Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 128 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN KIM THOA





HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2014




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN KIM THOA




HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan



HÀ NỘI - 2014



3




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn Kim Thoa






4
MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các biểu đồ


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH
KẾT HÔN
7
1.1.
Khái niệm chung về chế định kết hôn
7
1.1.1.
Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn

7
1.1.2.
Kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật
10
1.1.3.
Chế định kết hôn
12
1.2.
Cơ sở quy định chế định kết hôn
14
1.2.1.
Kinh tế - xã hội
14
1.2.2.
Văn hóa truyền thống, phong tục tập quán
16
1.2.3.
Hội nhập quốc tế
19
1.2.4.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ
20
1.3.
Ý nghĩa của chế định kết hôn
21
1.4.
Khái quát chế định kết hôn theo pháp luật Việt Nam
22
1.4.1.
Chế định kết hôn trong pháp luật phong kiến Việt Nam

22
1.4.2.
Chế định kết hôn trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc
26
1.4.3.
Chế định kết hôn trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay
29

Chương 2: CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH NĂM 2000
38
2.1.
Điều kiện kết hôn
38
2.1.1.
Về độ tuổi kết hôn
38

5
2.1.2.
Sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn
41
2.1.3.
Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
43
2.2.
Đăng ký kết hôn và việc chung sống như vợ chồng không
đăng ký kết hôn
53
2.2.1.

Thẩm quyền và thủ tục đăng ký kết hôn
54
2.2.2.
Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
57
2.3.
Hủy kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000
61
2.3.1.
Nguyên tắc xử lý đối với việc kết hôn trái pháp luật
61
2.3.2.
Căn cứ hủy kết hôn trái pháp luật
62
2.3.3.
Quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật
67
2.3.4.
Đường lối giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật
68
2.3.5.
Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
74

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
KẾT HÔN
76
3.1.

Những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thực hiện chế định
kết hôn
76
3.1.1.
Thực tiễn thực hiện điều kiện kết hôn
76
3.1.2.
Thực tiễn thực hiện việc đăng ký kết hôn
91
3.1.3.
Áp dụng pháp luật xử hủy việc kết hôn trái pháp luật
98
3.2.
Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện chế định kết hôn
trong pháp luật hôn nhân và gia đình
100
3.2.1.
Hoàn thiện quy định về điều kiện kết hôn trong pháp luật hôn
nhân và gia đình
101
3.3.2.
Kiến nghị về tổ chức thực hiện
111

KẾT LUẬN
114

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
116



6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
UBND
: Ủy ban nhân dân


7



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
3.1
Tỷ lệ chưa đăng ký kết hôn theo dân tộc của các cặp vợ
chồng từ 18-60 tuổi
92








8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Không phải ngẫu nhiên năm 1994 được Liên hợp quốc chọn là năm
quốc tế gia đình với chủ đề "Gia đình trong thế giới biến đổi". Điều đó thể
hiện sự quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới về vấn đề gia đình. Họ
nhận thấy rằng khủng hoảng về gia đình cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến khủng hoảng về xã hội. Không ai có thể phủ nhận được vị trí
quan trọng của gia đình đối với mỗi người, đối với xã hội. Bởi vì gia đình là
cái nôi nuôi dưỡng cho những thế hệ tương lai của đất nước. Gia đình là tế
bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Các công ước quốc tế đều thừa nhận tầm quan trọng của gia đình đối
với xã hội, nền tảng gia đình có tốt đẹp vững chắc thì xã hội mới văn minh
tiến bộ. Việt Nam cũng vậy, Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định: "Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình…". Để cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành Luật Hôn nhân và gia
đình (HN&GĐ) năm 2000 bao gồm nhiều chế định nhằm điều chỉnh các quan
hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
Kết hôn là một chế định quan trọng của Luật HN&GĐ năm 2000. Kết
hôn là cơ sở hình thành gia đình, tế bào của xã hội. Pháp luật đã quy định điều
kiện kết hôn, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, trình tự kết hôn và
đang từng bước hoàn chỉnh hơn nữa về chế định này. Thực tiễn hơn 13 năm

áp dụng chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 đạt được nhiều thành
tựu: việc thực hiện quy định về điều kiện kết hôn đã hạn chế việc kết hôn trái
pháp luật hoặc chung sống như vợ, chồng khi đang có vợ, có chồng; nguyên
tắc tự nguyện đã khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ, đảm bảo sự xây
dựng gia đình bền vững và hạnh phúc… Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ
năm 2000 là cơ sở pháp lý xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, là tế
bào lành mạnh của xã hội.

