Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 114 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ HƢƠNG





HÒA GIẢI
VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2014



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ HƢƠNG




HÒA GIẢI
VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền





HÀ NỘI - 2014


3




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị H-ơng












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
6
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải vụ án hôn nhân và
gia đình
6
1.1.1.
Khái niệm về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
6
1.1.2.
Đặc điểm của hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
9
1.1.3.
Ý nghĩa của hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
14
1.2.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
17
1.2.1
Cơ sở lý luận
17
1.2.2.
Cơ sở thực tiễn
18
1.3.
Những yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng hòa giải vụ án hôn
nhân và gia đình

19
1.4.
Sơ lƣợc sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam
về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
23
1.4.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989
23
1.4.2.
Giai đoạn từ 1989 đến 2005
29
1.4.3.
Giai đoạn từ 2005 đến nay
33

Chương 2: HÒA GIẢI VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
36
2.1.1.
Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đƣơng sự, không
đƣợc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các
đƣơng sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình
36

5
2.1.2.
Nội dung thỏa thuận giữa các đƣơng sự không đƣợc trái pháp
luật hoặc đạo đức xã hội
39
2.2.

Phạm vi hòa giải
41
2.2.1.
Những vụ án không đƣợc hòa giải
41
2.2.2.
Những vụ án không tiến hành hòa giải đƣợc
44
2.3.
Thủ tục hòa giải vụ án hôn nhân gia đình
49
2.3.1.
Triệu tập đƣơng sự
49
2.3.2.
Tổ chức phiên hòa giải
52

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HÒA GIẢI
VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
68
3.1.
Thực tiễn áp dụng và thực thi pháp pháp luật trong hòa giải
vụ án hôn N hân và gia đình và một số kiến nghị
68
3.1.1.
Về phạm vi hòa giải
71
3.1.2.

Về nguyên tắc tiến hành hòa giải
72
3.1.3.
Về cấp, tống đạt thông báo về phiên hòa giải
73
3.1.4.
Về thành phần phiên hòa giải
74
3.1.5.
Về việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
75
3.1.6.
Kỹ năng tiến hành hòa giải của Thẩm phán còn nhiều hạn chế
77
3.1.7.
Nhận thức pháp luật của ngƣời dân còn nhiều hạn chế
78
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất
lƣợng hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình 79

3.2.1.
Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ án hôn nhân
và gia đình
80
3.2.2.
Kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng hòa giải vụ án hôn nhân
và gia đình
84


KẾT LUẬN
90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92

PHỤ LỤC


6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TTDS
: Tố tụng dân sự


7




DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
3.1
Số liệu thống kê án dân sự và hôn nhân gia đình (năm
2008- 2013)
68


8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vụ án hôn nhân và gia đình ngày càng chiếm một số lƣợng lớn trong
các vụ việc dân sự mà Tòa án phải giải quyết, những vụ án hôn nhân và gia
đình (HN&GĐ) "tƣởng dễ mà khó" vì có tác động mạnh, sâu sắc đến tâm lý,
tình cảm của các chủ thể tham gia quan hệ. Và với tính nhạy cảm của mối
quan hệ này. Rất nhiều tâm sự của cán bộ Tòa án có nhiều năm làm công tác
giải quyết án HN&GĐ, mỗi khi thụ lý thƣờng phải "lên dây cót" vì những khó
khăn biết trƣớc sẽ gặp phải từ việc thu thập chứng cứ đến quá trình xét xử.
Việc áp dụng pháp luật để giải quyết những quan hệ HN&GĐ cũng không
đơn giản vì quan hệ này thƣờng đƣợc xác lập trong thời gian rất dài, còn pháp
luật thì có nhiều thay đổi… Một vấn đề rất quan trọng là nhiều vụ án HN&GĐ
nhƣ các vụ ly hôn, thay đổi cấp dƣỡng nuôi con; chia tài sản của vợ chồng khi
hôn nhân còn tồn tại; tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng…

thƣờng đem đến hệ lụy và ảnh hƣởng tiêu cực đến tình cảm, mối quan hệ của
các thành viên trong gia đình. Vì thế, nếu thẩm phán "không thấu hiểu", nhiều
khi quá trình xử lý các vụ án HN&GĐ trở thành "mớ bòng bong" mà các chủ
thể liên quan không tìm đƣợc lối thoát… và bản án, quyết định đƣợc ban hành
sẽ đem lại "nhiều ấm ức khó giải tỏa". Có thể thấy rõ điều này trong một số
trƣờng hợp vợ chồng đã mâu thuẫn sâu sắc, hôn nhân đã thật sự tan vỡ nhƣng
Tòa án lại xử không chấp nhận cho ly hôn, và ngƣợc lại có vụ mâu thuẫn chƣa
trầm trọng đã xử cho ly hôn; việc nam nữ chung sống với nhau không có đăng
ký kết hôn, mặc dù không vi phạm các điều kiện kết hôn nhƣng lại xử hủy
hôn nhân trái pháp luật… Khi giao con cho cha hay mẹ nuôi cũng có sai sót,
trong đó có nhiều sai sót về việc giải quyết về phí tổn nuôi con. Do Tòa án
không thu thập chứng cứ đầy đủ về khả năng kinh tế của mỗi bên nên có
trƣờng hợp đã buộc đƣơng sự góp phí tổn nuôi con gần hết thu nhập hàng

