TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
PHẠM THỊ HÀ
TÍN HIỆU THẨM MĨ “HOA”
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
HÀ NỘI - 2014
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
PHẠM THỊ HÀ
TÍN HIỆU THẨM MĨ “HOA”
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. LÊ THỊ THÙY VINH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới Th.S Lê Thị Thùy Vinh người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian tiến hành.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ cùng toàn
thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn Ban chủ
nhiệm khoa và Ban Giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
được học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả khóa luận
Phạm Thị Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của Th.S Lê Thị Thùy Vinh chưa từng được công bố
trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, ngày tháng năm
Người cam đoan
Phạm Thị Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của khóa luận 5
7. Bố cục của khóa luận 5
NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 6
1.1. Tín hiệu 6
1.2. Tín hiệu ngôn ngữ 7
1.3. Tín hiệu thẩm mĩ 10
1.3.1. Thuật ngữ 10
1.3.2. Phân loại tín hiệu thẩm mĩ 11
1.3.3. Nguồn gốc của tín hiệu thẩm mĩ 12
1.3.5. Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ 15
1.3.6. Phương thức xây dựng tín hiệu thẩm mĩ 21
1.3.7. Quá trình lĩnh hội và phân tích tín hiệu thẩm mĩ trong hệ thống . 22
1.4. Tác giả Xuân Quỳnh 25
1.4.1. Cuộc đời 25
1.4.2. Sự nghiệp thơ ca 26
CHƢƠNG 2: TÍN HIỆU THẨM MĨ “HOA” TRONG THƠ XUÂN
QUỲNH 29
2.1. Tình hình khảo sát, thống kê ngữ liệu 29
2.1.1. Tiêu chí phân loại ngữ liệu 29
2.1.2. Bảng thống kê, phân loại THTM “hoa” trong thơ Xuân Quỳnh 29
2.1.3. Nhận xét kết quả khảo sát, thống kê phân loại. 30
2.2. Phân tích kết quả thống kê, phân loại 33
2.2.1. Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” biểu trưng cho vẻ đẹp của con người 34
2.2.2. Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” biểu trưng cho tình yêu 38
2.2.3. Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” biểu trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên 41
2.2.4. Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” biểu trưng cho cái đẹp 44
2.2.5. Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” biểu trưng cho thời gian 46
2.2.6. Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” biểu trưng cho sức sống, sự hồi sinh 49
2.2.7. Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” biểu trưng cho niềm tin, tương lai hạnh
phúc 51
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tín hiệu thẩm mĩ (THTM) là vấn đề liên quan đến những chuyên
ngành khác nhau. Bởi vậy, nó được xem xét dưới nhiều góc độ, trong đó xem
xét THTM trong tác phẩm văn chương dưới góc độ ngôn ngữ học là cách xem
xét có tính chất khả thi. THTM được coi là yếu tố thuộc hệ thống phương tiện
biểu hiện của nghệ thuật, mang chức năng phản ánh hiện thực. Nó giúp nhà
văn truyền đạt tư tưởng của mình tới bạn đọc và góp phần tạo nên giá trị thẩm
mĩ cho tác phẩm. Nói khác đi, nó có vai trò như chiếc cầu nối giữa người đọc
và tác phẩm. Vì vậy, việc phát hiện và đánh giá đúng đắn các THTM là một
việc làm cần thiết và quan trọng khi nghiên cứu văn học.
Trong thơ ca, THTM xuất hiện nhiều và chứa đựng nhiều ý nghĩa. Nó
tạo ra sự liên tưởng trong cách nói, cách suy nghĩ của người Việt. Các hình ảnh
như “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông…” đã trở nên quen thuộc trong thi
ca và trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân. Chúng tạo nên giá trị
thẩm mĩ đặc sắc cho nhiều tác phẩm nghệ thuật. Trong đó, “hoa” là một tín
hiệu có tính chất phổ biến và mang nhiều ý nghĩa. Vì vậy, phân tích tín hiệu
“hoa” để phát hiện thêm những nét đặc sắc trong việc sử dụng ngôn ngữ thơ ca
nói riêng và ngôn ngữ văn chương nói chung là một việc làm cần thiết.
1.2. Xuân Quỳnh là nữ nhà thơ trẻ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện
đại. Thơ chị mang cái nhìn trong trẻo, trẻ trung, có khi bồng bột nhưng rất
đằm thắm, chân thành trước cuộc đời, nhất là những xúc cảm về tình yêu
(Chồi biếc). Cùng viết về chiến tranh nhưng khác với các nhà thơ trẻ cùng
thời như Nguyễn Đức Mậu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Thanh Thảo,…,
Xuân Quỳnh cảm nhận chiến tranh bằng con mắt của một người mẹ trẻ, một
người phụ nữ xót xa trước mất mát nhưng luôn thiết tha sự sống yên bình
(Những năm ấy, Làng, Khi con ra đời). Thơ Xuân Quỳnh vì thế giàu vẻ đẹp
2
nữ tính, thể hiện cái tôi trữ tình mạnh mẽ, phong cách, có chiều sâu trải
nghiệm, chiêm nghiệm. Đó là tiếng lòng thành thực của một tâm hồn phụ nữ
với cách cảm, cách nghĩ đặc trưng cho giới mình mà vẫn đậm dấu ấn cá nhân.
