin của
vụ án. Điểm khác nhau là quan niệm về đối tượng mà hoạt động điều tra tác
động tới, thừa nhận điều tra viên là chủ thể của hoạt động điều tra [45].
Trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng tồn tại các quan điểm khác
nhau về hoạt động điều tra. Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng
điều tra là hoạt động của cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình sự. Quan
điểm này cho rằng điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai
đoạn điều tra và do một cơ quan điều tra thực hiện. Ví dụ: Trong cuốn Tìm
hiểu Luật Tố tụng hình sự, một nhóm tác giả cùng thống nhất giải thích rằng,
"Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều
tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động
điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án";
hoặc, "Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn
này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định để xác định tội phạm và người phạm tội". Từ điển Luật học giải thích
"điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ" [27].
Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ ràng giữa chức năng của cơ
quan điều tra với hoạt động điều tra, đồng nhất giai đoạn điều tra với hoạt
động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm mọi hoạt động tố tụng trong giai
đoạn điều tra; nhìn nhận về hoạt động điều tra mang tính cục bộ, phiến diện,
bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các
giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những
mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án.
13

Cách hiểu thứ hai coi hoạt động điều tra là hoạt động của cơ quan điều
tra, viện kiểm sát và tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Điểm khác biệt lớn nhất của quan điểm này so với quan điểm thứ nhất là đã
nhìn nhận chủ thể của hoạt động điều tra rộng hơn. Tuy nhiên, cách hiểu thứ
hai lại nhầm lẫn giữa các hoạt động của cơ quan điều tra với hoạt động điều
tra; giữa chức năng của từng hoạt động điều tra với chức năng của các cơ
quan điều tra và viện kiểm sát.
Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm
pháp lý về "hoạt động điều tra" và cũng chưa được giải thích chính thức bởi
các cơ quan có thẩm quyền. Trong tất cả các Bộ luật Tố tụng hình sự, chưa có
điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra.
Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp
luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực
hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa
học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống
nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm
điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều
tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều
tra với các hoạt động khác của cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể,
phạm vi thời gian của hoạt động điều tra [1].
Tóm lại, từ những nhận định trên ta có thể chỉ ra khái niệm của giai
đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quá trình áp dụng pháp luật nhằm
làm rõ sự thật khách quan toàn diện về vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều
tra, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động theo quy định của Bộ luật TTHS

để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định
vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng, chứng cứ xác định tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như chứng cứ xác định các tình tiết
khác của vụ án.
14

Bởi vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn cơ quan điều tra
áp dụng các hoạt động điều tra do Bộ luật TTHS quy định để thu thập chứng
cứ nhằm xác định tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho việc giải quyết
vụ án hình sự được đúng đắn.
Như vậy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cần thực hiện hai
nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất, nhanh chóng xác định tội phạm và người thực hiện hành
vi phạm tội. Sau khi đã khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải tập
trung vào việc phát hiện, thu thập chứng cứ để xác định trong vụ án đã khởi
tố có những hành vi phạm tội gì, thuộc vào điều khoản nào của BLHS; phải
xác định được tất cả các tội phạm, sao cho không một tội phạm nào không
bị phát hiện.
Thứ hai, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan và tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Hoạt động
của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự không chỉ
dừng lại ở việc đấu tranh chống các tội phạm đã được thực hiện mà còn có
trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, làm
sáng tỏ và khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI
ĐOẠN đIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Vị trí các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (bổ sung,

sửa đổi năm 2013) quy định:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
15

khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định [33].
Trong thực tế nhiều vụ án xảy ra nếu không áp dụng các BPNC bắt,
tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn rất lớn cho công tác
điều tra, truy tố và xét xử, cụ thể như người phạm tội có thể bỏ trốn khỏi nơi
cư trú sau khi gây án nhằm mục đích trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật;
người phạm tội sau khi gây án có thể có những hành động gây cản trở hoạt
động điều tra của các cơ quan THTT, dẫn đến hoạt động điều tra gặp nhiều
khó khăn hơn; nhiều bị can, bị cáo lại không có nơi cư trú rõ ràng, hoặc luôn
thay đổi chỗ ở, trong trường hợp này nếu không bắt, tạm giữ, tạm giam bị
can, bị cáo sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, mặc
dù phạm tội ít nghiêm trọng; người phạm tội sau khi gây án có thể tẩu tán tài
sản, tang vật do phạm tội mà có gây khó khăn cho công tác thu hồi lại tài sản
phạm tội, cũng như có những hành động nhằm che giấu tội phạm; người
phạm tội sau khi gây án xong nếu không bắt tạm giữ, giam sẽ có thời gian để
xóa dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, bịt đầu mối hay tìm cho mình những
chứng cứ ngoại phạm hòng trốn tránh tội; người phạm tội có thể tiếp tục
phạm tội mới nếu không áp dụng các BPNC ngay đối tượng phạm tội sẽ gây
nguy hiểm cho xã hội
Chính vì vậy, BLTTHS quy định về các BPNC là có ý nghĩa về mặt
lập pháp, thể hiện vị trí, vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc đấu
tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, đảm bảo hoạt động của các cơ quan

THTT được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước XHCN trong
việc đấu tranh chống tội phạm. Các BPNC được quy định trong BLTTHS còn
góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn, vững mạnh
của chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
16

của công dân. Bên cạnh đó, việc áp dụng tùy tiện các BPNC nhất là bắt, tạm
giữ, tạm giam oan người vô tội, bắt, tạm giữ, tạm giam sai thẩm quyền, tạm
giữ, tạm giam quá hạn… đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật.
Những hành vi vi phạm này không chỉ xâm phạm hoạt động đúng đắn của các
THTT, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể và sinh mạng chính trị
của công dân mà còn làm giảm uy tín của Nhà nước, giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với cơ quan thi hành pháp luật.
Việc quy định các BPNC trong BLTTHS còn đảm bảo sự dân chủ, tôn
trọng các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp như
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…, thể hiện
tính ưu việt của chế độ XHCN. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các biện
pháp này chính là sự đảm bảo sự chắc chắn cho kịp thời, chính xác kẻ phạm
tội, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội, ngăn chặn không
cho người phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc phạm tội mới; đồng thời bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nghiên cứu các BPNC, ngoài ý
nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa phục vụ việc nâng cao nhận thức của
nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự sự
cần thiết phải áp dụng các biện pháp này trong hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án. Sự nắm vững nội dung, phạm vi, quyền hạn, thủ tục của
những biện pháp này sẽ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng đúng
pháp luật, không vi phạm các quyền công dân, góp phần nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm; giúp công dân có cơ sở pháp lý tham gia
tích cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm; đồng thời tự bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa cung cấp luận cứ

khoa học cho việc hoàn thiện các chế định các BPNC và phục vụ cho các cơ
quan chức năng trong việc hướng dẫn các quy định về các biện pháp này một
cách thống nhất. Nghiên cứu các BPNC có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN nước ta hiện nay.
17

Qua phân tích như trên cho thấy vị trí quan trọng của các BPNC trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự, điều đó đảm bảo cho công tác điều tra, truy
tố và xét xử.
1.2.2. Vai trò của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Vai trò của các BPNC trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung
được quy định tại Điều 79, BLTTHS năm 2003:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can,
bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, CQĐT, VKS, Tòa án trong
phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy
định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những BPNC sau: bắt, tạm
giữ, tạm giam… [28].
Ở giai đoạn điều tra, việc áp dụng biện pháp bắt người nhằm kịp thời
ngăn chặn hành vi phạm tội; việc áp dụng biện pháp tạm giữ nhằm xác
định có căn cứ khởi tố bị can hay không đối với người bị bắt khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc để chuyển giao
người bị bắt theo lệnh truy nã cho CQĐT đã ra lệnh truy nã; việc bắt bị can,
bị cáo để tạm giam nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án và thời hạn áp dụng nó căn cứ vào bốn loại tính chất tội phạm đã
được quy định tại Điều 8 BLHS, còn việc áp dụng các biện pháp khác, như:
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
lại có mục đích bảo đảm sự có mặt của bị can khi CQĐT triệu tập theo các
điều 91, 92, 93 BLTTHS.