9
tháng; cũng có trƣờng hợp Tòa án buộc đóng góp phí tổn nuôi con quá thấp
hoặc không buộc bên không nuôi con phải đóng góp phí tổn nuôi con, dù họ
có khả năng và bên nuôi con kinh tế khó khăn; cũng có trƣờng hợp buộc bên
đóng góp phí tổn nuôi con phải đóng một lần, với số tiền lớn, nên họ không
có khả năng thi hành. Xác định tài sản chung không đúng, nhƣ bỏ sót tài sản
chung, hoặc tài sản riêng của mỗi bên, tài sản của con lại coi là tài sản chung
của vợ chồng; khi vợ chồng sống chung với gia đình, không làm rõ công sức
của mỗi bên trong việc duy trì, tạo lập và phát triển tài sản chung, đặc biệt
phần đóng góp của vợ chồng nên đã quyết định phân chia không đúng. Có
trƣờng hợp khi phân chia hiện vật thuộc tài sản chung của vợ chồng không
xem xét đến yêu cầu, nhu cầu sử dụng của mỗi bên nên đã phân chia hiện vật
không hợp lý… Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn gia tăng nhƣ hiện nay
thì rất nhiều, nhƣng chủ yếu tập trung vào những nguyên nhân chính là do
chồng cờ bạc, rƣợu chè đánh đập vợ con, bất đồng quan điểm sống hoặc ngoại
tình dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Một nguyên nhân chính nữa là do giới

trẻ thƣờng yêu nhanh, cƣới vội nên họ vẫn chƣa tìm hiểu kỹ về nhau cũng nhƣ
các kỹ năng sống trƣớc khi bƣớc vào đời sống hôn nhân. Khi xảy ra mâu
thuẫn họ không biết cách xử lý, giải quyết dẫn đến bạo lực gia đình và hôn
nhân đổ vỡ là điều khó tránh khỏi. Hôn nhân tan vỡ không chỉ làm ảnh hƣởng
đến gia đình, ngƣời thân mà còn ảnh hƣởng đến xã hội. Sau những cuộc hôn
nhân không thành là những đứa con vô tội phải sống trong cảnh thiếu tình
thƣơng và sự nuôi dƣỡng chăm sóc của cha hoặc mẹ. Đó là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tội phạm và các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng.
Để giải quyết án HN&GĐ đạt hiệu quả cao, tránh đƣợc những sai sót
và đem lại lòng tin cho các bên đƣơng sự và đặc biệt là củng cố, hàn gắn mối
tình cảm giữa họ thì chúng ta cần phải có giải pháp thích hợp. Vấn đề không
phải là né tránh những tranh chấp và không phải nâng cao hiệu quả của hoạt
động xét xử mà cần hƣớng tới một kết quả của các bên đƣơng sự cùng mong

10
muốn, đó là một quyết định dựa trên sự thỏa thuận xuất phát từ chính ý
nguyện của cả hai bên. Vậy để đạt đƣợc quyết định đó chúng ta cần làm tốt
công tác hòa giải. Hòa giải là một biện pháp hữu hiệu nhất để giải quyết các
tranh chấp dân sự nói chung và đặc biệt là đối với các vụ án HN&GĐ. Thực
tiễn giải quyết các vụ án HN&GĐ cho thấy, càng ngày tỷ lệ vụ án đƣợc hòa
giải thành càng cao, tuy nhiên với tính chất đặc thù của loại án này đòi hỏi
chúng ta phải có hột hệ thống các quy định riêng để nâng cao chất lƣợng của
hoạt động hòa giải tại Tòa. Mặc dù những quy định của pháp luật về giải
quyết án HN&GĐ đã có nhiều tiến bộ trong từng giai đoạn phát triển của xã
hội, BLTTDS hiện hành đã quy định hòa giải là một thủ tục bắt buộc và đƣợc
tiến hành theo những trình tự thủ tục rất cụ thể song bên cạnh đó có nhiều quy
định chƣa nhất quán. Trong khi đó việc giải thích, hƣớng dẫn pháp luật của
các cơ quan có thẩm quyền chƣa kịp thời, việc phổ biến, tuyên truyền pháp
luật cho ngƣời dân còn nhiều hạn chế. Nên việc hòa giải các vụ án HN&GĐ
chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn.

Do đó việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp
luật về hòa giải vụ án HN&GĐ, pháp luật hiện hành của nƣớc ta về hòa giải
vụ án HN&GĐ nhƣ thế nào, thực tiễn áp dụng pháp luật có những vƣớng mắc
gì và trên có sở đó kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hòa giải vụ
HN&GĐ là việc làm có ý nghĩa và quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Với
nhận thức đó tôi đã chọn đề tài: "Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình" làm
đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Hòa giải vụ án là một hoạt động tố tụng quan trọng đã và đang đƣợc
nhiều nhà nghiên lý luận và thực tiễn quan tâm. Cho đến thời điểm tác giả
nghiên cứu đề tài: "Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình", đã có có một số
bài nghiên cứu về vấn đề này nhƣ: Luận văn thạc sĩ Luật học "Thủ tục hòa
giải vụ việc hôn nhân và gia đình", của Trần Văn Duy, Khoa luật - Đại học