Thơ chị luôn thường trực một khát vọng thiết tha, cháy bỏng về hạnh phúc
đời thường bình dị. Chị dành nhiều tâm huyết nhất cho đề tài tình yêu và trở
thành một trong những người viết thơ tình hay nhất ở thời đại chúng ta. Thơ
tình Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim yêu vừa nồng nhiệt, bạo dạn, vừa dịu
dàng, đằm thắm, lại có cái điềm tĩnh, sâu sắc của sự từng trải, biết chấp nhận
những hữu hạn của cuộc đời. Có lẽ vì thế mà nhiều người yêu mến, quý trọng
thơ chị, coi đó là triết lí về tình yêu của mình.
THTM “hoa” là một tín hiệu cứ trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh. Vì
thế, việc nghiên cứu THTM “hoa” trong thơ chị sẽ giúp chúng ta phần nào
hiểu rõ hơn về những tầng bậc ý nghĩa của tín hiệu này và xa hơn là phong
cách nghệ thuật của nhà thơ.
2. Lịch sử vấn đề
Khái niệm THTM xuất hiện cùng với khuynh hướng cấu trúc trong
nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật từ những năm giữa thế kỷ XX và được tiếp
nhận vào Việt Nam từ những năm 70 của thế kỷ này qua các bản dịch công
trình khoa học, các bài viết của Đỗ Hữu Châu “Lý thuyết hệ thống trong ngôn
ngữ học dưới ánh sáng của phương pháp luận khoa học của Mác”, Nguyễn
Lai “Từ một số luận điểm của Mác suy nghĩ về bản chất tín hiệu ngôn ngữ”,
Hoàng Trinh “Từ kí hiệu học đến thi pháp học”, Trương Thị Nhàn “Sự biểu
đạt bằng ngôn ngữ các kí hiệu thẩm mĩ không gian trong ca dao”,… Cho đến
nay, vấn đề THTM đang được quan tâm và việc nghiên cứu tác phẩm văn học
thông qua các THTM trở nên phổ biến hơn. Việc nghiên cứu THTM đã được
đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu và luận văn khoa học.
Nhiều luận án triển khai theo hướng nghiên cứu THTM đã khẳng định
được ý nghĩa thực tiễn của hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ
3
học, đồng thời có những đóng góp, bổ sung quan trọng vào lí thuyết về
THTM. Có thể kể đến các luận án của các tác giả Bùi Thị Hồng “Tìm hiểu
vấn đề THTM trong thơ Huy Cận”, Lê Thị Tuyết Hạnh “Một số THTM trong
thơ Xuân Quỳnh”,…
Việc nghiên cứu về THTM tại khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2 đã từng có những khóa luận đó là:
- Tín hiệu “thuyền” trong thơ ca Việt Nam của sinh viên Vũ Thị Lý-
K32B Văn.
- Tín hiệu thẩm mĩ “trăng” trong thơ Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử của
sinh viên Nguyễn Thị Thu - K32C Văn.
- Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Tố Hữu của sinh viên Nguyễn
Phương Thanh - K33B Văn.
Nhìn chung, các khóa luận này đã cung cấp, củng cố những vấn đề lí
thuyết chung về THTM. Trong đó, chúng tôi quan tâm đặc biệt đến khóa luận
“Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Tố Hữu” của sinh viên Nguyễn Phương
Thanh- K33C Văn.
Trên cơ sở lí thuyết về THTM, sự phân loại và các đặc tính của THTM,
ở đề tài này, chúng tôi đi sâu xem xét tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Xuân
Quỳnh để thấy được bản chất của THTM với tư cách là một phương tiện biểu
đạt nội dung nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời làm nổi rõ phong cách nghệ
thuật của Xuân Quỳnh trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Cung cấp và khẳng định những vấn đề lí thuyết về ngôn ngữ học, đặc
biệt là phong cách học.
- Tìm hiểu tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Xuân Quỳnh nhằm đi sâu lí
giải tính đa nghĩa của THTM, từ đó giải mã những thông điệp thẩm mĩ được
nhà thơ gửi gắm.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
• Tập hợp những vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài: Khái niệm,
đặc tính THTM, vấn đề hằng thể và biến thể, cơ chế chuyển nghĩa ẩn dụ và
hoán dụ,…
• Thống kê, phân loại tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Xuân Quỳnh
• Phân loại, nhận xét kết quả thống kê rồi rút ra kết luận, nhân xét về
hiệu quả sử dụng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Xuân Quỳnh.