9
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 đã cho thấy
một số quy định về chế định kết hôn đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không
còn phù hợp trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay. Quy định về
độ tuổi kết hôn chưa thống nhất với các văn bản trong hệ thống pháp luật của
nhà nước ta. Các quy định về giải quyết hậu quả phát sinh từ việc chung sống
như vợ chồng không có đăng ký kết hôn chưa được ghi nhận trong Luật
HN&GĐ năm 2000 và chưa đảm bảo tính đồng bộ. Việc công nhận hay
không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính đang là hiện
tượng xã hội nhạy cảm và thời sự cũng cần nghiên cứu nghiêm túc trên nhiều
khía cạnh xã hội và pháp lý. Đường lối hủy kết hôn trái pháp luật còn chưa
thống nhất khiến Tòa án các cấp khi giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật vẫn
còn gặp khó khăn.
Yêu cầu tất yếu đặt ra là phải hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp
luật điều chỉnh chế định kết hôn nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân; cụ thể hóa
Hiến pháp, Chiến lược của Chính phủ về phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030 về xây dựng và phát triển gia đình; đảm bảo tính đồng bộ,
ổn định trong hệ thống pháp luật, vừa đáp ứng được các yêu cầu khách quan
của thực tiễn, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở kế thừa và phát huy
các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện chế định
kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" là cần thiết,

đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định kết hôn là một chế định có vị trí, vai trò quan trọng trong
Luật HN&GĐ năm 2000. Vì vậy, từ trước đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về toàn bộ nội dung chế định kết hôn hoặc một nội dung của chế
định này. Có thể chia các công trình nghiên cứu về chế định kết hôn trong
Luật HN&GĐ năm 2000 thành ba nhóm lớn:

10
- Nhóm luận văn: Ở nhóm này có thể liệt kê một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu như: "Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000", Luận văn thạc sĩ Luật học của Khuất Thị Thu Hạnh, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008; "Những khía cạnh pháp lý của chung sống như
vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của
Hoàng Hạnh Nguyên, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huyền Trang, 2012 Hầu
hết các luận văn nghiên cứu một nội dung riêng lẻ nào đó của chế định kết
hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000. Chỉ có duy nhất một luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về chế định này, tuy nhiên cũng đã khá lâu và không đặt trong bối
cảnh sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000.
- Nhóm giáo trình, sách: Trong nhóm này phải kể đến Giáo trình Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2009. Về sách, có thể kể tới một số sách chuyên sâu
như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 của hai tác giả Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình của tác giả
Nguyễn Ngọc Điện, tập 1, tập 2, Nxb Trẻ, 2002. Ngoài ra, còn rất nhiều sách
nghiên cứu chuyên sâu khác nhưng cũng chưa có công trình nào nghiên cứu riêng,
đầy đủ và toàn diện về lý luận cũng như đánh giá những mặt tích cực, hạn chế,

những bất cập cần sửa đổi của chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ 2000.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu
thuộc nhóm này được đề cập trên một số tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp
chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp. Trong đó có thể kể đến bài viết của TS. Nguyễn Văn
Cừ: "Hoàn thiện quy định về điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2013; TS. Ngô Thị Hường

11
"Mấy vấn đề về quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính", Tạp
chí Luật học, số 06/2001; ThS. Bùi Thị Mừng "Chế định kết hôn trong pháp
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam qua các thời kì dưới góc nhìn lập pháp",
Tạp chí Luật học, số 11/2012… Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các
báo điện tử.
Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu đã nhìn nhận, giải quyết vấn
đề kết hôn ở một nội dung, góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về việc hoàn thiện chế
định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000 đặt trong bối cảnh sửa đổi Luật
HN&GĐ năm 2000. Nhận diện được vấn đề này, luận văn đề cập đến việc
nghiên cứu vấn đề lý luận về kết hôn, điều kiện kết hôn, kết hôn trái pháp
luật, cơ sở quy định và ý nghĩa của chế định kết hôn cũng như đánh giá những
mặt tích cực, hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng chế định kết hôn để từ
đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này cho phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội hiện nay, khi có nhiều yếu tố tác động, chi phối đến việc
kết hôn của các bên nam - nữ. Do đó, công trình sẽ không phải là sự lặp lại
của bất kỳ công trình nào trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về chế định kết hôn; nghiên cứu,
phân tích nội dung, ý nghĩa chế định kết hôn và đánh giá việc áp dụng chế định

kết hôn trong thực tiễn, đồng thời phát hiện những bất cập, hạn chế của chế
định kết hôn, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện
chế định này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về chế định kết hôn, tìm
hiểu sự phát triển của chế định kết hôn qua các thời kỳ lịch sử.