11
quốc gia Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sĩ Luật học "Hòa giải trong tố
tụng dân sự - Thực tiễn và hướng hoàn thiện" của Bùi Đăng Huy, Trƣờng Đại
học luật Hà Nội, 1996; Khóa luận tốt nghiệp: "Hòa giải trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam" của Nguyễn Kiều Oanh, Hà Nội, 2010; Khóa luận tốt
nghiệp: "Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"
của La Phƣơng Na, Hà Nội, 2011; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải vụ
việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Bích Ngọc, năm
2013… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ là nghiên cứu về vấn đề
hòa giải đối với vụ án dân sự theo nghĩa rộng. Cho đến nay, chƣa có một công
trình nghiên cứu nào chuyên sâu, toàn diện về hòa giải vụ án HN&GĐ. Vì
vậy, vấn đề đặt ra là cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ, hệ
thống cả về lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hòa giải vụ án
HN&GĐ dựa trên những thành quả nghiên cứu của các công trình khoa học
đã đƣợc công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là làm sáng tỏ vấn đề lý luận
về hòa giải vụ án HN&GĐ; tìm hiểu các quy định trong pháp luật tố tụng dân
sự (TTDS) Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định này trong hoạt động
giải quyết vụ án HN&GĐ. Mặt khác chỉ ra những điểm còn thiếu đồng bộ,
chƣa hợp lý về các quy định của pháp luật TTDS, từ đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hòa giải.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các quy định của pháp luật
về hòa giải vụ án HN&GĐ.
- Hiện nay, việc áp dụng các quy định về hòa giải trong giải quyết án
HN&GĐ còn nhiều khó khăn, nhiều trƣờng hợp quyền và nghĩa vụ của chủ
thể không thực hiện đƣợc. Việc nghiên cứu, đánh giá mức độ hoàn thiện của
các quy định về hòa giải vụ án HN&GĐ, thực tiễn áp dụng các quy định hòa

12
giải, những vấn đề bất cập, vƣớng mắc. Từ đó luận giải về những yêu cầu,
kiến nghị hoàn thiện các quy định nâng cao chất lƣợng hòa giải.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những
vấn đề sau đây:
- Những vấn đề lý luận về hòa giải vụ án HN&GĐ nhƣ: Khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải vụ án HN&GĐ. Cở sở lý luận và thực tiền về
hòa giải vụ án HN&GĐ. Những yếu tố ảnh hƣởng đến hòa giải vụ án HN&GĐ.
- Hòa giải vụ án HN&GĐ theo pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành.
- Thực tiễn hòa giải vụ án HN&GĐ từ áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) hiện hành và các kiến nghị nâng cao chất lƣợng của hòa giải vụ án
HN&GĐ tại Tòa án.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giải sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học duy vật lịch sự của chủ nghĩa Mác - Lênin; Bên cạnh đó tác giải

cũng sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: Phân tích, chứng
minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu, sử dụng các kết
quả thống kê số liệu báo cáo của ngành Tòa án.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm ba chƣơng:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình.
Chương 2: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình theo pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả của hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình.



13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI
VỤ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA HÒA GIẢI VỤ ÁN HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1.1. Khái niệm về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
Xã hội loài ngƣời là tổng thể các mối quan hệ giữa con ngƣời và con
ngƣời. Những mối quan hệ đó đƣợc hình thành và phát triển theo xu hƣớng đa
dạng, đa chiều và phức tạp, tạo thành những mắt xích trong mạng lƣới xã hội
liên kết các cá nhân lại với nhau. Khi cá nhân tham gia vào các quan hệ xã
hội, nhằm đạt đƣợc những lợi ích của riêng mình đã làm xuất hiện những mâu
thuẫn, tranh chấp. Để duy trì ổn định, trật tự xã hội, củng cố các mối quan hệ
trong xã hội thì phải tìm các biện pháp hóa giải các tranh chấp đó. Một trong
các biện pháp giải quyết các tranh chấp đó là hòa giải.

Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp.
Trên thế giới có rất nhiều khái niệm khác nhau về hòa giải. Theo Từ điền
Black’s Law Dictionary định nghĩa hòa giải (conciliation) là: "sự can thiệp,
sự làm trung gian hòa giải; hành vi của ngƣời thứ ba làm trung gian giữa hai
bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa
họ" [58, tr. 152].
Từ điển pháp lý của Rothenberg định nghĩa hòa giải là "hành vi thỏa
hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhƣợng bộ một ít [59, tr. 410].

Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý Bộ Tƣ Pháp, thì
hòa giải là "việc thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của
mình một cách ổn thỏa" [54, tr. 430].
Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về hòa giải nhƣng những
khái niệm đó đều cho thấy hòa giải có ba yếu tố:

14
Thứ nhất: Hòa giải để giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Thứ hai: Phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh
chấp thông qua việc mỗi bên nhƣợng bộ một ít.
Thứ ba: Trong quá trình hòa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba
trung lập (độc lập và không liên quan đến lợi ích của các bên, không đƣa ra
phán quyết) để cho ý kiến, đồng thời áp dụng thủ tục để công nhận sự thỏa
thuận giữa các bên tranh chấp.
Nhƣ vậy hòa giải là: hoạt động giúp đỡ các bên đồng ý thỏa thuận
chấm dứt các tranh chấp.
Pháp luật là một công cụ quản lý của nhà nƣớc, nhằm duy trì ổn định
trật tự xã hội. Khi xây dựng pháp luật thì tất cả các nƣớc đều quy định về hòa
giải trong việc giải quyết các tranh chấp về dân sự trong đó có tranh chấp về
HN&GĐ. Tranh chấp về HN&GĐ là những tranh chấp phát sinh từ các quan
hệ xã hội do pháp luật HN&GĐ điều chỉnh. Khi các cá nhân tham gia vào

quan hệ HN&GĐ, trong quá trình chung sống, xuất hiện những mâu thuẫn,
bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hợp nhau… dần dần những mâu
thuẫn đó không đƣợc giải quyết dẫn đến những tranh chấp về hôn nhân gia
đình. Khi tranh chấp xảy ra các bên có quyền lựa chọn cách thức, biện pháp
khác nhau để giải quyết và các bên có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức
khác nhau để giải quyết tranh chấp đó. Theo Điều 27 BLTTDS của nƣớc ta
quy định thì những tranh chấp về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án bao gồm:
a. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
Đây là loại việc mà hai bên đƣơng sự không thỏa thuận đƣợc với nhau
về quan hệ tình cảm, một bên yêu cầu ly hôn một bên xin đoàn tụ đƣợc coi là
có tranh chấp về quan hệ tình cảm; các bên không thống nhất đƣợc với nhau
về việc ai nuôi con, không thống nhất đƣợc mức cấp dƣỡng, thời gian cấp
dƣỡng nuôi con là có tranh chấp về nuôi con.