- Phạm vi nghiên cứu:
Số liệu thống kê về THTM “hoa” được chúng tôi khảo sát qua tập: “Xuân
Quỳnh - Không bao giờ là cuối” (Tuyển thơ - Nhà xuất bản Hội nhà văn).
Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát thêm ở các tập:
1. Lời ru trên mặt đất (1978), Nxb Tác phẩm mới
2. Sân ga chiều em đi (1981), Nxb Văn học
3. Thơ Xuân Quỳnh (2010), Nxb Văn học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
• Phương pháp thống kê: Thống kê qua các hằng thể và biến thể của
THTM “hoa”.
• Phương pháp phân loại: Phân loại THTM “hoa” theo cấp độ: THTM
đơn và THTM phức.
• Phương pháp phân tích: Phân tích tín hiệu “hoa” trong những ngữ liệu
tiêu biểu nhằm xác định hiệu quả sử dụng của chúng.
• Phương pháp tổng hợp: Sử dụng phương pháp tổng hợp để rút ra
những nhận xét, kết luận cần thiết.
5
6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ những cơ sở lí
thuyết về tín hiệu thẩm mĩ.
Qua việc thống kê, phân loại tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Xuân
Quỳnh, khóa luận có giá trị làm rõ ý nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mĩ
“hoa” và để làm rõ phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được cấu trúc thành 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong thơ Xuân Quỳnh
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Tín hiệu ngôn ngữ, THTM nói riêng và tín hiệu nói chung đều là nhưng
dạng vật chất tác động vào giác quan của con người để con người để con
người nhận thức và lĩnh hội được một nội dung ý nghĩa cần thiết về hiểu biết,
tư tưởng, tình cảm, hành động hay cảm xúc. Bởi vậy, để nghiên cứu THTM,
người ta phải xem xét nó trong phạm vi chung - tức phạm trù tín hiệu.
1.1. Tín hiệu
THTM về mặt bản chất cũng là một loại tín hiệu cho nên nó cũng mang
những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Vậy TH là gì?
Theo P.Guiraud định nghĩa: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động
của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác” (Dẫn theo
ĐHC [1, 51]). Theo cách hiểu này thì bất kì hình thức vật chất nào mà có khả
năng gợi ra trong kí ức của con người một hình ảnh nào đó thì đều được gọi là
tín hiệu cả, không phân biệt nguồn gốc của nó là tự nhiên hay nhân tạo có
chức năng giao tiếp hay không v.v…
Hay theo Từ điển Tiếng Việt [5, 1232] tín hiệu là dấu hiệu (thường là
quy ước) để truyền đi một thông báo. Ví dụ: hệ thống đèn giao thông hay biển
hiệu giao thông; tiếng trống, tiếng kẻng hay tiếng chuông báo hiệu giờ làm
việc hay học tập; mây đen báo hiệu cơn mưa giông; tiếng “tút tút” báo hiệu
giờ trên đài phát thanh;…
Kế thừa thành quả của những người đi trước, Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra
những đặc tính như là dấu hiệu nhận biết của một TH, gồm các nhân tố sau:
- Tín hiệu phải cho phép con người cảm nhận được bằng giác quan
(phải có một hình thức cảm tính - cái biểu hiện). Chẳng hạn âm thanh, màu
sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật thể…
7
- Tín hiệu phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó
(phải mang một nội dung ý nghĩa). Tức là cái mà nó đại diện cho không trùng
với chính nó.
- Tín hiệu phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó
- Tín hiệu nằm trong một hệ thống nhất định.
Theo Đỗ Hữu Châu tín hiệu là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào
các phương diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau.
Mỗi lần vận dụng một tiêu chí phân loại là có một kết quả phân loại. Những
tiêu chí phân loại mà Đỗ Hữu Châu đưa ra là:
1/ Dựa vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện;
2/ Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu;
3/ Dựa vào mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện;
4/ Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu;
Dựa vào mặt thể chất của tín hiệu có thể phân chia ra được các loại tín
hiệu như: tín hiệu màu sắc, tín hiệu âm thanh v.v…, trong đó tín hiệu ngôn
ngữ (THNN) được coi là một loại tín hiệu đặc biệt. Vậy THNN là gì?
1.2. Tín hiệu ngôn ngữ
Trong số các TH mà con người sử dụng hiện nay, ngôn ngữ là hệ thống
TH phổ biến nhất, lâu đời và quan trọng nhất trong cuộc sống của con người.
Theo F.De.Saussure: “Tín hiệu ngôn ngữ kết thành một không phải một
sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với hình ảnh âm thanh” [6, 138].
