Lời Mở ĐầU
Lời Mở ĐầU
Sau gần 17 năm đổi mới, sức mạnh tổng thể nói chung và năng lực cạnh tranh
nói riêng của Việt Nam đã đợc cải thiện đáng kể. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội nớc ta đang đứng
trớc cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trởng, đi đôi
với chất lợng phát triển kinh tế, xã hội, đơng đầu với nhiều áp lực cạnh tranh gay gắt
trong tiến trình hội nhập.
Thép là một ngành Công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong công cuộc CNH-
HĐH, quá độ đi lên CNXH của Việt Nam. Ngành Thép cũng đang đứng trớc những
khó khăn nhất định khi Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập. Chính vì vậy, em
đã chọn đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép n ớc ta trong qúa
trình hội nhập khu vực và quốc tế để nghiên cứu và thực hiện.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
phần:
Phần 1. Lý luận chung về ngành thép và sức cạnh tranh của ngành thép Việt
Nam.
Phần 2. Thực trạng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập
khu vực và thế giới.
Phần 3. Các biện pháp để tăng cờng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
thép Việt Nam.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
Phần 1. Lý luận chung về ngành thép và sức cạnh tranh của ngành thép Việt
Nam.
1.1. Vai trò, vị trí của ngành Thép trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành thép là ngành Công nghiệp nặng cơ sở của mỗi quốc gia. Nền Công nghiệp
gang thép mạnh là sự đảm bảo ổn định và đi lên của nền kinh tế một cách chủ động,
vững chắc. Sản phẩm thép là vật t, nguyên liệu chủ yếu, là lơng thực của nhiều
ngành kinh tế quan trọng nh ngành cơ khí, ngành xây dựng; nó có vai trò quyết định
tới sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Đa số các nớc thành công về phát triển kinh tế đều xác định ngành thép là ngành
kinh tế mũi nhọn, hàng đầu và tập trung đầu t cho nó phát triển.
Trớc những năm 90, chỉ có các doanh nghiệp Nhà nớc tham gia sản xuất thép nh
Công ty Gàng thép Thái Nguyên, Công ty Gang thép Miền Nam nh ng sau đó, khi
chính sách đổi mới của Đảng trong phát triển kinh tế ra đời, ngành thép đã không
ngừng phát triển, dẫn chứng đó là sự ra đời 5 liên doanh cán thép, 2 công ty cán thép
100% vốn nớc ngoài và sau năm 2000, đã có thêm hàng loạt các công ty sản xuất thép
của t nhân, các công ty thép cổ phần và các công ty thép thuộc các đơn vị khác ngoài
bộ Công nghiệp, đa số lợng của các đơn vị lên gần 50 đơn vị.
Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển xây dựng ở Việt Nam ngày một gia
tăng, thị trờng thép từ đó cũng đợc mở rộng. Tính bình quân, tốc độ tăng trởng ngành
thép trong thời kì 1991-2001 là 25% và về cơ bản đã đáp ứng đợc nhu cầu thép xây
dựng đất nớc (đã 5 năm nay, gần nh không phải nhập khẩu thép thanh và thép cuốn
cho xây dựng). Theo thống kê của Hiệp hội thép Việt Nam, tính tới năm 2002, công
suất thiết kế của tất cả doanh nghiệp sản xuất thép ở Việt Nam đã đạt trên 4 triệu
tấn/năm, nhng do nhu cầu thị trờng và một số nhà máy mới đi vào sản xuất cha đạt
công suất thiết kế nên sản l ợng thép cán của năm 2002 chỉ đạt 2,4 triệu tấn.
3
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
Mặc dù có những sự phát triển đáng kể nhng nhìn tổng quát, ngành thép Việt
Nam đang ở điểm xuất phát thấp, chậm hơn so với các nớc trong khu vực khoảng 10
năm. Hiện tại Việt Nam chỉ có 3 dàn cán liên tục nhập từ Nhật Bản và Tây Âu có trình
độ tơng đối cao của 2 liên doanh Vinakyoe và Vina-Pasco (VPS). Ngoài ra, còn có hơn
10 máng cán thuộc loại bán liên tục, thiết bị phần lớn đợc sản xuất tại Đài Loan, Trung
Quốc, Việt Nam. Nh vậy, trừ 2 liên doanh, thiết bị cán thép của Việt Nam đều thuộc
thế hệ cũ, công nghệ thấp, tuổi thọ ngắn, quy mô nhỏ.