Bên cạnh đó, áp dụng các BPNC còn có ý nghĩa tạo điều kiện thuận
lợi cho cả quá trình xử lý vụ án. Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
18

vô tội mà Điều 1 BLTTHS đã xác định, thì cơ quan (người) THTT được sử
dụng các BPNC như là một phương tiện có hiệu quả nhất giải quyết tình hình
tội phạm xảy ra trong toàn quốc, trên địa bàn quản lý theo lãnh thổ.
Hiệu quả của chúng thể hiện ở việc: bảo đảm bí mật của vụ án, các đối
tượng không thể thông cung với nhau, xóa dấu vết, cất giấu công cụ, phương
tiện phạm tội hoặc đe dọa, trả thù, cưỡng ép hoặc mua chuộc người bị hại,
người làm chứng; tạo điều kiện thuận lợi cho thu thập chứng cứ mà không bị
cản trở từ phía bị can, bị cáo; bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án trong thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS.
1.3. CĂN CỨ, NỘI DUNG, ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.3.1. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Trên cơ sở Điều 79 BLTTHS, căn cứ áp dụng các BPNC bao gồm: để
kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như
khi cần bảo đảm thi hành án. Theo nội dung này, có bốn căn cứ chung để áp
dụng chúng là:
Thứ nhất, khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Các tội phạm
đã thực hiện đều gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan
hệ xã hội đã được xác định trong BLHS. Việc ngăn chặn tội phạm không cho
nó hoàn thành, gây ra hậu quả thực tế có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Vì
vậy, BLTTHS quy định các căn cứ kịp thời ngăn chặn tội phạm trong hai
trường hợp sau: a) Trường hợp bắt khẩn cấp: khi có căn cứ để cho rằng một

người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng theo điểm a khoản 1 Điều 81; b) Trường hợp bắt quả tang: khi người đó
đang thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm, thì bị phát hiện hoặc
bị đuổi bắt theo khoản 1 Điều 82.
19

Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đây là căn cứ dự báo được dựa trên những
tài liệu có các tình tiết và hành vi của bị can, bị cáo, như: a) Nơi cư trú của họ
không có hoặc không rõ ràng, sự vắng mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ
quan (người) THTT, đã di chuyển khỏi nơi cư trú…; b) Tính chất của tội
phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện thuộc vào loại tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng. Về tâm lý, mức hình phạt của các loại tội phạm này là rất
cao, nên người phạm tội luôn có tâm lý ám ảnh, sợ hãi, dẫn đến hành vi xóa
dấu vết, tiêu hủy tài liệu, đối phó với CQĐT và bỏ trốn…; c) Các hành vi của
họ được diễn ra sau khi tội phạm đã thực hiện, như: mua chuộc, đe dọa người
bị hại, người làm chứng, xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, thông đồng với nhau
khai báo sai sự thật…
Thứ ba, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Đây là căn cứ dự báo và có thể xác định trên hai tiêu chí, như: a) Về nhân
thân bị can, bị cáo là những đối tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo
là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu
manh, côn đồ, hung hãn… Bị can, bị cáo là những đối tượng phạm tội đã có
nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp; b) Về hành vi của bị can, bị cáo: đe dọa trả thù người tố giác, người bị
hại, người làm chứng; có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện cho việc phạm tội
và xét thấy khả năng thực hiện được những hành vi này.
Thứ tư, để bảo đảm thi hành án. Thi hành bản án và quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có
mặt của họ rất cần thiết để cho quyết định của Tòa án có hiệu lực trên thực tế.