Với mỗi tín hiệu ngôn ngữ, theo nguyên lí chung của việc thành lập, mỗi tín
hiệu có hai mặt:
1. Mặt biểu hiện (hình thức âm thanh)
2. Mặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu).
Mặt hình thức của tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong
quá trình nói năng con người đã thiết lập nên và đã cụ thể cho mình, đó chính
là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ.
8
Còn mặt nội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông
điệp về những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống,
hoặc những dấu hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại.
Hai mặt này gắn bó mật thiết trong một ý niệm không thể có mặt này
mà không có mặt kia. Ta có thể hình dung qua sơ đồ sau:
Âm thanh
Ý nghĩa sự vật - logic
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, khác với những hệ thống vật chất
khác không phải tín hiệu, chẳng hạn kết cấu của một cái cây, một vật thể
nước, đá, kết cấu của một cơ thể sống… Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể
hiện ở những điểm sau:
- Các yếu tố của hệ thống vật chất không phải là tín hiệu có giá trị đối
với hệ thống vì có những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng. Hệ thống tín
hiệu cũng là hệ thống vật chất nhưng các yếu tố của nó có giá trị đối với hệ
thống không phải do những thuộc tính vật thể tự nhiên của chúng mà do
những thuộc tính được người ta trao cho để chỉ ra những khái niệm hay tư
tưởng nào đó.
- Tính hai mặt của tín hiệu: Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp
giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện mà thành. Cái biểu hiện trong ngôn
ngữ là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu hiện là khái niệm hay đối tượng
biểu thị.
Cái biểu hiện
Cái đƣợc biểu hiện
CĐBH
9
- Tính võ đoán của tín hiệu: Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được
biểu hiện là có tính võ đoán tức là giữa hình thức âm và khái niệm không có
mối tương quan bên trong nào. Nói cách khác, quan hệ giữa cái biểu hiện và
cái được biểu hiện hoàn toàn là do sự quy ước, hay do thói quen của tập thể
quy định chứ không thể giải thích lý do. Người ta không thể giải thích vì sao
người Việt lại dùng âm thanh “cây”, người Hán lại dùng âm thanh “mộc”,
người Nga dùng âm thanh “derevo” để chỉ cá thể thuộc giới thực vật.
- Giá trị khu biệt của tín hiệu: Trong một hệ thống tín hiệu, cái quan
trọng là sự khu biệt. Thuộc tính vật chất của mỗi tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở
những đặc trưng có khả năng phân biệt của nó. So sánh một vết mực trên giấy
và một chữ cái chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Cả vết mực lẫn chữ cái đều có bản
chất vật chất như nhau, đều có thể tác động vào thị giác như nhau. Nhưng
muốn nêu đặc trưng của vết mực phải dùng tất cả các thuộc tính vật chất của
nó như độ lớn nhỏ, hình thức màu sắc, độ đậm nhạt v.v…, tất cả đều quan
trọng như nhau. Trong khi đó cái quan trọng đối với một chữ cái chỉ cái làm
cho nó khác với chữ cái khác: chữ A có thể lớn hơn hay nhỏ hơn, đậm nét hơn
hay thanh nét hơn, có thể có màu sắc khác nhau nhưng đó vẫn chỉ là chữ A
mà thôi. Sở dĩ như vậy là vì chữ A nằm trong hệ thống tín hiệu, còn vết mực
không phải là tín hiệu.
- Tính hình tuyến của cái biểu đạt: Trong ngôn ngữ,“cái biểu hiện chỉ
là một loại âm thanh, bắt buộc phải xuất hiện theo một trình tự, không thể
xuất hiện đồng thời, vì thế nó là một thời gian, một hình tuyến, một ngữ
đoạn” [8, 154]. Nó có một bề rộng và bề rộng đó chỉ có thể đo trên một chiều
mà thôi. Theo Saussure đây là nguyên tắc rất quan trọng chi phối toàn bộ cơ
chế của ngôn ngữ. Khác với những loại tín hiệu nhìn thấy được khác vốn có
thể kết hợp cùng một lúc trên nhiều chiều, những cái biểu hiện nghe được chỉ
sử dụng tuyến thời gian, những yếu tố của nó hiện ra lần lượt cái này tiếp theo
10
cái kia thành một chuỗi. Một khi âm thanh được thay thế bằng văn tự, trật tự
chữ cái sẽ thay thế cho trật tự thời gian, và quan hệ tuyến tính được thể hiện
rõ ràng.
1.3. Tín hiệu thẩm mĩ
1.3.1. Thuật ngữ
Khái niệm THTM xuất hiện từ những năm giữa thế kỷ XX và được tiếp
nhận vào Việt Nam từ những năm 70 qua những bản dịch các công trình khoa
học xuất hiện trong các bài viết của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Lai, Hoàng Trinh,
Trần Ngọc Thêm, Trần Đình Sử… Theo Đỗ Hữu Châu thì “Tín hiệu thẩm mĩ
phân biệt với các tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên ở chỗ ý nghĩa của nó không bao
giờ chỉ dừng lại ở phạm vi tái tạo hiện thực mà phải là một tư tưởng, một tư
tưởng nào đó của người nghệ sĩ”. Vậy những điều kiện để khẳng định đâu là
một THTM gồm:
Thứ nhất, tín hiệu đó mang một ý nghĩa thẩm mĩ hay ý đồ sáng tạo của
người nghệ sĩ.