Có thể nói thép là một ngành công nghiệp còn non trẻ của đất nớc ta nhng lại
đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc CNH-HĐH, xây dựng CNXH hiện nay
của đất nớc. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế mở cửa và yêu cầu của quá trình
hội nhập khu vực và thế giới thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép là
hết sức cấp bách và cần thiết.
1.2. Tầm quan trọng của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới Việt Nam đã tham gia
ASEAN (1995), APEC (1998) và đang trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO.
Hiện nay, ngành thép vẫn đang đợc nhà nớc bảo hộ sản xuất bằng hàng rào thuế quan
với mức thuế khá cao. Mức thuế nhập khẩu đối với thép xây dựng là 40%, của các loại
sắt thép khác từ 0-20%. Bên cạnh đó, còn có sự bảo hộ bằng hàng rào phi thuế quan
nh: hạn ngạch, cấm nhập, trong khi đó thuế suất, thuế nhập khẩu đối với các sản
phẩm là đầu vào của ngành sản xuất thép nh: phôi thép, than mỡ, t ơng đối thấp (0-
5%), do đó hệ số bảo hộ thực tế của thép xây dựng tơng đối cao (90%) của các loại
thép khác là 26%. Nh vậy có thể nói, các doanh nghiệp thép Việt Nam đang tồn tại
nhờ rất nhiều vào sự bảo hộ của Nhà nớc.
Quá trình hội nhập, một mặt mở ra cơ hội để ngành thép phát triển đi lên, mặt
khác nếu ngành thép không đủ tiềm lực cạnh tranh sẽ dẫn đến bờ vực phá sản. Ngành
thép đang đứng trớc sự cạnh tranh gay gắt khi vào AFTA, khi thuế nhập khẩu các sản
phẩm thép sẽ giảm từ 40% xuống còn 20% và đến năm 2006 chỉ còn là 0-5%. Thời
4
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
điểm Việt Nam phải thực hiện các cam kết của khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã
đến. Các doanh nghiệp thép Việt Nam phải đói mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của
hàng hoá các nớc khác trong khu vực vào thị trờng nớc ta khi thuế suất hàng hoá nhập
khẩu chỉ còn từ 0-5%, bên cạnh đó các hàng hoá phi thuế quan cũng đợc dỡ bỏ hoàn
toàn, điều này buộc ngành thép phải thật sự bớc vào một cuộc cạnh tranh khắc nghiệt
trên thị trờng khu vực và quốc tế, chính thánh thức lớn này đặt ra yêu cầu cho ngành
thép Việt Nam, mà nòng cốt là Tổng công ty thép Việt Nam phải nâng cao sức cạnh
tranh để chủ động hội nhập.
Phần 2. Thực trạng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam trong quá trình
hội nhập khu vực và thế giới.
2.1. Thực trạng ngành thép Việt Nam.
Hiện nay, nớc ta có 19 doanh nghiệp sản xuất thép có quy mô lớn với tổng công
suất thiết kế khoảng 4,1 triệu tấn/năm. Ngoài ra, ngành thép còn có khoảng 50 cơ sở t
nhân với công suất thép cán khoảng từ 200.000 đến 400.00 tấn/năm. Trong năm 2002,
Việt Nam đã sản xuất 2,4 triệu tấn thép cán, tuy nhiên ngành thép nớc ta còn gặp rất
nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất hiện nay của ngành thép là phụ thuộc quá lớn vào
phôi thép nhập khẩu. Năm 2002, sản xuất phôi thép trong nớc mới chỉ đáp ứng khoảng
25% nhu cầu, còn lại 75% là nhập khẩu.
2.1.1. Phụ thuộc vào phôi thép nhập khẩu.
Theo Tổng cục Thống kê, năm nay, cả nớc đã nhập khẩu trên 4 triệu tấn sắt thép
trị giá 1.055 triệu USD tăng 34% giá trị so với cùng kỳ năm trớc. Trong đó, lợng phôi
thép nhập khẩu khoảng 1.81 triệu tấn, trị giá hơn 400 nghìn USD, tăng 18% so với
năm 2001 và gấp 4 lần so với lợng phôi thép sản xuất trong nớc (450 nghìn tấn).