12
- Phân tích các quy định của pháp luật về chế định kết hôn như điều
kiện kết hôn, đăng ký kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật.
- Đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật về chế định kết
hôn trong thực tiễn, làm rõ những điểm chưa hợp lý, còn bất cập, chưa có tính
khả thi cũng như chỉ ra những điểm chưa tương đồng với các văn bản pháp
luật khác có liên quan điều chỉnh về chế định kết hôn (về độ tuổi kết hôn, kết
hôn đồng giới, hủy kết hôn trái pháp luật, ).
- Chỉ ra những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung chế định kết hôn trong
Luật HN&GĐ từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về chế định này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về chế
định kết hôn, các quy định của pháp luật về chế định kết hôn cũng như các
văn bản pháp luật khác có liên quan và thực tiễn áp dụng chế định kết hôn qua
các vụ, việc cụ thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định kết hôn theo
Luật HN&GĐ năm 2000 (từ Điều 9 đến Điều 17) mà không bao gồm vấn đề
kết hôn có yếu tố nước ngoài và có liên hệ với Luật HN&GĐ năm 2014.
Đồng thời, đề tài nghiên cứu một số vụ việc thực tế trong thực tiễn áp dụng

các điều kiện kết hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật khi Luật HN&GĐ
năm 2000 có hiệu lực. Trên cơ sở đó, luận văn đánh giá việc áp dụng các quy
định của chế định kết hôn trong thực tiễn, phát hiện những bất cập cần sửa đổi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh
về gia đình, về quyền con người trong lĩnh vực HN&GĐ.

13
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy
nạp v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu phân tích một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống về những vấn đề lý luận về chế định kết hôn;
những quy định của pháp luật hiện hành và đánh giá việc áp dụng các quy
định này trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những điểm còn hạn
chế, bất cập trong quy định của pháp luật điều chỉnh chế định kết hôn. Trong
quá trình viết tác giả đã đề xuất một số nội dung nhằm hoàn thiện chế định kết
hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000, có sự so sánh với các quy định của chế
định này theo Luật HN&GĐ sửa đổi năm 2014, do đó đảm bảo tính thời sự,
khoa học của vấn đề nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chế định kết hôn.
Chương 2: Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện chế định kết hôn và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện chế định kết hôn.


14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
1.1.1. Khái niệm kết hôn và điều kiện kết hôn
* Khái niệm kết hôn
Khái niệm kết hôn có thể hiểu dưới hai góc độ:
- Dưới góc độ xã hội, kết hôn là một sự kiện thực tế, là việc nam nữ
lấy nhau thành vợ thành chồng theo những nghi thức nhất định, thường bị
chi phối bởi phong tục, tập quán, đạo đức, tư tưởng, tôn giáo của xã hội
đương thời. Quan hệ hôn nhân gia đình là một hình thức của quan hệ xã hội
được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này tồn tại và phát triển
theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của
xã hội loài người. Ngay cả khi không có bất kỳ một quy tắc, một quy định
nào thì quan hệ hôn nhân gia đình từ trước đến nay vẫn được xác lập, con
người vẫn chung sống, vẫn sinh con đẻ cái và tiếp nối từ thế hệ này qua thế
hệ khác. Do đó, quyền kết hôn là một quyền tự nhiên, quyền con người. Tuy
nhiên, trải qua các giai đoạn lịch sử, với sự xuất hiện của các hình thái kinh
tế xã hội khác nhau, những quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
dần dần xuất hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội. Kết hôn không còn
là một quyền tự do, bản năng của con người mà trở thành một quan hệ xã hội
bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước luôn sử dụng pháp luật
để điều chỉnh các mặt của quan hệ HN&GĐ. Sự điều chỉnh này ở mỗi Nhà
nước, mỗi chế độ là khác nhau. Nó có thể là sự quy định rõ ràng bằng quy
phạm pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán. Nhà nước kiểm soát quyền tự
do kết hôn của công dân bằng cách đặt ra các quy định làm cơ sở cho việc xác
lập quan hệ vợ chồng được thể hiện qua các quy định về kết hôn và điều kiện
kết hôn.