Thứ hai, tín hiệu đó phải tồn tại trong một hệ thống, chẳng hạn chữ
“rỗng” một mình nó không có giá trị tồn tại nhưng nếu nó đứng trong một bài
thơ có chủ đích dùng một hệ thống các chữ “rỗng nghĩa” tương tác với nhau
để tạo ra một âm giai nhất định thì nó sẽ trở thành một THTM.
Thứ ba, tín hiệu đó chứa đựng cái nhìn chủ quan có tính khám phá về
bản chất đời sống.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, tác
giả Đỗ Hữu Châu đã giải thích cụ thể hơn về THTM ngôn ngữ sau : “Tín hiệu
thẩm mĩ là phương tiện sơ cấp của văn học là ngôn ngữ - THTM cú pháp
THTM. TH ngôn ngữ tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức cái biểu hiện
của THTM” [1, 576].
Như vậy để trả lời cho câu hỏi: Thế nào là một THTM?, Đỗ Hữu Châu
chủ trương căn cứ vào sự tương ứng của THTM với các vật quy chiếu thuộc
11
thế giới hiện thực: “THTM phải tương ứng với các vật quy chiếu nào đấy
trong thế giới hiện thưc. Chẳng hạn như một con thuyền, một dòng sông, hay
một nỗi buồn nào đó” [1, 576]. Từ đó có thể hiểu THTM chính là toàn bộ
những yếu tố hiện thực, những chi tiết, những sự vật hiện tượng của đời sống
được đưa vào tác phẩm vì mục đích biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.
1.3.2. Phân loại tín hiệu thẩm mĩ
Căn cứ vào đặc tính cấp độ của tín hiệu thẩm mĩ, người ta chia tín hiệu
thẩm mĩ làm 2 loại:
1.3.2.1. Tín hiệu thẩm mĩ đơn
Là loại THTM được cấu tạo trên cơ sở một từ hay một ngữ.
VD:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Trong bài ca dao chúng ta thấy có hàng loạt các THTM đơn: mận, đào,
vườn hồng, ai, lối, vào. Những THTM đơn này thể hiện những ý nghĩa thẩm
mĩ khác nhau. Có thể hình dung qua sơ đồ:
Lời nói ra
Nội dung nhận được
Bây giờ mận mới hỏi đào
Bây giờ anh mới hỏi em
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Em đã có người yêu chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Anh hỏi thì em xin trả lời
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Em đã đến tuổi cập kê nhưng chưa
có người yêu.
1.3.2.2. Tín hiệu thẩm mĩ phức
Là tín hiệu bao trùm cả tác phẩm văn học tương đương với các hình
tượng nghệ thuật. Nó là sự tổ hợp, kết hợp của các tín hiệu thẩm mĩ đơn.
12
VD: Trong bài thơ Bánh trôi nước của nhà thơ Hồ Xuân Hương, bánh
trôi nước là một THTM phức. Thông qua hình ảnh cái bánh trôi - một món
quà thông thường ở nông thôn, nhà thơ muốn nói đến phẩm chất, thân phận
đắng cay thiệt thòi của người phụ nữ.
1.3.3. Nguồn gốc của tín hiệu thẩm mĩ
Theo Đỗ Hữu Châu, xét theo nguồn gốc có hai loại THTM:
+ Những THTM được rút ra từ hiện thực cuộc sống.
+ Những THTM được rút ra từ chính bản thân ngôn ngữ.
- Nguồn 1: Những THTM được rút ra từ hiện thực đời sống
Đây là những tín hiệu được xây dựng trên cơ sở những sự vật, sự việc
trong hiện thực khách quan. Mỗi một sự vật, sự việc đó được gọi tên bằng
một THNN tự nhiên. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhà văn đã quan
sát, chiêm nghiệm thực tế, lựa chọn những đối tượng từ thực tế để phản ánh
trong tác phẩm đồng thời thực hiện quá trình xây dựng, tái tạo lại thành
THTM chuyển đến người đọc những ý nghĩa thẩm mỹ.
VD:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Cặp quan hệ thuyền - bến là những sự vật có thật trong đời sống với
những thuộc tính cụ thể, thuyền là phương tiện di chuyển trên mặt nước có
đặc tính di động còn bến có đặc tính cố định. Trên cơ sở đó, tác giả dân gian
đã xây dựng thành THTM biểu hiện hình ảnh người ra đi (thuyền) và người ở
lại (bến).