Năm 2002, sản lợng thép cán toàn ngành đạt 2,38 triệu tán, tăng 25,4%. Trong
đó, Tổng công ty thép Việt Nam đạt 782 nghìn tấn, khu vực có vốn đầu t nớc ngoài đạt
450 nghìn tấn, các thành phần khác 501 nghìn tấn. Riêng phôi thép sản xuất trong nớc
5
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
đạt 450 nghìn tấn, tăng 18% so với năm 2001, trong đó Tổng công ty Thép Việt Nam
390 nghìn tấn.
Điều bất hợp lý là sản xuất phôi thép trong nớc mới chỉ đáp ứng đợc trên 10%
tổng công suất thiết kế của toàn ngành thép (3 triệu tấn/năm). Hiện trong nớc chỉ có
Tổng công ty Thép Việt Nam đầu t các cơ sở luyện tháp quy mô công nghiệp với công
suất 450.000-500.000 tấn phôi thép/năm, đáp ứng 50-55% nhu cầu cho các cơ sở cán
thép của Tổng công ty. Nhiều doanh nghiệp chỉ muốn đầu t vào lĩnh vực cán thép vì dễ
làm, thu hồi nhanh chứ không mấy ai đầu t sản xuất phôi thép.
2.1.2. Giá trần thép xây dựng đợc nới lỏng
Giá thép thành phẩm sản xuất trong nớc chủ yếu dựa vào giá nhập phôi thép (phôi
thép chiếm 90% giá thành). Cuối năm 2002 và đầu năm 2003, giá phôi thép nhập khẩu
tăng mạnh. Trong khi đó, Bộ Tài chính đã có quyết định tăng thuế nhập khẩu phôi thép
từ 7% lên 10% từ 1/1/2003 để hổ trợ sản xuất trong nớc, nên giá thành sản xuất thép
trong nớc đợc đội lên rất cao. Mặc dù ở trong điều kiện nh vậy, nhng cũng không có
chuyện các doanh nghiệp giảm nhập khẩu, giảm sản xuất, dẫn đến mất cân đối cung
cầu thị trờng. Trong 2 tháng đầu năm 2003, các doanh nghiệp liên doanh đã đa ra thị
trờng 115.000 tấn thép, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái (96.000 tấn). Các doanh
nghiệp thuộc Tổng công ty thép Việt Nam đa ra tiêu thụ 112.000 tấn, tăng 45% so với
cùng kỳ năm ngoái (77.000 tấn). Tính chung của cả hai khối lợng thép đa ra thị trờng
tiêu thụ là tăng 30% so với cùng kỳ.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã bỏ quy định giá trần đối với ngành thép, đây là
một sự can thiệp cần thiết để đảm bảo cho khả năng tồn tại của các doanh nghiệp. Điều
này dẫn đến việc các doanh nghiệp thép đồng loạt nâng giá bán sản phẩm để bù đắp
cho chi phí đầu vào, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất.
Khi Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế các sản phẩm sắt thép gia nhập AFTA, giá
nguyên liệu nhập vào thị trờng Việt Nam do lợi thế giá cả sẽ giảm nhng sản phẩm thép
của các nớc ASEAN sẽ thâm nhập vào thị trờng Việt Nam do lợi thế giá rẻ. Ngoài ra,
6
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
ngành thép cũng đang phải đối mặt với nạn thép giả, đội lốt thơng hiệu của một số
doanh nghiệp t nhân; phần lớn công nghệ trong ngành thép còn quá lạc hậu, chiếm tới
63% năng lực sản xuất.
2.1.3. Các dự án sản xuất phôi thép đang đợc đẩy nhanh.
Để giảm lợng thép nhập khẩu và tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm, Tổng
công ty Thép Việt Nam đa ra các biện pháp: đầu từ trang bị lại dây chuyền công nghệ
của một số nhà máy cán thép hiện có theo hớng hiện đại; tăng năng lực sản xuất phôi
thép và cán thép để đáp ứng nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy cán thép. Cụ thể là
đầu t xây dựng mới các cơ sở sản xuất phôi thép, nâng năng lực sản xuất từ 390 nghìn
tấn năm 2002 lên 1,5 triệu tấn vào năm 2005
Về nguyên liệu, ngành thép sẽ đẩy mạnh sản xuất phôi trong nớc nhng do việc thu
mua sắt thép phế liệu khó khăn nên dự kiến sản xuất khoảng 500 nghìn tấn, tăng
16,3%; nhập khoảng 2,1 triệu tấn phôi thép, tăng 13,5% so với năm 2002.