15
- Dưới góc độ pháp lý, Luật HN&GĐ năm 1986 đưa ra định nghĩa như
sau: "Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo quy định của pháp
luật. Việc kết hôn phải thuận theo các Điều 5, 6, 7, 8 của Luật Hôn nhân và
gia đình" [40]. Luật HN&GĐ năm 2000 định nghĩa: "Kết hôn là việc nam và
nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn" [42, Khoản 2, Điều 8]. Vậy có thể hiểu kết hôn là một sự
kiện pháp lý, bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, sự thể hiện ý chí tự nguyện của các bên nam nữ mong muốn
được kết hôn với nhau. Trong giấy khai xin đăng ký kết hôn và trước cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ thể hiện rằng họ
hoàn toàn tự nguyện và mong muốn được kết hôn, sự thể hiện đó phải hoàn
toàn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của hai người. Nam, nữ kết hôn là
mong muốn được gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng và cùng nhau xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Vì vậy, ý chí
tự nguyện của nam, nữ trong việc kết hôn là điều kiện đảm bảo cho hôn nhân
có giá trị pháp lý đồng thời là cơ sở xây dựng gia đình bền vững.
Thứ hai, các bên nam nữ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn.
Theo Từ điển Luật học thì điều kiện kết hôn là quy định của pháp luật mà khi
kết hôn các bên nam, nữ cần phải có hoặc không có điều kiện đó mới có
quyền được kết hôn. Khi hai bên nam nữ đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi, về
sự tự nguyện và không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn thì có
quyền kết hôn với nhau. Việc quy định các điều kiện kết hôn là cần thiết, đảm
bảo trật tự trong gia đình, xã hội; giữ gìn thuần phong mỹ tục, đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam; đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ hôn nhân.
Thứ ba, có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ
quan đăng ký kết hôn xem xét yêu cầu đăng ký kết hôn của nam nữ, nếu các
bên có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tiến hành đăng ký


16
việc kết hôn, ghi vào Sổ kết hôn và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho nam,
nữ. Thông qua sự kiện đăng ký kết hôn, Nhà nước đã công nhận hôn nhân của
đôi nam nữ. Giấy chứng nhận kết hôn là cơ sở pháp lý ghi nhận rằng hai bên
nam, nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng để từ đó Nhà nước có biện
pháp bảo hộ quyền lợi cho vợ, chồng, đặc biệt là quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em. Về mặt quản lý nhà nước thì đăng ký kết hôn là biện pháp để Nhà nước
kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong việc kết hôn và ngăn chặn các hiện
tượng vi phạm các điều kiện kết hôn.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, kết hôn là một sự kiện pháp lý bao gồm
các yếu tố cấu thành mà nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì việc kết hôn
không có hiệu lực, không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm kết hôn như sau:
Kết hôn là một sự kiện pháp lý, thể hiện nam nữ lấy nhau thành vợ chồng trên
cơ sở các bên đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn do pháp luật quy định và
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo trình tự, thủ tục nhất
định làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ.
* Khái niệm điều kiện kết hôn
Việc kết hôn luôn gắn liền với các điều kiện kết hôn, "không ai bị buộc
phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người
đó kết hôn hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái
lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân" [61, tr. 90].
Điều kiện kết hôn là những yêu cầu, tiêu chuẩn, chuẩn mực đặt ra đối
với các bên nam nữ khi xác lập quan hệ hôn nhân. Trong xã hội chưa có giai
cấp, các điều kiện kết hôn bị chi phối bởi các quy phạm xã hội như đạo đức,
phong tục tập quán, tôn giáo, truyền thống, văn hóa của xã hội đương thời.
Khi Nhà nước xuất hiện, Nhà nước sử dụng pháp luật để quy định các điều
kiện kết hôn đòi hỏi các bên phải đáp ứng. Những quy định này thể hiện mục
đích của giai cấp thống trị nhằm xây dựng mô hình gia đình phù hợp với lợi