Tín hiệu thẩm mĩ còn có thể là thế giới nội tâm con người. Đó là những
trạng thái, tình cảm, cảm xúc của con người.
13
VD: Bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đã diễn tả những cung
bậc cảm xúc của tác giả từ tình yêu quê hương Kinh Bắc đến nỗi đau đớn, xót
xa khi quê hương bị giặc tàn phá.
- Nguồn 2: Tín hiệu thẩm mĩ được rút ra từ chính bản thân ngôn ngữ
Thứ nhất là ngôn ngữ của văn học dân gian. Nói khác đi những tín hiệu
trong văn học dân gian đã cung cấp chất liệu để xây dựng THTM.
VD: Con cò trong văn học dân gian xuất hiện với hình ảnh nhỏ bé, bất
hạnh, bị áp bức đè nén như: Con cò lặn lội bờ sông hay Con cò mà đi ăn
đêm Nhưng trong tác phẩm văn chương thì nhà văn đã sáng tạo lại tạo nên
các THTM mới như Tú Xương trong bài Thương vợ thì hình ảnh con cò chỉ
hình tượng người phụ nữ mà cụ thể ở trong bài là hình ảnh Bà Tú.
Thứ hai, THTM là những điển cố, điển tích trong văn học trung đại
Việt Nam, thành ngữ, tục ngữ.
VD: Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng các điển cố như:
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Các điển tích được du nhập từ nền văn hóa khác xây dựng thành các THTM.
VD: Gót chân Asin.
Gần các điển cố là các thành ngữ, tục ngữ. Đây là nguồn cung cấp
THTM cho văn chương. Khi sử dụng thành THTM, thành ngữ chỉ giữ lại
những chi tiết mà không cần phải dẫn nguyên văn thành ngữ. Các tục ngữ
cũng như vậy.
VD: Trong bài Thương vợ, Tú Xương đã sử dụng các thành ngữ như:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Thứ ba, lấy những từ gợi tả, gợi cảm.
VD: Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt.
14
(Ta đi tới - Tố Hữu)
Câu thơ như tiếng hát reo vui với tất cả niềm sung sướng và tự hào của
nhà thơ khi hòa bình được lập lại trên đất nước. Niềm vui sướng ấy được nhà
thơ bộc lộ qua các từ ngữ mang tính chất gợi tả, biểu cảm: đẹp vô cùng, ta ơi,
ngào ngạt.
Thứ tư, những từ ngữ địa phương:
VD:
Chúng tôi đi
Nhớ nhất câu ni
Dân chúng cầm tay lắc lắc
Độc lập nhớ viền chơi ví chắc
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Việc sử dụng các từ ngữ địa phương trong đoạn thơ này gợi cho người
đọc hình dung được cuộc chia tay cảm động giữa chúng tôi (chiến sĩ cách
mạng) và những người dân Thanh Hóa.
1.3.4. Chức năng của tín hiệu thẩm mĩ
1.3.4.1. Chức năng biểu hiện (chức năng thông tin)
Là chức năng phản ánh thế giới hiện thực thông qua các hình tượng đó
có thể là sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh như: hình ảnh cái sóng
trong bài Sóng của Xuân Quỳnh. Đó là các con sóng biển với các trạng thái
như: dữ dội, dịu êm, , những con sóng trên mặt nước hay dưới lòng sâu,
những con sóng bên bờ hay những con sóng ngoài khơi,
Đó cũng có thể là các trạng thái tình cảm, cảm xúc của người con gái
trong tình yêu.
1.3.4.2. Chức năng bộc lộ cảm xúc
Chức năng này vừa bộc lộ cảm xúc của tác giả vừa tác động đến cảm
xúc của người đọc. Nó thường gợi ở người đọc nhiều cảm xúc thấm mĩ như ở
tác giả.
15
VD:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
(Từ ấy - Tố Hữu)
Bốn câu thơ trên là tiếng reo ca náo nức của một tâm hồn trẻ đang băn
khoăn tìm lẽ sống thì bắt gặp ánh sáng của lí tưởng Đảng. Niềm vui sướng
của nhà thơ trẻ khi gặp gỡ lí tưởng cách mạng giống như một khu vườn tràn
đầy âm thanh, hương thơm và màu sắc. Nó khiến cho người đọc cũng cảm
thấy mình như đang chung niềm vui giác ngộ lí tưởng cách mạng, từ đó giúp
con người biết sống vì người khác, vì nhân dân đất nước.
1.3.4.3. Tín hiệu thẩm mĩ tạo nên tính sinh động và cụ thể cho tác phẩm văn
chương.
VD: Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ngôn ngữ trong bài ca dao này không chỉ cung cấp thông tin về nơi
sinh sống, cấu tạo, hương vị và sự trong sạch của cây sen, mà quan trọng là
khẳng định và nuôi dưỡng một tư tưởng, một cảm xúc thẩm mĩ: cái đẹp có thể
hiện hữu và bảo tồn ngay trong những môi trường có nhiều cái xấu.