Các dự án sản xuất phôi thép đợc tập trung đầu t gồm dự án nhà máy thép Cái Lân
ở Quảng Ninh, công suất 500.000 tấn phôi/năm dự kiến sẽ đi vào hoạt động năm 2005,
dự án nhà máy thép Bà RịaVũng Tàu, dự kiến hoàn thành năm 2004 cùng với hai dự
án đầu t thêm dây chuyền sản xuất phôi thép của Nhà máy Gang thép Thái Nguyên và
Nhà máy Thép Miền Nam.
Ngành thép cũng sẽ tập trung khai thác các mỏ quặng, tận thu các nguồn sắt phế
liệu trong nớc, khai thác các nguồn nhập khẩu thép phế liệu ổn định để sản xuất phôi.
Một số mỏ quặng đợc tập trung khai thác là mỏ Quý Xa ở Lào Cai, mỏ Thạch Khê ở
Hà Tĩnh, mỏ Trại Cau, Tân Tiền ở Thái Nguyên, Phục Ninh ở Tuyên Quang, mở Ngờm
Cháng, Nà Rụa ở Cao Bằng.
Hiện nay, sản lợng phôi thép trong nớc mới chỉ đáp ứng đợc 30% nhu cầu cho sản
xuất thép cán, 70% còn lại vẫn phải nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất
thép trong nớc đều nhập khẩu phoi thép về sản xuất thép cán. Rất ít doanh nghiệp đầu
t sản xuất phôi thép vì chi phí đầu t quá lớn. Để có một dây chuyền sản xuất 100.000
7
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
tấn phôi/năm, doanh nghiệp cần đầu t 300 triệu USD. Trong khi đó, chỉ cần có khoảng
200 tỷ đồng là doanh nghiệp đã có một nhà máy sản xuất thép cán công suất 200.000
tấn/năm.
Việc đầu t sản xuất phôi thép cũng sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam hạ giá
thành sản phẩm, bớt phụ thuộc vào nguồn cung cấp cũng nh giá cả từ thị trờng thế giới
và đặc biệt giúp các doanh nghiệp chủ động trong hội nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA).
Theo Bộ Công nghiệp, năm 2003, nhu cầu thép các loại dự báo khoảng trên 5
triệu tấn, tăng 12,4% so với năm 2002. Dự kiến sản xuất trong nớc khoảng 2,73 triệu
tấn (chủ yếu là thép xây dựng). Nhu cầu nhập khẩu các loại thép tấm, thép lá, thép chế
tạo vào khoảng 2,3 triệu tấn.
2.2. Những vấn đề tồn tại của ngành thép.
2.2.1. Cơ cấu ngành thép ngày càng mất cân đối trầm trọng.
Mất cân đối giữa các khâu sản xuất quan trọng nhất: luyện gang và luyện thép,
luyện thép và cán thép, luyện thép lò thổi và luyện thép lò điện
- Luyện gang và luyện thép
Hiện nay, nớc ta chỉ có nhà máy liên hiệp gang thép Thái Nguyên là sản xuất
gang.
ở đây gang sản xuất trong các lò cao có dụng tích 100 m
3
, loại lò các nớc trên thế
giới đã loại bỏ từ lâu. Sản lợng ớc khoảng 0,2 triệu tấn/năm đợc đa vào lò điện phối
liệu vớ thép phế để nấu thép.
Do các ngành công nghiệp, nhất là ngành cơ khí, cha phát triển mạnh nệ sự thiếu
hụt gang cha bức bách. Song, hiện nay, sự thiếu hụt này đã bắt đầu thể hiện ngày càng
rõ. Vì vậy, nhiều địa phơng nh: Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang đã và đang có các
8
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
kế hoạch phát triển lò cao dung tích 20-100 m
3
để sản xuất gang đúc sản phẩm và các
linh kiện. Sản lợng khoảng vài vạn tấn mỗi cơ số.
