Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nghiên cứu đặc tính sinh dược học của một số phân đoạn dịch chiết từ lá cây khoai lang (Ipomoea batatas (L) Poir.)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 75 trang )



1
















































Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng đại học s- phạm hà nội 2



Kim đình tiến




Nghiên cứu đặc tính sinh d-ợc học

của một số phân đoạn dịch chiết
từ lá cây khoai lang
(Ipomoea batatas (L.) Poir.)


Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60 42 30

luận văn thạc sĩ sinh học thực nghiệm

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Trần thị ph-ơng liên



Hà Nội, 2010


2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Do sự phát triển của xã hội hiện nay kéo theo nhịp sống công nghiệp
hiện đại của con người, sự không phù hợp về thay đổi lối sống, các chế độ ăn
uống mất cân đối dinh dưỡng là nguyên nhân dẫn đến nhiều căn bệnh nguy
hiểm như : bệnh đái tháo đường (Diabetes mellitus), bệnh béo phì (Obesity),
ung thư, tim mạch. Trong đó đái tháo đường (ĐTĐ) là căn bệnh phát triển
nhanh nhất hiện nay của xã hội.
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa gây tăng đường huyết
mãn tính do thiếu insulin tương đối hay tuyệt đối của tuyến tụy, nếu không
kiểm soát tốt sau một thời gian tiến triển kéo dài có thể gây nhiều biến chứng
nguy hiểm. Bệnh có tính chất dân tộc và chủng tộc đã và đang trở thành vấn

đề mang tính xã hội, bởi sự bùng phát nhanh chóng, mức độ nguy hại đến sức
khỏe, tốn kém cho người bệnh và kinh tế cộng đồng. Bệnh có tỷ lệ mắc ngày
càng cao, là một trong 3 bệnh (ung thư, tim mạnh, đái tháo đường) phát triển
nhanh nhất hiện nay của xã hội.[4], [35].
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): năm 1994, thế giới có 98.9 triệu
người mắc bệnh đái tháo đường, cuối năm 2002 có khoảng 177 triệu người,
con số này đã tăng lên 300 triệu người vào năm 2025. Riêng châu Á , số liệu
công bố tại hội nghị đái tháo đường quốc tế tổ chức vào tháng 12 năm 1997
tại Singapo: Năm 1995 châu Á có khoảng 62 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, cuối
năm 2002 con số này là 89 triệu người. Theo đánh giá của Hiệp hội ĐTĐ
quốc tế (IDF) năm 2005 số người mắc bệnh đái tháo đường tại châu Á tăng
lên 1.7 lần.WHO đã cảnh báo có thể xuất hiện đại dịch ĐTĐ ở châu Á vào thế
kỷ 21 [3], [4].


3
Việt Nam, năm 1990 tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở Hà Nội là 1.2%, Huế là
0.96% và thành phố Hồ Chí Minh là 2.5%, năm 2000 Viện Nội tiết Trung
ương điều tra tại khu vực nội thành Hà Nội tỷ lệ ĐTĐ là 4% dân số và 7% ở
tuổi > 35 tuổi. Cuộc điều tra do Viện Nội tiết tiến hành năm 2001 tại 4 thành
phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy tỷ
lệ ĐTĐ trong độ tuổi 30- 64 tuổi là 4.9% [3], [4].
Sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ người mắc bệnh làm cho ĐTĐ trở thành
một vấn đề lớn cho sức khỏe vì bệnh có tỷ lệ mắc, chết trầm trọng trong quá
trình trị liệu lâu dài, đặc biệt là ĐTĐ type 2 một trong những bệnh phổ biến
nhất trong bệnh ĐTĐ. ĐTĐ có thể mang nhiều biến chứng nguy hiểm như:
biến chứng võng mạc, suy thận, biến chứng mạch máu lớn, tổn thương bàn
chân dẫn đến cụt Vì vậy đại đa số người bệnh đều có nhu cầu chữa bệnh
một cách an toàn. Mỗi năm nước Mỹ đã phải chi hàng tỉ đô la cho điều trị
ĐTĐ bằng các thuốc do tổ chức an toàn thực phẩm và dược phẩm Mỹ phê

chuẩn (Food and Drug Aministration - FDA) như: Metformin, Orlistat,
Sibutramin, Ephedrin, Fenfluramin. Song hầu hết các thuốc này đều có nguồn
gốc tổng hợp, thường có tác dụng phụ và đắt tiền. Trước tình hình đó ủy ban
chuyên gia của (WHO) đã khuyến nghị nên sử dụng các thuốc có nguồn
gốc thảo dược sẵn có, giá thành rẻ và ít độc tính [3], [4], [9], [13], [22],
[25], [43].
Việc nghiên cứu, khảo sát thành phần hóa học và tác dụng dược lý
của các loài thảo mộc trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng đã và
đang phát triển, mang một tầm quan trọng đặc biệt. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu của M.Yoshimoto và cộng sự (2004) về tác động hạ glucose huyết
của lá Khoai lang (Ipomoea batatas (L.) Poir.) trên mô hình chuột nhắt gây bệnh
bằng STZ [71], chúng tôi chọn đề tài:


4
“Nghiên cứu đặc điểm sinh dược học của một số phân đoạn dịch chiết từ lá
cây Khoai lang ăn ngọn VD
2
(Ipomoea batatas (L.) Poir.)”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của một số phân đoạn dịch chiết
từ lá cây Khoai lang trên mô hình chuột đái tháo đường type 2 thực nghiệm.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Khảo sát sơ bộ thành phần các hợp chất tự nhiên có trong lá rau
Khoai lang ăn ngọn VD
2
(Ipomoea batatas (L.) Poir.).
2. Định lượng polyphenol tổng số theo phương pháp Folin – Ciocalteau.
3. Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của các phân đoạn dịch chiết lá
rau Khoai lang ăn ngọn VD

2
(Ipomoea batatas (L.) Poir.) trên mô hình chuột
ĐTĐ mô phỏng type 2.
4. Định hàm lượng glycogen trong gan chuột ĐTĐ type 2 sau 21 ngày
điều trị thực nghiệm.
4. Đóng góp mới của đề tài
Đánh giá được khả năng hạ glucose huyết của các phân đoạn dịch chiết
lên mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng type 2 thông qua chỉ số glucose huyết và
xác định hàm lượng glycogen của gan chuột sau 21 ngày điều trị.










5
NỘI DUNG
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cây Khoai lang ăn ngọn VD
2
(Ipomoea batatas (L.) Poir.)
1.1.1. Thực vật học
Khoai lang ăn ngọn VD
2
là giống nhập nội từ Đài Loan, được Trung
tâm Tài nguyên thực vật, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, An Khánh,

Hoài Đức, Hà Nội lưu giữ nguồn gen. Đây là giống Khoai lang ăn rau đang
được trồng rộng rãi còn gọi là cam thử, phiên chử, cam chư, phan chư, cam
thự, hồng thự, có tên khoa học là (Ipomoea batatas (L.) Poir.), thuộc họ Khoai
lang Convolvulaceae, là cây thảo sống lâu năm ở nước ta, thích ứng rộng và
trồng được ở nhiều vùng sinh thái khác nhau, có thân mọc bò, dài 1-2m. Rễ
phình thành củ nhỏ, ruột trắng, vỏ tím giá trị sử dụng kém. Lá sẻ thùy sâu có
cuống dài, mầu xanh đậm, mầm nhánh tái sinh khỏe (3-4 nhánh cùng mọc
một lúc) nên cho nhiều ngọn gần như rau muống. Hoa màu tím nhạt hay
trắng, mọc ở đầu cành hay nách lá.
1.1.2. Phân loại, nguồn gốc và phân bố cây Khoai lang
Khoai lang (Ipomoea batatas (L.) Poir.) là cây hai lá mầm thuộc chi
Ipomoea, họ Bìm bìm (Convolvulaceae) [9], [63]. Trong tổng số 50 chi và
hơn 1000 loài thuộc họ này thì Ipomoea batatas là loài có ý nghĩa kinh tế
quan trọng và được sử dụng làm lương thực. Số loài Ipomoea dại đã được xác
định là hơn 400 loài nhưng loài Ipomoea batatas là loài cây trồng duy nhất có
củ ăn được. Cây Khoai lang với thân phát triển lan dài, các lá có nhiều hình
dạng khác nhau từ dạng lá đơn đến chia thùy sâu [19]. Mặt khác, cây Khoai
lang còn có khả năng thích ứng rộng hơn các cây trồng khác như cây sắn, củ
từ, củ mỡ Cây Khoai lang khác với các loài khác về màu sắc vỏ củ (trắng,
đỏ, kem, nâu, vàng, hoặc hồng ) hay màu ruột củ (trắng, kem, vàng, nghệ,
đốm tím ) và khác nhau về khả năng đề kháng với sâu bệnh.