15
b. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Đây là trƣờng hợp quan hệ hôn nhân đang tồn tại, nhƣng do có nhu
cầu đầu tƣ kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng, hoặc có lý do
chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận về chia tài sản chung. Trong
trƣờng hợp do có tranh chấp đƣơng sự yêu cầu Tòa án phân chia thì Tòa án
thụ lý giải quyết.
c. Tranh chấp về thay đổi ngƣời trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Đây là trƣờng hợp khi ly hôn Tòa án đã giải quyết về quan hệ con cái,
hoặc các đƣơng sự đã tự thỏa thuận giải quyết khi vợ chồng ly hôn, nhƣng do
hai bên đƣơng sự có tranh chấp hoặc do tình hình của đƣơng sự có thay đổi
đƣơng sự không thể tự giải quyết đƣợc đã yêu cầu Tòa án giải quyết lại quan
hệ nuôi con.
d. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
e. Tranh chấp về cấp dƣỡng.

Đây có thể là yêu cầu cấp dƣỡng giữa cha, mẹ, con, giữa anh chị em
với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại với cháu, giữa vợ và chồng. Tranh
chấp về cấp dƣỡng có thể xuất hiện khi ngƣời có nghĩa vụ cấp dƣỡng đã trốn
tránh nghĩa vụ đó, trong khi đó có khả năng cấp dƣỡng, hoặc cần thay đổi
mức cấp dƣỡng…
Ví dụ: Chị Nguyễn Thị A và anh Trần văn C đã ly hôn từ năm 1998.
Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn của Tòa án nhân dân (TAND)
huyện H thì chị A đƣợc quyền nuôi con là cháu Trần Văn B, sinh năm 1996,
anh C có nghĩa vụ cấp dƣỡng nuôi con là 90.000đồng/ tháng cho đến khi cháu
B đủ 18 tuổi. Sauk hi ly hôn đến năm 2006, chị A thấy mức cấp dƣỡng
90.000đồng/ tháng không đủ để nuôi con. Chị yêu cầu anh C tăng mức cấp
dƣỡng nuôi con nhƣng anh C không đồng ý, chị đã làm đơn khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp về cấp dƣỡng giữa chị và anh C.
f. Các tranh chấp khác về HN&GĐ mà pháp luật có quy định.

16
Tuy nhiên, tất cả tranh chấp trên không phải khi nào Tòa án cũng giải
quyết. Khi các tranh chấp về HN&GĐ đƣợc Tòa án thụ lý giải quyết thì đƣợc
gọi là vụ án HN&GĐ.
Vụ án HN&GĐ là dạng cụ thể của vụ án dân sự nói chung. Pháp luật
TTDS phân chia thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án làm hai
loại đó là: vụ án dân sự" và "việc dân sự". Trong đó "việc dân sự" đƣợc hiểu
là "việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhƣng có yêu cầu
Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh
quyền nghĩa vụ dân sự…" [25, Điều 31]; còn "vụ án dân sự" là những tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân
sự, HN&GĐ, kinh doanh thƣơng mại, lao động đƣợc quy định tại các điều 25,
27, 29 và 31 BLTTDS do các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện và đƣợc Tòa án
thụ lý. Khi giải quyết vụ án dân sự nói chung và vụ án HN&GĐ nói riêng,
Tòa án phải áp dụng hai mảng văn bản pháp luật khác nhau.

Thứ nhất: Pháp luật về nội dung nhƣ Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật
HN&GĐ, Luật Nuôi con nuôi…để giải quyết nội dung tranh chấp.
Thứ hai: Pháp luật TTDS: Quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục
giải quyết. Trong đó có quy định về thủ tục hòa giải vụ án đƣợc áp dụng chung
cho tất cả các dạng cụ thể của vụ án dân sự theo nghĩa rộng. Khi tiến hành giải
quyết vụ án HN&GĐ thì chủ thể tiến hành hòa giải chỉ có thể là Tòa án. Tuy
nhiên thủ tục hòa giải, phạm vi hòa giải, nội dung hòa giải… nhƣ thế nào là
do pháp luật TTDS ở mỗi nƣớc và ở mỗi thời kỳ khác nhau quy định khác nhau.
Nhƣ vậy có thể kết luận: Hòa giải vụ HN&GĐ là hoạt động do Tòa án
ti
ế
n hành nh

m giúp
đỡ
các
đ ư ơ
ng s

th

a thu

n v


vi

c gi


i quy
ế
t nh

ng tranh
chấp về HN&GĐ theo quy định của pháp
luật và không trái đạo đức xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
Hòa giải vụ án HN&GĐ đƣợc thực hiện theo thủ tục hòa giải các vụ án