17
ích của giai cấp mình. Điều kiện kết hôn phản ánh điều kiện kinh tế xã hội, sự
phát triển khoa học kỹ thuật, văn hóa truyền thống, phong tục tập quán của xã
hội đương thời và ý chí của giai cấp thống trị thông qua mô hình gia đình. Do
đó, ở mỗi một thời kì, một quốc gia có những điều kiện kết hôn khác nhau.
Nhưng dù thời kỳ nào thì những điều kiện kết hôn đó đều đặt ra đối với các
bên khi muốn xác lập quan hệ vợ chồng. Khi đáp ứng các điều kiện kết hôn
thì họ sẽ trở thành chủ thể của việc kết hôn. Có nhiều quy phạm xã hội như
đạo đức, phong tục tập quán điều chỉnh điều kiện kết hôn, tuy nhiên chỉ có
quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra là có tính bắt buộc, áp dụng chung
cho tất cả mọi người.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Điều kiện kết hôn là yêu cầu
pháp lý được thể hiện thông qua quy phạm pháp luật, đặt ra đối với các bên
nam nữ buộc họ phải đáp ứng, trên cơ sở đó việc kết hôn của họ mới được
công nhận là hợp pháp.
1.1.2. Kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật
* Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Việc kết hôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong mỗi thời kỳ
nhằm đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị, phù hợp với mục đích xây dựng
gia đình mà giai cấp thống trị nhằm đạt được. Vì vậy, từ góc độ lý luận, để
tìm hiểu quy định về kết hôn, kết hôn trái pháp luật thì cần xem xét trong sự
tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của mỗi thời kỳ.
Thông qua Nhà nước, bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác động vào các
quan hệ HN&GĐ làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù
hợp với lợi ích của giai cấp đó. Trong bất cứ xã hội nào việc vi phạm các
điều kiện kết hôn cũng gây ra những bất lợi cho các bên (người kết hôn, gia
đình, Nhà nước và xã hội), vì vậy pháp luật luôn quy định việc xử lý các
trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn.

18

"Kết hôn trái pháp luật chính là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký
kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định" [42, Điều 8].
Theo định nghĩa này thì việc kết hôn bị coi là trái pháp luật khi có điều kiện
cần là việc đăng ký kết hôn đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và điều
kiện đủ là một trong hai bên vi phạm một trong những điều kiện kết hôn do
pháp luật quy định. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì không được coi
là kết hôn trái pháp luật. Ví dụ hai trường hợp sau sẽ không được coi là kết
hôn trái pháp luật: trường hợp hai bên nam nữ không đăng ký kết hôn và một
trong hai bên nam nữ vi phạm một trong những điều kiện kết hôn hoặc trường
hợp việc đăng ký kết hôn không đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và các
bên không vi phạm điều kiện kết hôn.
Như vậy, có thể hiểu: Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ
vợ chồng trong đó thực hiện đầy đủ nghi thức kết hôn và thẩm quyền đăng ký
kết hôn theo đúng quy định pháp luật nhưng có sự vi phạm một trong những
điều kiện kết hôn của một trong hai bên nam nữ kết hôn.
* Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật
Xét dưới góc độ pháp lý, hành vi kết hôn trái pháp luật xâm phạm đến
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản
lý của các cơ quan nhà nước. Những cuộc hôn nhân không hợp pháp, kết hôn
không có đăng ký kết hôn khiến cho các cơ quan nhà nước khó có thể nắm bắt
và quản lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, khai sinh hay giải quyết những
tranh chấp khác. Bên cạnh đó, việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng xấu tới
nhiều mặt của đời sống xã hội như vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, nhân
cách, lối sống của gia đình Việt Nam, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình,
ảnh hưởng đến sức khỏe và việc duy trì nòi giống của dân tộc. Do đó, Nhà
nước ta đã thể hiện thái độ nghiêm khắc thông qua hủy kết hôn trái pháp luật.
Về bản chất pháp lý thì hủy kết hôn trái pháp luật là một chế tài vì nó
thể hiện ý chí của Nhà nước, buộc các bên kết hôn phải tuân theo mà không

19

phụ thuộc ý chí của họ và hủy kết hôn trái pháp luật đưa lại sự bất lợi cho các
bên. Hủy kết hôn trái pháp luật đồng nghĩa với việc không công nhận việc kết
hôn có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai bên
nam nữ kể từ thời điểm kết hôn. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì
buộc phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng giữa hai bên Như vậy, hủy kết
hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài của Nhà nước thể hiện sự không công
nhận của Nhà nước giữa hai bên nam nữ có quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm
đăng ký kết hôn.
1.1.3. Chế định kết hôn
Hệ thống pháp luật Việt Nam phân chia thành các ngành luật điều
chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Mỗi ngành luật được tập hợp bởi
nhiều chế định khác nhau, mỗi chế định bao gồm nhiều quy phạm pháp luật
giống nhau điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội cùng loại.
Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm
chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng [62].
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học, chế định pháp luật là tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội giống nhau trong
phạm vi một ngành luật. Theo đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì chế định pháp
luật được coi là các yếu tố cấu thành hệ thống pháp luật. Còn hiểu theo nghĩa
hẹp thì chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề
pháp lý.
Luật HN&GĐ là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được
tạo thành bởi nhiều chế định pháp luật khác nhau như chế định kết hôn, chế
định quan hệ giữa vợ và chồng, chế định ly hôn…Các chế định đều điều
chỉnh chung cho nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ, là sự tổng
hợp của nhiều quy phạm pháp luật HN&GĐ. Như vậy, chế định kết hôn là
tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến kết hôn bao gồm: điều kiện kết hôn, thẩm quyền, thủ tục đăng ký