6
Hầu hết các bằng chứng về khảo cổ học, ngôn ngữ học và sử học đều
cho thấy châu Mỹ là khởi nguyên của cây Khoai lang (Trung hoặc Nam Mỹ).
Bằng chứng lâu đời nhất là những mẫu Khoai lang khô thu được tại hang
động Chilca Canyon (Peru) sau khi phân tích phóng xạ cho thấy có độ tuổi từ
8.000 đến 10.000 năm [45]. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học về cây Khoai lang
còn được tìm thấy tại thung lũng Casma của Peru có độ tuổi xấp xỉ 2.000 năm

trước công nguyên [59] và cây Khoai lang thực sự lan rộng ở châu Mỹ khi
người châu Âu đầu tiên đặt chân tới.
Vì vậy, Khoai lang được coi là nguồn lương thực quan trọng của người
Mayan ở Trung Mỹ và người Peruvian ở vùng núi Andet (Nam Mỹ).
Vào năm 1492 trong chuyến vượt biển đầu tiên của Christopher
Columbus đã tìm ra Tân thế giới (châu Mỹ) và phát hiện ra Khoai lang được
trồng ở Hispaniola và Cuba. Từ đó, Khoai lang mới thực sự lan rộng ở châu
Mỹ và sau đó được di thực đi khắp thế giới.
Đầu tiên Khoai lang được đưa về Tây Ban Nha, tiếp đó lan tới một số
nước châu Âu và được gọi là Batatas (hoặc Padada), sau đó là Spanish Potato
(hoặc sweet potato).
Các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đã thu nhập cây Khoai lang vào châu
Phi (có thể bắt đầu từ Môdămbic hoặc Ănggôla) theo hai con đường từ châu
Âu và trực tiếp từ vùng bờ biển Trung Mỹ, sau lan sang Ấn Độ.
Các thương gia Tây Ban Nha đã du nhập cây Khoai lang vào Philippin
và từ Philippin vào Phúc Kiến (Trung Quốc) năm 1594. Tuy nhiên, cũng có ý
kiến cho rằng Khoai lang vào Trung Quốc có thể sớm hơn từ Ấn Độ hoặc
Myanma.
Người Anh đã đưa Khoai lang vào Nhật Bản năm 1615 nhưng đã
không phát triển được. Đến năm 1674 cây Khoai lang đã được tái nhập vào
Nhật Bản từ Trung Quốc.


7
Cây Khoai lang được trồng trong phạm vi rộng lớn giữa vĩ tuyến 40
0

Bắc đến 32
0
Nam và lan đến độ cao 3.000m so với mặt nước [70]. Tuy nhiên,

cây Khoai lang vẫn được trồng nhiều ở các nước nhiệt đới, á nhiệt đới châu Á,
châu Phi và châu Mỹ La Tinh.
Ở Việt Nam, theo các tài liệu cổ như sách “Thực vật bản thảo”, “Lĩnh
nam tạp kỷ” và “Quảng Đông tân ngữ” [14], cây Khoai lang có nhiều khả
năng là cây trồng nhập nội và có thể được đưa vào nước ta từ nước Lã Tông
(đảo Luzon ngày nay) vào cuối đời Minh cai trị nước ta.
Trong “ Thảo mộc trang” có đoạn viết: Cam thự (Khoai lang) là loài củ
thuộc loài thử dự, rễ và lá như rễ khoai, củ to bằng nắm tay, to nữa bằng cái
bình, da tía, thịt trắng, người ta luộc ăn [14].
Sách “Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam” (Nhà xuất bản Khoa
học xã hội 1987 đã ghi: “Năm 1558 (năm Mậu Ngọ), khoai lang từ Philippin
được đưa vào Việt Nam, trồng đầu tiên ở An Trường - Thủ đô tạm thời của
đời nhà Lê Trung Hưng (Hậu Lê), nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh
Hoá”. Như vậy, Khoai lang đã có mặt ở Việt Nam cách đây khoảng gần 450
năm. Cây Khoai lang được giới thiệu vào Việt Nam có thể từ tỉnh Phúc Kiến -
Trung Quốc hoặc đảo Luzon - Philippin vào cuối thế kỷ 16 [8].
Hiện nay ở Việt Nam, tại các tỉnh phía Bắc, Khoai lang được trồng tập
trung nhiều nhất tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, . . .
Tại các tỉnh phía Nam, Khoai lang được trồng tập trung tại các tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng, và rải rác tại Quảng Ngãi, Phan Rang, Phan Thiết và Đồng
Nai.
Tuy là loại hoa màu có nguồn gốc nhiệt đới (Nam Mỹ, Ấn Độ), Khoai
lang vẫn có thể mọc được trên nhiều loại đất và khí hậu khác nhau.
Đất đai: Khoai lang có thể mọc được trên nhiều loại đất khác nhau từ
sa cấu cát đến sét nặng. Tuy nhiên loại đất thích hợp nhất vẫn là đất xốp dễ


8
thoát nước, có sa cấu từ cát đến thịt pha cát và phải màu mỡ. Khoai lang là
cây tương đối chịu mặn, pH thích hợp từ 4,2 - 8,3.