17
dân sự nên nó cũng mang những đặc điểm chung của hòa giải vụ án dân sự nhƣ:
Thứ nhất: Hòa giải là một thủ tục bắt buộc đối với hầu hết các vụ án
dân sự tại thời điểm do pháp luật quy định.
Đặc điểm này xuất phát từ đặc trƣng của các quan hệ pháp luật dân sự
đó là quyền tự định đoạt, tự do thỏa thuận theo quy định pháp luật khi tham
gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình,
nên hòa giải là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình và
pháp luật TTDS. Đặc biệt, dựa vào đặc thù của ngành luật hôn nhân gia đình
đó là sự khác biệt về đối tƣợng điều chỉnh của nó là những quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nhƣ hôn nhân, sinh đẻ và nhận
nuôi con nuôi dẫn đến giữa các bên đƣơng sự luôn luôn có quan hệ về mặt
tình cảm (tình cảm là yếu tố đặc trƣng trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, nó
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ hôn nhân gia đình), các quan hệ
này tồn tại lâu dài, bền vững, mà chủ thể chỉ có thể là các cá nhân mà không
phải là tổ chức, hay pháp nhân. Do đó việc áp dụng các quy định về hòa giải
trong giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình là rất quan trọng trong việc bảo
đảm quyền tự định đoạt của các đƣơng sự trong vụ án liên quan đến quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Qua nghiên cứu pháp luật của một số nƣớc, có thể
thấy mỗi Nhà nƣớc đều có hệ thống pháp luật của riêng mình để điều chỉnh

các mối quan hệ trong đời sống xã hội phù hợp với bản chất của Nhà nƣớc đó.
Theo pháp luật TTDS của Pháp thì hòa giải đƣợc tiến hành trong suốt quá
trình quá trình tố tụng, các bên có thể tự hòa giải với nhau hoặc tiến hành hòa
giải theo sáng kiến của Thẩm phán trong khi đó theo pháp luật TTDS của
nƣớc ta thì hòa giải đƣợc tiến hành ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Theo
pháp luật của Mỹ thì hòa giải không nhất thiết phải là thủ tục bắt buộc khi đƣa
ra trƣớc Tòa án dân sự để giải quyết. Đây là điểm khác biệt trong thủ tục
TTDS của Việt Nam và Hoa Kỳ. Nghiên cứu lịch sử phát triển của các quy
định về hòa giải thấy rằng ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì những quy định

18
của pháp luật về hòa giải cũng khác nhau. Ví dụ theo Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự năm 1989 thì không quy định rõ hòa giải đƣợc tiến hành
tại giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án nhƣng theo quy định của Bộ
LTTDS hiện hành thì hòa giải đƣợc quy định là một thủ tục bắt buộc tại giai
đoạn chuẩn bị xét xử. Do đó hòa giải một vụ án dân sự đƣợc pháp luật quy
định nhƣ thế nào là do pháp luật mỗi nƣớc và tại thời điểm pháp luật quy định.
Thứ hai: Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự.
Đƣơng sự trong các vụ án dân sự về hôn nhân gia đình là những
ngƣời có quyền và nghĩa vụ cần phải giải quyết, thƣờng là những chủ thể có
quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dƣỡng… Mục đích của hòa giải là giúp
đỡ các bên đạt đƣợc những thỏa thuận nhằm chấm dứt các tranh chấp. Sự
thỏa thuận này có Tòa án giữ vai trò là bên trung gian, giúp đỡ các bên
đƣơng sự thỏa thuận một cách hợp lý, có lợi nhất cho quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên. Tuy nhiên sự thỏa thuận giữa vợ hoặc chồng, giữa cha mẹ
với những có quyền lợi nghĩa vụ phát sinh từ tranh chấp phải đạt đƣợc trên cơ
sở thƣơng lƣợng một cách trung thực, hợp tình, hợp lý, không trái với quy
định của pháp luật và đạo đức của xã hội. Trong thƣơng lƣợng không một ai,
không một bên nào với bất kì hình thức nào có thể cƣỡng ép hoặc can thiệp
vào sự thỏa thuận của các đƣơng sự. Ngay cả cơ quan, chủ thể làm trung gian

là Tòa án là cơ quan Tƣ pháp mang quyền lực nhà nƣớc cũng không thể can
thiệp, hay cƣỡng ép sự thỏa thuận, mà chỉ có vai trò trung gian bên thứ ba
giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau mà không đƣợc quyền can thiệp vào
những thỏa thuận đó.
Thứ ba: Tòa án là cơ quan duy nhất tiến hành hòa giải vụ án dân sự
Xuất phát từ khái niệm về vụ án dân sự đó là những tranh chấp dân sự
đƣợc Tòa án thụ lý thì gọi là vụ án dân sự, do đó hòa giải vụ án dân sự hay vụ
án HN&GĐ chỉ do Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền tiến hành hòa giải.
Hòa giải trong vụ án HN&GĐ là hòa giải trƣớc Tòa án, hay còn gọi là

19
hòa giải trong quá trình tố tụng và đƣợc thực hiện với sự hiện diện của Thẩm
phán. Tuy Tòa án không phải là chủ thể của quyền hòa giải, và cũng không
đại diện cho lợi ích của bất cứ bên đƣơng sự nào, nhƣng với tƣ cách là cơ
quan xét xử có trách nhiệm tiến hành hòa giải. Tòa án có vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình hòa giải, có trách nhiệm tạo điều kiện để các
đƣơng sự hòa giải với nhau, giúp cho các bên đƣơng sự hiểu rõ pháp luật điều
chỉnh quan hệ xã hội đang tranh chấp, giải thích cho họ về hậu quả pháp lý
trong trƣờng hợp hòa giải thành và hòa giải không thành. Bên cạnh đó, Tòa án
có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện quyền tự định đoạt trong việc hòa giải
của các bên đƣơng sự nhằm đảm bảo tiến trình hòa giải diễn ra theo đúng quy
định của pháp luật và có quyền không công nhận kết quả hòa giải, nếu sự thỏa
thuận đó trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của ngƣời khác.
Bên cạnh những đặc điểm chung thì hòa giải vụ án HN&GĐ có những
đặc trƣng riêng biệt khác với hòa giải những vụ án dân sự khác nhƣ:
Thứ nhất: Trong một số trường hợp, hòa giải vụ án HN&GĐ không
chấp nhận việc ủy quyền cho người khác khi tham gia tố tụng.
Trong quan hệ HN&GĐ thì quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ
đạo và có ý nghĩa quyết định. Điều đó có nghĩa là khi các cá nhân tham gia