Nếu người bị kết án bỏ trốn, thì việc truy cứu TNHS trở thành vô nghĩa. Cho
nên, BLTTHS năm 2003 có quy định năm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
để bảo đảm thi hành án, gồm: a) Trường hợp bị cáo không bị tạm giam,
nhưng bị phạt tù, thì họ chỉ bị bắt giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã
20

có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử (HĐXX) có thể ra quyết định bắt tạm
giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm
tội theo khoản 2 Điều 228; b) Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà đến
ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam
để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc
phiên tòa theo Điều 177; c) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà bị xử phạt tù
và đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, thì HĐXX quyết định
tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt
tù, nhưng cho hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời
hạn tạm giam được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 theo Điều 228;
d) Trường hợp bị cáo bị tạm giam mà bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc
phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để
hoàn thành việc xét xử, thì HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm
việc thi hành án, trừ trường hợp trả tự do vì bị phạt tù, nhưng cho hưởng án
treo hoặc thời hạn phạt tù ngắn hơn hoặc bằng thời hạn tạm giam được quy
định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 theo Điều 243; e) Trường hợp bị cáo bị
phạt tử hình, thì HĐXX quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo
để bảo đảm thi hành án theo Điều 228.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan THTT còn thay thế
các biện pháp: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hay tài sản có giá trị
để bảo đảm cho các hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù được thi hành trong
thực tế, khi có căn cứ sau: a) Thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, góp
phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả của tội phạm theo Điều 25 BLHS; b) Hoàn cảnh gia

đình, bản thân họ là người lao động chính duy nhất trong gia đình hoặc do
nhu cầu công vụ theo Điều 61 BLHS; c) Tình trạng sức khỏe, phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng
theo Điều 88 BLTTHS; d) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
21

vi phạm tội, nhân thân của bị can, bị cáo theo Điều 92 BLTTHS và tình trạng
tài sản theo Điều 93 BLTTHS.
Khi giải quyết vụ án hình sự, theo các căn cứ chung được nêu ở trên,
người THTT còn phải xem xét những căn cứ khác được quy định tại một BPNC
cụ thể trong BLTTHS để quyết định lựa chọn một BPNC nào đó phù hợp với
quy định về: tính chất của tội phạm, nhân thân đối tượng và điều kiện áp dụng.
Việc quyết định áp dụng đó phải "tiết kiệm", có nghĩa là chỉ cần áp dụng một
BPNC có mức độ ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam mà vẫn đạt được cả hai
mục đích của các BPNC đã được phân tích ở trên, đồng thời, Nhà nước không phải
tốn kém nhiều chi phí vật chất cho những thi hành việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
Điều 79 BLTTHS hiện hành có đề cập đến bốn căn cứ chung nói trên,
nhưng không chính xác về căn cứ và mục đích. Trong đó, có hai mục đích bị
hiểu nhầm thành căn cứ là: a) Khi cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm; b)
Để bảo đảm thi hành án.
Như vậy, căn cứ áp dụng các BPNC là những tài liệu, chứng cứ mang
tính dự báo về khả năng bị can, bị cáo thực hiện các hành vi cản trở điều tra,
truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở thi hành án. Khi áp dụng BPNC
phải dựa vào một trong những căn cứ vừa nêu trên chứ không phải bất kỳ
trường hợp nào bị can, bị cáo cũng đều bị áp dụng BPNC. Việc có hay không
áp dụng BPNC và áp dụng BPNC nào tùy thuộc vào tính chất mức độ của
hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của bị can, bị cáo và điều kiện, khả
năng quản lý họ của các cơ quan THTT.
Đối với từng BPNC, luật TTHS còn quy định những căn cứ cụ thể cho
từng biện pháp, tránh sự áp dụng tràn lan không có căn cứ.

1.3.2. Nội dung áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, giai đoạn điều tra vụ
án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các
22

biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và
người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng
thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp
khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt
đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành TTHS có thẩm quyền ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của
CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án
hình sự tương ứng.
Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động
tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi
hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng
thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc
không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS, tránh
bỏ lọt tội phạm;
Mặt khác, điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực
khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua
quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do
vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn TTHS (như: Truy tố của VKS hoặc
xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan
những người vô tội);
Và cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS cơ bản và
quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân

trong các giai đoạn trước khi khởi tố của VKS và xét xử của Tòa án, cùng với
các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong toàn xã hội.

×