Khí hậu: Khoai lang chịu lạnh kém, mọc tốt ở nhiệt độ tương đối ấm áp
từ 15 - 35
0
C, có thể chịu được nhiệt độ lên đến 45
0
C. Vì vậy nó thích hợp ở
vùng khí hậu nhiệt đới, củ cho phẩm chất tốt, ít sơ và ngọt.
1.1.3. Thành phần hóa học
Củ Khoai lang chứa 24,6% tinh bột, 4,17% glucose. Khi còn tươi, củ
chứa 1,3% protein, 0,1% chất béo, các vitamin A, B, C, 4,24% tanin, 1,375%
pentosan. Khi đã phơi khô ở chỗ mát, trong củ có inosit, dextrin, acid
chlorogenic, phytosterol, carotin, adenin, betain, cholin.
Dây Khoai lang chứa adenin, betain, cholin. Ngọn dây Khoai lang có
một chất gần giống insulin, ở lá già không có chất này. Lá chứa chất nhựa tẩy
(1,95-1,97%) [9, 26].
1.1.4. Một số tác dụng Sinh - Dược và công dụng của cây Khoai lang
Khoai lang là một loại rau dân dã vừa ngon, vừa mát và bổ có tác dụng
phòng và chữa nhiều bệnh. Rau và củ Khoai lang là vị thuốc phòng và chữa
bệnh đã được dùng từ lâu trong dân gian, có nơi gọi nó là "sâm nam".
Rau Khoai lang tính bình, vị ngọt, không độc, bổ hư tổn, ích khí lực,
kiện tỳ vị, bổ thận âm, dùng chữa tỳ hư, kém ăn, thận âm bất túc. Kiêng kỵ
với các trường hợp tiêu chảy, viêm dạ dày đa toan, đường huyết thấp.
Lá được dùng để điều trị bệnh đái tháo đường, sổ giun móc, điều trị áp
xe và cầm máu quáng gà, thiếu sữa, phụ nữ băng huyết, đau lưng mỏi gối.
Rễ được sử dụng làm chất tăng tiết sữa.
Củ Khoai lang có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bồi bổ cơ thể, ích khí,
cường thận, kiện vị, tiêu viêm, thanh can, lợi mật, sáng mắt. Nó được dùng
chữa bệnh hen suyễn, vàng da, ung nhọt, viêm tuyến vú, phụ nữ kinh nguyệt
không đều, nam giới di tinh, trẻ em cam tích.



9
Khoai lang là một loại thức ăn tốt cho bệnh nhân tiểu đường. Ngọn dây
Khoai lang ăn ngọn VD
2
có một chất gần giống insulin. Các nghiên cứu còn
cho thấy, củ khoai lang chứa caiapo - một hợp chất giúp kiểm soát tốt lượng
đường và cholesterol trong máu người mắc tiểu đường type 2. Theo tiến sĩ
Bemhard Luđvik thuộc đại học Vienna (Áo), caiapo là chất kiểm soát bệnh
tiểu đường type 2 rất hiệu quả. Không một phản ứng phụ nào được ghi nhận ở
những bệnh nhân được điều trị bằng chất này. Lượng cholesterol máu ở nhóm
dùng caiapo cũng thấp hơn hẳn so với nhóm đối chứng [71].
Ngoài ra Khoai lang còn dược dùng để chữa nhiều bệnh khác như: táo
bón, thiếu sữa, tùy vị hư yếu, không muốn ăn uống, viêm dạ dày, tá tràng.
1.2. Giới thiệu về một số hợp chất tự nhiên ở thực vật
1.2.1 Các chất thứ sinh thực vật (plant secondary metabolites)
Ở thực vật, ngoài protein, saccarid, lipid, vitamin, còn có những chất
khác có vai trò quan trọng trong đổi chất của cây được gọi là các chất thực vật
thứ sinh (plant secondary metabolites). Căn cứ vào tính chất hóa học, các hợp
chất thực vật thứ sinh được chia thành một số nhóm chính như: nhóm
phenolic, nhóm terpen và nhóm alkaloid. Nhiều công trình nghiên cứu gần
đây đã cho thấy các hợp chất polyphenol (thuộc nhóm hợp chất phenolic)
ngày càng ứng dụng rộng rãi trong điều trị một số bệnh nan y như: ung thư,
béo phì, tiểu đường …
a. Các hợp chất phenolic từ thực vật
Hợp chất phenolic là nhóm các chất khác nhau rất phổ biến trong thực
vật. Đặc điểm chung của chúng là trong phân tử có vòng thơm (benzene)
mang một, hai hay ba nhóm hydroxyl (-OH) gắn trực tiếp vào vòng benzene.
Dựa vào thành phần và cấu trúc người ta chia hợp chất phenolic thành 3 nhóm
nhỏ [45]:



10
Nhóm hợp chất phenolic đơn giản: Trong phân tử chỉ có một vòng
benzene và một vài nhóm hydroxyl. Tùy thuộc vào số lượng nhóm OH mà
chúng được gọi là các monophenol (phenol), diphenol (pyrocatechin,
hydroquynone), triphenol (pyrogalol, oxyhydroquynol…).
Nhóm hợp chất phenolic phức tạp: Trong thành phần cấu trúc phân
tử của chúng ngoài vòng thơm benzene (C
6
) chúng còn có dị vòng, mạch
nhánh. Đại diện nhóm này có axid cyamic, axid ceramic.
Nhóm hợp chất phenolic đa vòng: Là nhóm đa dạng nhất trong các
hợp chất phenol, có cấu trúc phức tạp do sự liên kết hoặc trùng hợp của các
đơn phân. Ngoài gốc phenol còn có các nhóm phụ dị vòng mạch nhánh hoặc
đa vòng. Nhóm này có flavonoid, tannin và coumarin.
Hợp chất phenolic được hình thành một cách dễ dàng trong tất cả các
cơ quan thực vật từ những sản phẩm đường phân và chu trình pentose
phosphate qua acid sikimic hay theo con đường acetate manolate qua acetyl –
SCoA. Trong số các chất polyphenol tự nhiên, flavonoid là nhóm chất quan
trọng nhất vì chúng phổ biến ở hầu hết các loài thực vật và mang nhiều hoạt
tính sinh dược học có giá trị.
b. Flavonoid
Flavonoid là những sắc tố, phần lớn có màu vàng (flavus - nghĩa là màu
vàng). Tuy nhiên một số sắc tố khác như xanh, đỏ, tím,…hoặc không màu
cũng xếp vào nhóm flavonoid vì chúng có chung đặc điểm cấu tạo.
• Cấu tạo hóa học và phân loại
Về cấu tạo hóa học, khung cacbon của flavonoid là C
6
- C

3
- C
6
, gồm 15
nguyên tử cacbon, hai vòng benzene A và B nối với nhau qua dị vòng C,
trong đó A kết hợp với C tạo khung chroman


11
9
10
8
5
7
6
2
3
O
1
4
1'
5'6'
4'
3'
2'
A
C
B

Flavan (2-phenyl chroman )

Tùy theo mức độ oxy hóa vòng pyran, sự có mặt hay không có mặt của
nối đôi giữa C
2
với C
3
và nhóm cacbonyl ở C
4
mà có thể phân biệt flavonoid
thành các nhóm phụ sau: Flavon và flavonol, flavanol (đihidro flavon),
chalcol, aurol, leucoantoxianidin, catechin, isoflavonoid, rotenoid và
neoflavonoid.
• Hoạt tính sinh học của flavonoid
* Tác dụng chống oxy hóa (antioxidant)
Flavonoid có khả năng kìm hãm các quá trình oxy hóa dây truyền gây
ra bởi các gốc tự do hoạt động. Tuy nhiên hoạt tính này mạnh hay yếu còn
phụ thuộc vào đặc điểm của từng flavonoid cụ thể.
Gốc tự do sinh ra trong quá trình sinh lý bình thường của cơ thể hay do
tác động bên ngoài là nguyên nhân gây phá hủy ADN, protein, lipid làm phát
sinh nhiều bệnh tật nguy hiểm và sự lão hóa cho cơ thể. Flavonoid có bản chất
polyphenol nên dễ dàng biến đổi dưới tác động của các enzyme có trong tế
bào động thực vật. Đặc biệt flavonoid có nhóm hyđroxyl ở vị trí ortho dễ
dàng bị oxy hóa bởi xúc tác của enzyme polyphenoloxydase và peroxydase
tạo semiquynol hoặc quynol [31]. Đây là các gốc tự do bền vững chúng có thể
nhận điện tử và trở thành dạng hidroquynol. Bởi vậy các chất này có khả năng
phản ứng với các gốc tự do hoạt động và loại chúng ra khỏi cơ thể. Quá trình
được tóm tắt qua sơ đồ sau:





12

O
2
+ Flavonoid (khử) Flavonoid (oxy hoá)

(Hiđroquynol) (semiquynol hoặc quynol)