vào quan hệ pháp luật HN&GĐ thì giữa họ phát sinh các quyền và nghĩa vụ
về nhân thân. Vì có mối quan hệ về nhân thân nên giữa họ mới phát sinh quan
hệ về tài sản. Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là đặc trƣng cơ bản
trong quan hệ HN&GĐ. Đó là tình yêu thƣơng giữa vợ và chồng, tình thƣơng
yêu, kính trọng giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình.
Vợ chồng phải thực hiện quyền và nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau,
Cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm sóc con cái, cấp dƣỡng nuôi con chung khi ly
hôn Đây là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao
cho ngƣời khác đƣợc, do đó khi giải quyết vụ án HN&GĐ không chấp nhận

20
việc các bên đƣơng sự ủy quyền cho ngƣời khác tham gia tố tụng khi yêu cầu
giải quyết tranh chấp liên quan đến ly hôn; tranh chấp về nuôi con, tranh chấp
về thay đổi ngƣời trực tiếp nuôi con; tranh chấp về xác định cha; mẹ cho con
hoặc xác định con cho cha, mẹ; tranh chấp về cấp dƣỡng.
Thứ hai: Chủ thể tham gia hòa giải vụ án HN&GĐ chỉ có thể là cá
nhân có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Đối với vụ án ly hôn
(loại án phổ biến nhất) thì chủ thể tham gia hòa giải chỉ có thể là vợ chồng.
Một trong những đặc thù cơ bản của quan hệ pháp luật HN&GĐ là
chủ thể chỉ có thể là cá nhân. Điều này cũng nhấn mạnh thêm sự khác biệt
giữa quan hệ hôn nhân gia đình và quan hệ dân sự. Nếu trong quan hệ dân sự
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự không chỉ là các cá nhân (bao gồm:
công dân, ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời không có quốc tịch…) mà còn là các cơ
quan, tổ chức, hộ gia đình, pháp nhân…và trong một số trƣờng hợp đặc biệt là
Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là chủ thể của pháp luật
dân sự nhƣng trong pháp luật HN&GĐ chủ thể chỉ có thể là các cá nhân mà
không thể là ai khác. Chỉ có các cá nhân mới tạo nên các mối quan hệ về
HN&GĐ. Các đƣơng sự trong vụ án HN&GĐ thƣờng là các chủ thể có quan
hệ về hôn nhân, nuôi dƣỡng, có quan hệ về huyết thống do đó khi giải quyết
nội dung của quan hệ tranh chấp này không mang tính chất của quan hệ dân

sự thuần túy. Ví dụ: Vợ chồng không thể tính công trong việc chăm sóc lẫn
nhau, cha mẹ không thể tính tiền nuôi dƣỡng con cái khi con lớn họ "đòi nợ"
con, bởi điều đó là trái với tính chất của quan hệ HN&GĐ, trái với đạo đức xã
hội. Các cá nhân kết hôn với nhau trở thành vợ và chồng, trong quá trình
chung sống phát sinh những tranh chấp mâu thuẫn không thể tự hòa giải
đƣợc, cuộc sống hôn nhân của họ trở nên trầm trọng, không có hạnh phúc,
mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc nên họ đề nghị Tòa án giải quyết cho
ly hôn. Nhƣ vậy trong vụ án ly hôn thì chủ thể tham gia hòa giải là các bên vợ

21
và chồng mà không phải là ai khác.
Thứ ba: Mục đích hòa giải vụ án ly hôn (loại án phố biến nhất trong
vụ án HN&GĐ) là giúp các bên đoàn tụ với nhau chứ không chỉ là nhằm giúp
các bên đạt được sự thỏa thuận.
Nếu nhƣ trong các tranh chấp về dân sự thông thƣờng thì khi tiến hành
hòa giải đều nhằm mục đích giúp cho các bên đạt đƣợc sự thỏa thuận đáp ứng
những yêu cầu của các bên đề ra. Ví dụ nhƣ khi tiến hành hòa giải vụ án dân
sự tranh chấp về hợp đồng vay tài sản giữa A và B. Thì Tòa án chỉ cần hòa
giải yêu cầu A đòi tài sản đối với B nhằm đáp ứng đƣợc mục đích của A và B
đề ra thì hòa giải trong vụ án HN&GĐ xét về mục đích cuối cùng là giúp cho
các bên đƣợc đoàn tụ, củng cố mối quan hệ HN&GĐ ngày càng bền chặt,
củng cố tình cảm giữa các bên. Trong vụ án ly hôn thông thƣờng bao gồm các
vấn đề về tình cảm, con cái và tài sản chung. Khi tiến hành hòa giải, phải tiến
hành hòa giải quan hệ về tình cảm trƣớc sau đó mới đến các quan hệ tiếp theo.
Nếu hòa giải quan hệ tình cảm mà các bên đoàn tụ thì không phải tiến hành
hòa giải các quan hệ còn lại nhƣ con cái, chia tài sản chung, án phí.
1.1.3. Ý nghĩa của hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình
Thực tiễn áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ án HN&GĐ đã
chứng minh ý nghĩa vai trò to lớn của nó. Có thể nói không phải ngẫu nhiên
mà pháp luật nƣớc ta cũng nhƣ pháp luật nhiều nƣớc khác quy định và đƣa