20

kết hôn, các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và vấn đề xử lý vi phạm
điều kiện kết hôn.
Chế định kết hôn là hệ thống các quy phạm pháp luật về kết hôn. Các
quy phạm pháp luật của chế định kết hôn có đặc điểm là:
- Các quy phạm điều chỉnh về kết hôn là những quy tắc xử sự chung.
Có nghĩa là những quy tắc này không phải dành cho một cá nhân đơn lẻ nào
mà phải dành cho mọi cá nhân tham gia vào việc kết hôn. Các cá nhân khi
tham gia vào quan hệ này sẽ có những quyền, nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nhà
nước bảo đảm cho những quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện bằng quyền
lực của Nhà nước.
- Chế định kết hôn điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội tương đối
giống nhau liên quan đến việc kết hôn như điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn,
các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn và xử lý đối với những trường hợp
vi phạm đó. Chế định kết hôn mang tính chất nhóm, tuy có những đặc điểm
riêng nhưng đều có mối liên hệ nội tại, thống nhất và chịu sự ảnh hưởng, tác
động của chế định khác trong Luật HN&GĐ. Chế định kết hôn phải tuân theo
các quy luật vận động khách quan và chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế,
văn hóa, xã hội.
- Chế định kết hôn thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc xác lập và
xây dựng gia đình phù hợp với lợi ích của Nhà nước.
Kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng, nền tảng cơ bản quan trọng
để tạo dựng gia đình. Vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, vấn đề kết hôn cũng được
coi trọng. Khi nhà nước xuất hiện, các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng
pháp luật, vấn đề kết hôn được pháp luật điều chỉnh và trở thành những quy
tắc xử sự chung, buộc mọi người phải tuân thủ. Nhờ đó, quyền và nghĩa vụ
của người kết hôn được pháp luật bảo vệ, trật tự gia đình được gìn giữ, tạo
tiền đề vững chắc để xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ.

21
1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN

Nhiệm vụ quan trọng nhất của pháp luật là điều chỉnh, định hướng các
quan hệ xã hội theo lợi ích và trật tự chung mà Nhà nước đã đặt ra. Vì vậy,
Luật HN&GĐ, với tư cách là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình là cơ sở pháp lý vững chắc
góp phần xây dựng, duy trì, phát triển và bảo vệ chế độ HN&GĐ tiến bộ phù
hợp với điều kiện và bản chất của xã hội Việt Nam. Chế định kết hôn là một
chế định rất quan trọng của Luật HN&GĐ Việt Nam. Chế định này được quy
định trên cơ sở các yếu tố sau:
1.2.1. Kinh tế - xã hội
Pháp luật là thượng tầng kiến trúc luôn bị chi phối bởi hạ tầng cơ sở.
Nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định, chế độ
kinh tế là cơ sở của pháp luật. Kinh tế, xã hội mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch
sử chi phối đến việc xây dựng pháp luật, trong đó có chế định kết hôn. Chế
định kết hôn cũng biến đổi theo sự biến đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội.
Ở nước ta dưới chế độ phong kiến, thực dân trước năm 1945, kinh tế
Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân ta phải sống trong
cảnh nô lệ và đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90% dân số mù chữ. Giai
cấp phong kiến quan niệm hôn nhân là một loại quan hệ xuất phát từ quyền
lợi gia đình, dòng họ. Mục đích của hôn nhân là nhằm duy trì sự giao kết giữa
hai dòng họ, nhằm thờ phụng tổ tiên và kế tục dòng dõi tông tộc. Vì vậy, các
quy định về kết hôn thời kì này thể hiện rõ sự trọng nam khinh nữ, bảo vệ chế
độ gia trưởng của người đàn ông. Các quy định kết hôn theo sự sắp đặt của
cha mẹ hay quan niệm "gái chính chuyên chỉ có một chồng" còn đàn ông
được phép lấy nhiều vợ thể hiện rõ sự bất bình đẳng nam - nữ nhưng phản
ánh đúng thực trạng kinh tế, xã hội thời bấy giờ. Sở dĩ còn tồn tại những hạn
chế đó là do tiếp thu triết lý nho giáo từ Trung Quốc với tư tưởng gia đình gia
trưởng. Bên cạnh những hạn chế nhất định, các quy định về kết hôn của pháp