Ngoài ra flavonoid còn có tác dụng bảo vệ các hệ thống sinh học nhờ
khả năng tạo phức với các kim loại chuyển tiếp như Fe
+2
, Cu
+2
… hoạt hóa
enzyme chống oxy hóa và ức chế sự oxy hóa.
* Tác dụng kháng khuẩn
Nhiều công trình nghiên cứu trong nước và thế giới đã chứng tỏ tác
dụng chống viêm nhiễm (anti-inflamatory) chống vi khuẩn (anti-bacterial) và
virut (antiviral) [5], [15].
* Tác dụng làm bền thành mạch máu
Các dẫn xuất đường của flavonoid có hoạt tính của vitamin P như rutin,
hesperidin… có tác dụng làm tăng sức bền và tính đàn hồi của thành mao
mạch, giảm sức thẩm thấu của hồng cầu qua thành mao mạch. Hoạt tính này
được ứng dụng trong chữa trị các rối loạn chức năng tĩnh mạch, giãn hay suy
yếu tĩnh mạch, trĩ, rối loạn tuần hoàn tĩnh mạch [27].
* Tác dụng giảm béo phì và lipid máu
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật cho thấy khi chuột
béo phì được điều trị bằng dịch chiết giàu flavonoid từ lá Bằng lăng
(Lagerstroemia specciosa L.) thì có trọng lượng giảm đáng kể (~ 10% ) [66].
Thí nghiệm tương tự với flavonoid từ lá Kim ngân (Lonicera japonica

Thunb.) đối với chuột cống trắng uống cholesterol cũng cho thấy có tác dụng
làm giảm các chỉ số cholesterol, triglycerid, LDL-c đồng thời tăng HDL-c
[39]. Naringin (C
17
H
32
O
4
) và hesperidin (C
28
H
34
O
15
) là những flavonoid có
hàm lượng cao trên họ cam chanh (Rutaceae) đã được nhiều nhà nghiên cứu
Polyphenoloxydase

Peroxydase
Polyphenoloxydase
Peroxydase


13
chiết xuất và thử tác dụng trên mô hình chuột béo phì cho kết quả tốt trong
việc làm hạ các chỉ số lipid máu [40], [44].
* Tác dụng hạ glucose huyết
O
O
OH

OH
OH
OH
OH

O
OH
OH
OH
CH
3
O
O
O
OH
OH
H
3
OC
O
O
OH
OH
OH

O
OH
OH
OH
OH

OH

Quercetin
Hesperidin
Epicatechin

Một số flavonoid được tách chiết từ nguyên liệu thực vật đã được
chứng minh là có tác dụng điều hòa glucose huyết như: Quercetin có trong Đỗ
trọng (Eucommia ulmoides Oliver.) [58], Hesperidin và Naringin có trong các
cây thuộc họ Rutaceae [43], Genistein và Daidzein có trong Đậu nành
(Glycine max L.) [21], Myricetin có trong cây Vông vang (Abelmoschus
moschatus) [21].
c. Tannin thực vật
Tannin là các hợp chất phenolic có trọng lượng phân tử cao có chứa các
nhóm hydroxyl và các nhóm chức khác như có khả năng tạo phức với protein
và các phân tử lớn khác trong điều kiện môi trường đặc biệt. Tannin thường là
các hợp chất vô định hình, có màu trắng, màu vàng nhạt hoặc gần như không
màu, có hoạt tính quang học, vị chát, dễ bị oxy hóa khi đun nóng hay khi để
ngoài ánh sáng.
Tác dụng sinh học của tannin là chất bảo vệ cây trồng trước sự tấn công
của vi sinh vật gây bệnh và côn trùng ăn lá [46], [54]. Trong y học, tannin
được sử dụng làm thuốc cầm máu, chữa đi ngoài, ngộ độc kim loại nặng, chữa
trĩ, viêm miệng, viêm xoang, điều trị cao huyết áp và đột quỵ [2].


14
OOH
OH
OH
OH

OH
O
OH
OH
OH
OH
OH


Procyanidin
Quebracho

d. Hợp chất coumarin
Coumarin là dẫn chất của α- purone có cấu trúc C
6
- C
3
dị vòng chứa
oxy. Coumarin kết tinh không màu hoặc màu vàng nhạt, vị đắng, cay, có mùi
thơm [35]. Tính chất hóa học đặc trưng là dễ dàng kết hợp với đường glucose
tạo thành glycosid dễ tan trong nước.
Hiện nay chúng ta biết đến 1500 hợp chất coumarin khác nhau khi
nghiên cứu 800 loài thực vật. Ta cũng dễ dàng tìm thấy coumarin trong tất cả
các bộ phận khác nhau của cây như: áo hạt, quả, hoa, rễ, lá, thân…Coumarin
cũng có vai trò là một nhóm chất phòng thủ hóa học hữu hiệu chống lại vi
khuẩn và tác nhân có hại của môi trường. Tuy nhiên cho tới nay con đường
tổng hợp coumarin vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ [44].
O
O


Coumarin
Coumarin sử dụng trong đời sống hàng ngày như làm nước hoa, hương
liệu, làm chất chống đông máu và chất diệt loài gặm nhấm. Trong y học dẫn
xuất của coumarin có tác dụng chống co thắt, giãn nở động mạch vành, làm