hoạt động hòa giải vào quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Trong vụ án
HN&GĐ hòa giải có tầm quan trọng đặc biệt, nếu hòa giải thành thì ngƣời
đƣợc lợi nhiều nhất chính là các đƣơng sự, không những đƣơng sự tránh đƣợc
những phiền hà, tốn kém cho những chi phí cho một vụ kiện mà điều đáng nói
là nó giúp cho các đƣơng sự gỡ rối đƣợc những tranh chấp, những mâu thuẫn
đang lên đến đỉnh điểm tƣởng chừng nhƣ không có lối thoát, giúp các bên
củng cố mối quan hệ về mặt tình cảm, giữ đƣợc "cái tình nghĩa vợ chồng",
tránh đƣợc những hệ lụy xấu từ việc ly hôn gây ra cho chính những đứa con

22
của họ và cho cả xã hội.
- Ý nghĩa về mặt tố tụng.
Khi hòa giải thành giúp Tòa án giải quyết vụ án mà không phải mở
phiên tòa, tránh đƣợc việc khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị, quá trình tố tụng
hạn chế kéo dài không cần thiết nhƣ: phúc thẩm, tái thẩm hay giám đốc thẩm.
Trong trƣờng hợp hòa giải thành, mỗi bên đƣơng sự đều thỏa thuận
trên cơ sở ý chí tự nguyện và phù hợp với lợi ích của mình, nên họ tự nguyện
trong việc thực hiện các quyết định của Tòa án, việc thi hành án do đó không
cần sự tác động nào của Tòa án và trở nên đơn giản, dễ dàng hơn, ít để lại hậu
quả xấu.
Đối với Tòa án, hòa giải giúp giải quyết nhanh chóng những vụ án
hôn nhân gia đình mà bản chất nội tại của nó đã rất phức tạp bởi mối quan hệ
tình cảm giữa các bên. Hơn nữa, mối quan hệ HN&GĐ thƣờng có thời gian
tồn tại rất lâu, nó có thể gắn liền với mỗi cá nhân đến tận lúc chết. Trong quá
trình chung sống với nhau, vợ chồng trong mối quan hệ hôn nhân đã tạo lập
nên khối tài sản chung rất lớn và đa dạng. Khi Tòa án tiến hành giải quyết
việc tranh chấp về chia tài sản chung nếu hòa giải không thành Tòa án phải
đƣa ra xét xử, sẽ rất khó khăn và phức tạp, phức tạp trong việc định giá, thu
thập chứng cứ, chứng minh… Nó đòi hỏi phải có thời gian dài để giải quyết
đối với loại án này, có những vụ án có thể kéo dài đến hàng chục năm mà vẫn

không giải quyết đƣợc một cách triệt để. Thông qua phƣơng thức hòa giải dù
không thành thì qua việc hòa giải Tòa án có điều kiện nắm vững hơn nội dung
vụ án, hiểu hơn về tâm tƣ tình cảm của các bên đƣơng sự cũng nhƣ những
vƣớng mắc về tranh chấp đang tồn tại trong suy nghĩ của họ. Trên cơ sở đó
xác định đƣờng lối xét xử đúng đắn, hợp lý trong quá trình giải quyết vụ án,
nâng cao hiệu quả cho hoạt động xét xử của TAND.
- Ý nghĩa về mặt kinh tế.
Quá trình giải quyết một vụ án HN&GĐ có thể bị kéo dài phải xử đi,

23
xử lại nhiều lần. Nếu hòa giải không thành, Tòa án phải đƣa vụ án ra xét xử,
Những chi phí cho việc tổ chức một phiên tòa là rất lớn. Hoạt động giải quyết
các vụ án cần một khoản chi phí nhất định, bao gồm chi phí duy trì hoạt động
của bộ máy tƣ pháp và các chi phí phát sinh do yêu cầu của việc giải quyết vụ
việc nhƣ: chi phí cho việc giám định; chi phí cho việc xem xét thẩm định tại
chỗ; chi phí định giá tài sản; thù lao cho ngƣời làm chứng; phiên dịch; luật
sƣ Nhƣ vậy có thể coi chi phí TTDS là tổng hao tổn về vật chất và công sức
của xã hội trong giải quyết các vụ việc dân sự. Song về phía các đƣơng sự, thì
chi phí tố tụng đƣợc hiểu là số tiền họ phải chi trả để đƣợc giải quyết vụ án.
Chi phí tố tụng mà các đƣơng sự phải gánh chịu bao gồm án phí sơ thẩm và
án phí phúc thẩm, hoặc lệ phí giải quyết các việc dân sự và các chi phí tố tụng
khác nếu phát sinh, gồm chi phí về giám định, phiên dịch, định giá Nhƣ vậy
để giải quyết đƣợc một vụ án hôn nhân gia đình nói riêng thì chi phí cho một
vụ án là rất lớn, nhƣng nếu chúng ta tiến hành hòa giải thành thì sẽ giảm bớt
đƣợc rất nhiều các chi phí. Ví dụ: A và B ly hôn và tranh chấp với nhau về
một khối tài sản khi ly hôn. Nếu A và B không hòa giải thành thì ngoài việc
các đƣơng sự này phải nộp tiền án phí thì họ còn phải nộp các chi phí tố tụng
khác nếu phát sinh, bên cạnh đó việc mở một phiên tòa sẽ mất rất nhiều thời
gian, họ phải bỏ ra một khoảng thời gian dài để theo đuổi vụ án làm ảnh
hƣởng đến công việc của họ, kèm theo là các khoản chi phí cho việc đi lại