22
luật Việt Nam vẫn có những đóng góp nhất định nhằm củng cố trật tự gia đình

phong kiến.
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để
phù hợp với nhiệm vụ kinh tế, chính trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Luật HN&GĐ năm 1959 đã ra đời, đây là luật HN&GĐ đầu tiên của nước ta,
một trong những đạo luật được ban hành sớm nhất và là công cụ pháp lý để
Nhà nước ta xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ
HN&GĐ kiểu mới, dân chủ và tiến bộ. Bắt đầu từ những năm cuối thập kỷ 80,
nền kinh tế của đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới với cơ chế
kinh tế hàng hóa thị trường thay cho cơ chế kinh tế kế hoạch hóa bao cấp. Sự
thay đổi này tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ
HN&GĐ cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng, đòi hỏi phải có sự thay đổi
thích hợp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Luật HN&GĐ năm
1986 ra đời vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, kế thừa những nguyên
tắc dân chủ, tiến bộ của chế độ HN&GĐ trong Luật HN&GĐ năm 1959 và
những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, góp phần xóa bỏ những
tập tục lạc hậu, tàn dư của chế độ HN&GĐ tư sản, phong kiến.
Sau gần 14 năm thi hành Luật HN&GĐ năm 1986, văn bản này cũng
đã bộc lộ những điểm không còn phù hợp. Luật HN&GĐ năm 1986 được ban
hành trong thời kì đầu đổi mới chưa có điều kiện thể chế hóa đường lối đổi
mới của Đảng trong Hiến pháp năm 1992 nên nhiều quy định của Luật chưa
phù hợp với sự vận động của các quan hệ HN&GĐ trong cơ chế kinh tế thị
trường và sự giao lưu kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời, đã có những sửa đổi, bổ sung
đáng kể. Như quy định: cấm người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ tại Khoản 2 Điều 4
Luật HN&GĐ năm 2000 là rất cụ thể so với Luật HN&GĐ năm 1986; bổ
sung quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính

23
Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội.

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thì chất lượng cuộc sống
của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt tại các đô thị đã được cải thiện một cách
đáng kể so với thời điểm ban hành Luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó, thực
trạng về thể chất cũng như về tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên hiện nay phát
triển rất sớm, điều này là một trong những cơ sở để quy định về độ tuổi kết
hôn. Sự phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến một bộ phận giới trẻ, tình
trạng chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn xảy ra phổ biến, phát
sinh nhiều tranh chấp về tài sản, con cái. Vì vậy, Luật HN&GĐ cần bổ sung
những quy định mới điều chỉnh hậu quả pháp lý phát sinh từ các quan hệ này.
1.2.2. Văn hóa truyền thống, phong tục tập quán
Quan hệ HN&GĐ, đặc biệt là việc lấy vợ lấy chồng chịu ảnh hưởng
sâu sắc của văn hóa, phong tục tập quán. Vì vậy, các quy định về điều kiện
kết hôn, công nhận việc kết hôn không đăng ký hay xử lý kết hôn vi phạm
điều kiện kết hôn đều ít nhiều chịu sự chi phối của văn hóa, phong tục tập
quán. Trong xã hội phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ, bổn phận tam
tòng của người phụ nữ chi phối các quy định về điều kiện kết hôn như: kết
hôn phải có sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng hay người đàn ông được phép lấy
nhiều vợ, khuyến khích người vợ góa thủ tiết thờ chồng nuôi con Ngày nay,
cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học, xã hội, văn hóa Việt Nam cũng
đã có những biến chuyển sâu sắc, ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống, cách
sống của những cá nhân trong xã hội. Sự suy thoái về lối sống với cách sống
"thoáng" hơn nên những mối quan hệ ngoài giá thú, quan hệ ngoại tình ngày
một gia tăng. Những hiện tượng chưa từng xuất hiện, hay trước kia chỉ dám
lén lút, thì nay đang có xu hướng công khai và gia tăng như việc chung sống
giữa những người đồng giới, việc sống "thử", ngoại tình… Điều đó đòi hỏi
phải có những quy định pháp luật điều chỉnh những hậu quả phát sinh từ
những quan hệ này.