15
bền và bảo vệ thành mạch, ngăn cản đột quỵ [44]. Một số coumarin khác có
tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm, kháng khối u, trừ giun sán và giảm đau.
e. Alkaloid thực vật
Alkaloid là hợp chất chứa nitơ, đa số có nhân dị vòng và có tính kiềm,
thường gặp ở thực vật và động vật. Đa số các alkaloid thành phần chứa oxy ở
thể rắn (cafein), không có oxy thường ở thể lỏng dễ bay hơi (nicotin).
Alkaloid thường không có màu, không mùi và vị đắng. Một số alkaloid có
màu vàng như berberin, palmitin. Các alkaloid ở dạng base thường không tan
trong nước [44].
N
N
N
N
CH
3
CH
3
CH
3
O
O
Caffein


O
NH
H
OH
OH
Morphine

N
N
CH
3
Nicotin


Alkaloid có tính kiềm yếu, do các mạch cacbon chứa nitơ quyết định.
Chúng có thể liên kết với kim loại nặng tạo phức và phản ứng với một số
thuốc thử đặc trưng như: Bouchardat (kết tủa màu nâu sẫm), Vans-Mayer (kết
tủa trắng ánh vàng) hay Dragendroff (màu da cam, nâu đỏ).
Loài người có lịch sử hơn 2000 năm nghiên cứu và sử dụng alkaloid.
Cho tới nay có hơn 12000 alkaloid khác nhau được phân lập. Chúng không
phổ biến trong tự nhiên mà chỉ tập trung ở một số loài thực vật có hoa
(khoảng 20% loài thực vật có hoa có khả năng sinh alkaloid). Với cây trồng
alkaloid là chất hóa học bảo vệ cây trồng trước côn trùng và sâu bọ ăn lá [44].
Trong y học nhiều thuốc chữa bệnh có thành phần alkaloid như thuốc gây
kích thích hoặc ức chế hệ thần kinh trung ương, thuốc điều hòa huyết áp, chữa
rối loạn nhịp tim…. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy các alkaloid chiết từ


16
thực vật cũng có tác dụng hạ glucose huyết như: Berberin

(Tinosporacordifolia, Coptis sinensis), Casuarine 6-O-α- glucoside (Syzygium
malaccense).
f. Terpen thực vật
Terpen là nhóm hydrocacbon thực vật lớn và đa dạng nhất, được hình
thành từ quá trình polyme hoá các tiểu đơn vị isopren 5-carbon (C
5
H
8
), có
công thức cấu tạo chung là (C
5
H
8
)
n
. Trong thực vật terpen được tổng hợp
thông qua con đường trao đổi chất acetate/mevalonate hoặc con đường
glyceraldehyde 3-phosphate/pyruvate. Hầu hết các terpen đều thuộc nhóm
hydrocarbon, tuy nhiên chúng có thể bị khử hoặc bị oxy hóa để hình thành các
hợp chất terpenoid khác nhau như alcohol, ketone, acid và aldehyd. Vì vậy,
một số tác giả sử dụng thuật ngữ “terpenes” để chỉ chung một nhóm lớn các
hợp chất bao gồm cả terpen và terpenoid. Terpen là thành phần chính của các
loại tinh dầu, được dùng trong công nghệ hương mỹ phẩm, thực phẩm và
dược phẩm. Những terpen bậc cao thường là các chất có hoạt tính sinh học.
1.3. Bệnh béo phì (Obesity)
1.3.1. Khái niệm và phân loại béo phì
Tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì (Obesity) là tình trạng
tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng hay toàn bộ cơ thể
gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
Để nhận định tình trạng béo gầy WHO thường dùng chỉ số khối cơ thể

(BMI- Body Mass Index). Chỉ số khối cơ thể được tính theo công thức như
sau:


Trong đó: W: Khối lượng (kg )
H: Chiều cao (m )



17
Bảng 1.1. Phân loại BMI của ngƣời trƣởng thành châu Âu và châu Á [3]
Mức độ thể trọng
Ngƣời trƣởng thành
châu Âu
Ngƣời trƣởng thành
châu Á
Nhẹ cân
< 18.5
< 18.5
Bình thường
18.5 - 24.9
18.5 - 22.9
Quá cân
≥ 25 - 29.9
≥ 23
Béo phì độ 1
30 - 34.9
>23 - 24.9
Béo phì độ 2
35 - 39.9