Sẽ rất thiếu sót và có hậu quả xấu nếu không đẩy mạnh khâu sản xuất ganh cân
đối với sản xuất thép, thông thờng tỷ lệ đó là 1:1- một tỷ lệ đảm bảo sản xuất thép theo
dây chuyền cộng nghệ truyền thống khép kín và đáp ứng nhu cầu gang cho sự phát
triển các ngành kinh tế quốc dân.
- Luyện thép và cán thép
Đầu những năm 90 Chính phủ nhấn mạnh việc phát triển hạ nguồn trên cơ sở
nhập phôi thép là hoàn toàn đúng đắn. Tuy thế, chính phủ cũng đã đặt rất đúng việc
cần phải phát triển mạnh thợng nguồn. Đáng tiếc là chủ trơng nà đã không đợc thực
hiện nghiêm túc. Từ đó, tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các khâu luyện thép
và cán thép.
Hiện nay, công suất các nhà máy cán thép ở nớc ta đã đạt 4 triệu tấn/năm, song
công suất các nhà máy luyện thép lò điện mới chỉ đạt khoảng 0,4 triệu tấn/năm bằng
1/10 khả năng cán. Để đáp ứng nhu cầu thép sản phẩm, nớc ta hàng năm phải nhập
khẩu hàng triệu tấn phôi thép.
Việc nhập khẩu phôi thép tốn ngoại tệ, bị động, giá cả luôn giao động, chất lợng
khó đảm bảo, giá thành sản phẩm cao, tính cạnh tranh yếu.
Sự mất cân đối ngày càng khó khắc phục và ngày càng gây hậu quả xấu cho
ngành thép.
- Luyện thép lò điện và luyện thép lò thổi
Nh đã nói ở trên, tỷ lệ sản xuất thép lò điện ở các nớc trên thế giới, tuỳ từng quốc
gia, giao động trong phạm vi 30-40% tổng sản lợng thép luyện ra
9
Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
ở những nớc có ngành công nghiệp phát triển, có nguồn điện phong phú, có
nguồn thép phế dồi dào, tỷ lệ thép lò điện thờng vợt quá tỷ lệ trên, còn lại là thép lò
thổi.
Lò điện thờng sử dụng sản xuất các loại thép và hợp kim cao cấp có những tính
năng đặc biệt hiệu quả kinh tế cao.
ở nớc ta nguồn điện với giá rẻ không phong phú, không có nhiều sắt thép phế,
việc sử dụng lò điện luyện thép với tỷ lệ 100% nh hiện nay và trong tơng lai là rất phi
lý, không kinh tế.
Lò điện phải luyện các mác thép và hợp kim cao cấp. Muốn vậy phải có thép phế
tốt, tức loại thép phế không chứa các tạp chất có hại, đặc biệt các loại tạp chất kim loại
màu, hàm lợng < 0,10%. Giá loại thép phế này có thể tới 150 USD/tấn (1996). các loại
thép phế khác cũng phải đảm bảo hàm lợng tạp chất < 0,15% thì mới có thể luyện thép
tốt. Giá loại thép phế này vào khoảng 120-130 USD/tấn (1996). Giá thép phế trên thế
giới ngày càng tăng.
Hiện trên thế giới còn một kho thép phế đồ sộ là những thiết bị quá hạn sử dụng
đợc thải ra, khoảng 700 triệu tấn, nhng do trong những thiết bị này có lẫn rất nhiều chi
tiết kim loại màu và nhiều loại thép có thành phần khách nhau, cha có công nghệ xử lý
nên còn cha đợc sử dụng.
Các loại thép phế nớc ta tự có và nhập về, đại bộ phận cha đợc phân loại, thuộc
loại tạp phí lù, có hàm lợng tạp chất cao, loại tạp chất gì, số lợng bao nhiêu đều
không rõ. Vì vậy, chỉ có thể dùng luyện thép cacbon xây dựng thông thờng. Không thể
nhặt các tạp chất trong lò thép ra nh nhặt các hạt sạn trong nồi cơm nh một số phát
biểu và muốn ngời khác cũng suy nghĩ nh mình.
Muốn phát triển thép lò điện đúng chức năng, phải hình thành một công nghệ
phân loại và xử lý thép phế, không thể làm tuỳ tiện nh hiện nay.
2.2.2. Chủng loại sản phẩm rất mất cân đối.
10