1.3.5. Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ
1.3.5.1. Đặc tính tác động
Đặc tính này có cơ sở từ bản chất của tín hiệu là một kích thích vật chất
tác động đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác mà trước
hết là hình thành nên những hình tượng nghệ thuật. Như vậy có thể hiểu hình
16
tượng nghệ thuật là sản phẩm của thế giới tinh thần được THTM làm đầy lên
trong thế giới chủ thể tiếp nhận.
Đặc tính tác động còn được thể hiện ở chức năng giao tiếp nghệ thuật
mang tính đối thoại đặc thù của nó để nhằm hướng tới một hoặc nhiều chủ thể
tiếp nhận dù có mặt hay không có mặt. Nhờ có chủ thể tiếp nhận thì THTM
mới có thể phát huy được hiệu quả sức kích thích của nó và mới có thể xác
định đươc nội dung và tư tưởng, cảm xúc của THTM trong tác phẩm.
1.3.5.2. Đặc tính biểu hiện
Chức năng quan trọng của nghệ thuật là phản ánh hiện thực và THTM
phải mang nội dung hiện thực nhất định, phải gắn với hiện thưc. Điều này có
nghĩa là mỗi THTM ứng với một sự vật, hiện tượng thuộc thế giới vật chất
hay tinh thần.
Theo Nguyễn Lai: Tín hiệu bao giờ cũng mang một nội dung thông báo
đến một đối tượng nào đó, nếu không mang một nội dung thông báo tín hiệu
không còn là tín hiệu. Như vậy, điều đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây là: chỉ có
qua đối tượng tiếp nhận, tính hai mặt không thể tách rời của tín hiệu cùng với
hiệu lực thông báo mới trở thành hiện thực.
Sự biểu hiện hiện thực của THTM trong văn học đó là những từ ngữ,
kết cấu mang nội dung biểu vật, biểu niệm gắn với hiện thực phản ánh trình
độ nhận thức, năng lực cảm xúc của con người. Mặt khác, sự biểu hiện của
THTM còn liên quan đến quá trình liên tưởng ở chủ thể tiếp nhận, bởi vậy
lượng thông tin biểu hiện trong THTM cũng không phải nhất thành bất biến.
1.3.5.3. Đặc tính biểu cảm
Để đạt đến một giá trị thẩm mĩ nhất định, THTM không chỉ dừng lại ở
nội dung đơn thuần là tái tạo hiện thực. Ngoài những thông tin về hiện thực,
THTM còn thông tin về những cảm xúc, tâm trạng nhất định của người nghệ
17
sĩ với bạn đọc. Chính vì vậy, nằm trong cấu trúc của THTM, tính biểu cảm là
một đặc tính quan trọng, mang dấu ấn chủ quan của người sáng tác.
Thành phần nghĩa biểu cảm này là kết quả của sự hòa quyện đồng điệu
giữa tình cảm chủ thể cá nhân tác giả với tình cảm khách thể mang tính nhân
loại đã được hình thức hóa, nghệ thuật hóa. Nhờ thế, nhân loại mới lí giải và
cảm thụ được THTM, và cùng mội nội dung hiện thực nhưng nếu với ý nghĩa
biểu cảm khác nhau thì sẽ tạo nên cái mới, cái sinh động, cụ thể và riêng biệt
cho THTM trong mỗi lần xuất hiện.
1.3.5.4. Đặc tính biểu trưng
Theo Từ điển tu từ phong cách thi pháp học của Nguyễn Thái Hòa [3,
103] tính biểu trưng là khả năng gợi ra một đối tượng khác ngoài sự thể hiện
cụ thể của dấu hiệu đó và được cộng đồng chấp nhận.
Biểu trưng, một mặt có tính hình tượng cụ thể, cái biểu hiện là một đối
tượng nào đó được quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, đó là ý nghĩa xã hội nào
đó được cả cộng đồng chấp nhận. Tính chất ước lệ chung cho cái biểu hiện
này chính là tính có lý do trong THTM nói chung. Đặc tính này còn cho thấy
lối tư duy, quan niệm xã hội… gắn với một cộng đồng nào đó, từ đó hình
thành ý nghĩa xã hội nào đó được cả cộng đồng chấp nhận.
VD: Hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam thường gắn với thân phận
thấp bé (Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao), đức
tính chịu thương, chịu khó (Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng
khóc nỉ non), có khi lại được hiểu là thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa
vất vả, lam lũ một nắng hai sương lo cho chồng con…
Cũng do tính biểu trưng mà hiệu lực, giá trị của THTM phụ thuộc vào
cách tri nhận, cách giải thích theo một thiên hướng nào đấy, một quy ước nào
đấy của cả cộng đồng mà có khi trái ngược với quan niệm của một cộng đồng
khác. Chẳng hạn biểu trưng con rồng trong hội họa Trung cổ và Phục hưng
tượng trưng cho cái ác và hận thù, nhưng đối với người Trung Hoa và người
18
Việt Nam nó là biểu tượng của hoàng đế với vương quyền tối thượng, là biểu
tượng của sự cao quý thiêng liêng.