24
Ngoài ra, văn hóa truyền thống dân tộc còn ảnh hưởng nhiều đến nhận

thức và hành vi ứng xử của mỗi cá nhân. Truyền thống của người Việt Nam
luôn mang nặng đạo lý: tôn trọng tôn ti trật tự, kính trên nhường dưới, vợ
chồng, con cái yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Những truyền thống, đạo đức
này tác động đến tư duy của các nhà làm luật khi xây dựng các nguyên tắc,
quy phạm pháp luật về cấm kết hôn đối với những người có quan hệ thích
thuộc về trực hệ hay giữa những người cùng giới tính.
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phong tục, tập quán không
chỉ là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc, mà còn là một
trong những yếu tố rất quan trọng, có ảnh hưởng và tác động to lớn, chi phối
cách ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng đối với những quan hệ phát
sinh trong đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực HN&GĐ. Dưới thời phong
biến, người dân thường có câu "phép vua thua lệ làng" với hàm ý những quy
định của triều đình nếu không phù hợp với cuộc sống sẽ không thể phát huy
tác dụng và thực thi trong thực tiễn. Có những phong tục đã ăn sâu vào tiềm
thức của cộng đồng dân cư từ đời này qua đời khác, chi phối cách sống, ứng
xử của con người và khó có thể thay đổi được. Theo báo cáo của Ủy ban Dân
tộc, ở các địa phương Lai Châu, Cao Bằng, Sơn La, Tuyên Quang, Thanh
Hóa, Quảng Ninh hiện nay vẫn còn tồn tại một số phong tục ở những thôn bản
vùng cao, vùng sâu, vùng xa như: hiện tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù
các phong tục này chỉ mang tính hình thức); tình trạng tảo hôn và hôn nhân
cận huyết; việc đăng ký kết hôn không do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã
thực hiện; cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở
lên; bắt buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người đàn ông góa vợ, nếu kết
hôn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ
cũ [64]. Đối với các đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn chủ yếu được
thực hiện theo phong tục, tập quán, tức là tổ chức hôn lễ có sự chứng kiến của
gia đình, cộng đồng dân cư và được những người này thừa nhận, việc đăng ký

25
kết hôn chưa được coi trọng. Theo số liệu thống kê của tỉnh Sơn La: số lượng

các đôi không đăng ký kết hôn ngày càng tăng: năm 2000: 28 trường hợp;
năm 2003: 76 trường hợp; năm 2005: 159 trường hợp, năm 2007: 182 trường
hợp [64].
Vấn đề đặt ra là Nhà nước cần có thái độ và định hướng như thế nào
để một mặt vừa có thể duy trì, phát huy được những phong tục, tập quán tốt
đẹp về HN&GĐ - coi đó là công cụ đắc lực để điều chỉnh quan hệ HN&GĐ,
mặt khác, vừa có định hướng xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, nhằm
từng bước xây dựng quan hệ HN&GĐ tiến bộ. Ví dụ như tục nối dây (Juê
nuê) của một số tộc người bản địa ở Tây Nguyên, chủ yếu là người Ê Đê;
trước đây, tục nối dây vốn được cho là cổ hủ, lạc hậu, cần phải loại bỏ. Cùng
với sự phát triển của xã hội thì tục nối dây không còn phổ biến và cũng đã có
những biến đổi theo hướng tích cực để cộng đồng chấp nhận, duy trì. Theo
tập tục Juê nuê, người vợ được phép lấy anh hoặc em trai trong dòng họ của
chồng khi chồng chết; hay ngược lại, người chồng được phép lấy chị hoặc em
gái trong dòng họ của vợ khi vợ mất đi. Trước đây hôn nhân là ép buộc, dù
người em gái rất nhỏ tuổi nhưng vẫn bị ép buộc kết hôn. Ngày nay, tục nối
dây không vi phạm quyền tự do hôn nhân mà vẫn đảm bảo được tính dân chủ,
tự nguyện, người được họ hàng chọn lựa để kết hôn với anh/em rể hoặc chị/em
vợ hoàn toàn có thể từ chối cuộc hôn nhân nếu cảm thấy không phù hợp với
mình. Thay vì lấy anh rể, cô gái hoặc gia đình cô sẽ nuôi dưỡng những đứa con
của chị gái để anh rể đi tìm hạnh phúc mới. Và trong trường hợp này, người anh
rể phải để lại con cái cùng toàn bộ tài sản mà trước đó hai vợ chồng gây dựng
được cho gia đình bên vợ để có điều kiện chăm sóc cho bọn trẻ. TS. Tuyết
Nhung (Trường Đại học Tây Nguyên) cho rằng: tục nối dây thể hiện rất cao
tính nhân văn, bởi đối với con cái chưa trưởng thành của người quá cố thì
cuộc hôn nhân mới sẽ đem lại cho những đứa trẻ mất cha, hoặc mất mẹ sự
chăm sóc nuôi dưỡng ân cần và chu đáo từ chính người thân thiết trong gia

×