Nhƣng nếu vụ án đƣợc hòa giải thành thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí do
luật quy định và không phải chi trả cho các chi phí tố tụng khác.(Theo pháp
lệnh án phí, lệ phí tòa án năm 2009).
- Ý nghĩa về mặt xã hội, tâm lý.
Hòa giải thành một vụ án ly hôn loại án phổ biến nhất trong các vụ án
HN&GĐ có hai trƣờng hợp đƣợc đặt ra. Nếu họ đoàn tụ và rút đơn khởi kiện
thì việc hòa giải đã giúp các bên tiếp tục duy trì, củng cố mối quan hệ
HN&GĐ ngày càng bền chặt và gắn bó hơn. Một xã hội ổn định là một xã hội

24
có tỷ lệ ly hôn thấp, bởi "gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dƣỡng
con ngƣời, là môi trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới
tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt" [13]. Thực tế xét xử án hình sự trong
những năm gần đây còn cho thấy số bị cáo phạm tội ngày càng có độ tuổi trẻ
và hầu hết trong số đó có hoàn cảnh gia đình không tốt nhƣ bố mẹ ly hôn, bố
mẹ ngoại tình Năm 2009, Công ty Luật Mishcon de Reya (Anh) khảo sát
2.000 ngƣời có cha mẹ ly hôn. Kết quả không hề đƣa ra bất cứ dấu hiệu khả
quan nào. Trong số các đối tƣợng đƣợc phỏng vấn có tới 42% chứng kiến
những trận cãi vã, 49% phải chịu trách nhiệm an ủi cha/mẹ, 24% chỉ đƣợc
chọn sống với hoặc bố hoặc mẹ, 10% quay sang con đƣờng phạm tội, và 8%
từng tìm tới cái chết nhƣ một sự giải thoát [9]. Gia đình tan vỡ kéo theo rất
nhiều hệ lụy cho con cái điều này làm ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của
một xã hội, một quốc gia. Trƣờng hợp thứ hai hòa giải thành các tranh chấp
về HN&GĐ khi ly hôn. Hòa giải thành trong trƣờng hợp này mặc dù họ
không đoàn tụ đƣợc nhƣng nó cũng củng cố và phát triển quan hệ vốn có giữa
các bên tranh chấp, giảm bớt mâu thuẫn đang diễn ra căng thẳng trong lòng
họ. Làm cho mối quan hệ nhân thân và quan hệ và tài sản đƣợc phát triển lành
mạnh, hạn chế đến mức tối đa của sự can thiệp quyền lực công vào quan hệ đó.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HÒA GIẢI VỤ ÁN HÔN

NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.2.1 Cơ sở lý luận
Các tranh chấp về HN&GĐ là một dạng của tranh chấp dân sự, do vậy
các quy định về giải quyết nội dung tranh chấp này và những quy định về
trình tự thủ tục giải quyết phải đƣợc xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền
quyết định và tự định đoạt của các đƣơng sự, mặc dù vậy những tranh chấp về
HN&GĐ có đặc điểm rất khác với các tranh chấp dân sự thuần túy nhƣ: hợp
đồng, bảo hiểm… bởi những tranh chấp này bị chi phối bởi các yếu tố tình

25
cảm thiêng liêng nhƣ tình vợ chồng, tình phụ tử, tình thƣơng yêu giữa các
thành viên trong gia đình. Các chủ thể của quan hệ này thƣờng có quan hệ
huyết thống với nhau. Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều
kiện thuận lợi để các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các
tranh chấp một cách ổn thỏa theo quy định của pháp luật và không trái đạo
đức xã hội. Trong điều kiện quan hệ HN&GĐ đang bị tác động mạnh mẽ bởi
quá trình phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, thủ tục hòa giải sẽ có ý nghĩa
rất lớn đối với công tác duy trì trật tự xã hội, công tác an sinh xã hội. Bởi gia
đình là tế bào của xã hội, gia đình có ổn định và phát triển thì xã hội mới phát
triển, khi hòa giải thành vụ án HN&GĐ, bên cạnh việc chấm dứt đƣợc các
tranh chấp thì hòa giải thành còn củng cố, đoàn kết mối quan hệ tình cảm giữa
các bên đƣơng sự, đảm bảo đƣợc quyền lợi của trẻ em và ngƣời già đó là
những đối tƣợng mà xã hội rất quan tâm, chăm sóc.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Đối với dân tộc Việt Nam, hòa giải gắn liền với truyền thống hàng
ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, đóng vai trò quan trọng trong việc giải
quyết các vi phạm pháp luật cũng nhƣ mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ nhân
dân, góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng, an toàn xã hội, củng cố khối đại đoàn
kết dân tộc.
Quan niệm có từ thời rất xa xƣa trong lịch sử cha ông ta có câu "lấy

hòa làm trọng" "dĩ hòa vi quý". Những quan niệm này ăn sâu trong đời sống
nhân dân đã tác động không nhỏ đến cách đối nhân xử thế trong nội bộ gia
đình. Hòa giải đƣợc chọn là giải pháp quan trọng hàng đầu khi có mâu thuẫn
xảy ra trong gia đình mâu thuẫn giữa mối quan hệ vợ chồng, mối quan hệ
giữa cha mẹ với con cái, cũng nhƣ những mối quan hệ về tài sản… các bên
tham gia hòa giải không phải là nhằm mục đích thắng hay thua trong tranh
chấp mà giúp các thành viên trong quan hệ hôn nhân gia đình giải quyết đƣợc
mâu thuẫn một cách êm đẹp, duy trì đƣợc cuộc sống gia đình hạnh phúc và

×