1.3.5.5. Tính truyền thống và tính cách tân
Theo Đỗ Hữu Châu thì tính truyền thống là nói đến tính cố định, tính
lặp lại, tính kế thừa có sẵn của THTM trong kho tàng nghệ thuật của một dân
tộc còn nói đến cách tân là nói đến sự đổi mới, sự sáng tạo trong việc sử dụng
THTM của mỗi tác giả, thậm chí trong từng tác phẩm. Nếu không có sự cách
tân thì sự THTM sẽ trở nên bị mài mòn, bị mất đi giá trị gợi hình tượng, gợi
cảm xúc. Trái lại, nếu không có truyền thống thì THTM sẽ bị mất đi những
điều kiện nhất đinh về mặt liên tưởng giúp ích cho việc lĩnh hội THTM trong
tác phẩm.
Phải bắt nguồn từ ca dao thì những câu thơ sau của Nguyễn Du mới có
sức lay động lòng người đến như vậy:
VD: Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Nếu theo truyền thống thì ca dao chỉ diễn tả được quy luật như một lẽ
thường, đó chính là cảnh chia lìa xuôi ngược. Song Nguyễn Du đã cách tân ở
chỗ dùng lẽ thường ở đời đó mà khơi sâu được bi kịch tình yêu hết sức nghiệt
ngã giữa Thúy Kiều và Thúc Sinh, khi hai người chia tay để chàng Thúc về
quê thưa chuyện với Hoạn Thư mong được lấy nàng Kiều. Đây cũng làm cuộc
chia tay chưa biết ngày gặp lại, chưa biết sự thể sẽ thế nào nên nó thẫm đẫm
một màu sắc tâm trạng.
Tính cách tân của THTM thể hiện ở sự đổi mới sáng tạo khi sử dụng
THTM. Song cách tân phải quan hệ biện chứng hữu cơ với truyền thống chính
trong tương quan với truyền thống những nét mới mẻ độc đáo ở mỗi THTM
mới được bộc lộ. Cách tân có thể là việc sáng tạo một THTM trước đây chưa
có nhưng chủ yếu vẫn là sự cải tạo, đổi mới các THTM có sẵn.
19
1.3.5.6. Tính hệ thống
THTM bao giờ cũng thuộc về hệ thống, chịu sự chi phối của các yếu tố
khác nhau trong hệ thống thông qua những quan hệ nhất định. Hệ thống quyết
định chiều hướng tạo nghĩa cũng như chiều hướng luận nghĩa của THTM.
Thực chất là nghĩa của từ đã chịu sự chi phối của các yếu tố trong hệ thống.
Có thể suy ra là nghĩa cụ thể của ngôn ngữ chỉ có thể xác định thông qua một
tập hợp nhiều từ. Điều đó đòi hỏi không chỉ đối với người sử dụng ngôn ngữ
như là tín hiệu mà ngay cả với người tiếp nhận thì cũng đòi hỏi phải nhận ra
tập hợp có tính hệ thống trên. Trong Truyện Kiều Nguyễn Du viết: “Lửa tâm
càng dập càng nồng”. Thông thường không ai nói dập cơn ghen nhưng khi
kết hợp với lửa thì rõ ràng phải có dập. Chính tính hệ thống là cơ sở của tính
sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ, tạo ra được sự cộng hưởng ngữ nghĩa giữa
các yếu tố ngôn ngữ, mang lại những giá trị mới cho THNN.
Tính hệ thống của THTM được xem xét từ hai khía cạnh: khía cạnh nội
tại (cấu trúc) với những quy luật thuộc cấu trúc tác phẩm. Khía cạnh ngoại tại
(chức năng) với những quy luật về sự hoạt động thực hiện các chức năng giao
tiếp của sáng tạo nghệ thuật.
Về cấu trúc của THTM cần phân biệt hai bình diện là trừu tượng và cụ
thể. Thuộc bình diện trừu tượng là những hằng thể của THTM cùng những
mối quan hệ của hằng thể làm nên cấu trúc bề sâu mang tính trừu tượng cố
định của nó. Thuộc bình diện cụ thể là những biến thể của THTM cùng những
mối quan hệ giữa chúng làm nên cấu trúc bề mặt cụ thể hiện hữu của nó.
Những biến thể này được chia thành hai dạng thức: biến thể từ vựng - ngôn
ngữ (biến thể dùng hình thức âm thanh khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa
thẩm mĩ) và biến thể kết hợp (cùng một tín hiệu thẩm mĩ nhưng kết hợp với
các yếu tố ngôn ngữ khác nhau).