25 - 29.9
Béo phì độ 3
≥ 40
≥ 30

1.3.2. Thực trạng béo phì trên thế giới và Việt Nam
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) hiện nay số người béo phì đã lên tới
1,7 tỉ người [4], không chỉ gặp nhiều ở các quốc gia phát triển mà còn gặp cả
ở các quốc gia đang phát triển. Mỹ là nước có số dân mắc bệnh cao nhất thế
giới, khoảng 60 triệu người (chiếm 30% dân số), tăng gấp 3 lần so với điều tra
năm 1991. Ở châu Âu, Anh là quốc gia đứng đầu bảng với 23% dân số. Tại
châu Á tỉ lệ thừa cân béo phì ở một số nước như sau: Thái Lan 3,5%, Philipin
4,27%, Malaysia 3,01%, Nhật 3%, Trung Quốc 2%, Hồng Kông 3%.
Tại Việt Nam, theo tiêu chuẩn cho người châu Á, số người thừa cân
béo phì cũng tăng theo thời gian. Năm 1991 theo điều tra của Lê Huy Liệu và
cộng sự thì tỉ lệ thừa cân mắc bệnh béo phì nói chung tại Hà Nội là 1,1%. Đến
năm 2000 con số này đã là 2,62% tăng gần 2,5 lần trong vòng 10 năm (điều
tra của Lê Văn Hải) [4].
Năm 2007, Viện dinh dưỡng Quốc gia điều tra trên đối tượng người
trưởng thành 25 - 64 tuổi cho thấy tỉ lệ thừa cân béo phì là 16,8% và còn có
xu hướng tăng lên. Theo Viện trưởng TS. Nguyễn Công Khẩn thì tỉ lệ này ở
thành thị lớn hơn nông thôn, ở nữ giới cao hơn nam giới. Trẻ em Việt Nam


18
cũng có 16,3% mắc thừa cân béo phì [22]. Hà Nội có 4,9% trẻ 4 - 6 tuổi mắc
bệnh, Thành phố Hồ Chí Minh 6% trẻ dưới 5 tuổi và 22,7% học sinh tiểu học
cũng rơi vào tình trạng này [55]. Trước tình hình đó Bộ y tế đã kí quyết định
thành lập “Trung tâm phục hồi dinh dưỡng và kiểm soát béo phì” trực thuộc
Viện dinh dưỡng, chính thức tuyên chiến với bệnh béo phì.

1.3.3.Tác hại và nguy cơ của bệnh béo phì
Chứng thừa cân và bệnh béo phì gây nhiều tác hại cho cuộc sống con
người như mất thoải mái trong sinh hoạt, giảm hiệu suất lao động, khối lượng
cơ thể nặng nề kém lanh lợi.
Người béo phì có nguy cơ bệnh tật cao hơn so với người thường do
nhiễm độc mỡ máu, tiêu biểu như:
 Bệnh tim mạch: Do mỡ tạng làm tim khó co bóp và mỡ máu làm xơ
cứng mạch vành và các mạch máu khác gây nhồi máu cơ tim tăng huyết áp.
 Rối loạn lipid máu: Tình trạng này rất hay gặp ở người béo bụng và
có biểu hiện đặc trưng là tăng triglycerid và lipid có hại (LDL-c), giảm lipid
có lợi (HDL-c).
 Tiểu đường: Béo phì toàn thân có nguy cơ mắc ĐTĐ type 2.
 Đột quỵ: Những người có BMI > 30 dễ bị tử vong do bệnh liên
quan đến mạch máu não.
 Ngoài ra béo phì còn làm gia tăng nguy cơ của nhiều bệnh khác:
xấu đi tình trạng rối loạn tiền mãn kinh ở phụ nữ, suy giảm chức năng hô hấp,
rối loạn hoạt động cơ xương, ung thư, sỏi mật và các vấn đề bệnh lý tâm thần
khác [4], [22], [42].
1.3.4. Nguyên nhân và giải pháp phòng, điều trị béo phì
Nguyên nhân chính dẫn đến thừa cân béo phì là do khẩu phần và thói
quen dinh dưỡng không hợp lý, hoạt động thể lực kém dẫn đến năng lượng
hấp thụ vào cơ thể vượt quá mức cần thiết và tích lũy dưới dạng mỡ.


19
Ngoài ra một số bệnh lý nội tiết như: Hội chứng Cushing (do hormone
cortisosteroid trong cơ thể tăng quá cao), bệnh suy tuyến giáp trạng, bệnh
trứng đa nang hoặc có chứa gen béo phì di truyền.
Để phòng bệnh béo phì có hiệu quả, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận
thức về dinh dưỡng và hoạt động thể lực. Trên phạm vi xã hội, việc phòng

bệnh cần tập trung vào nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh này.
Điều trị thừa cân béo phì dựa trên nguyên tắc kết hợp giữa chế độ ăn
uống, luyện tập và dùng thuốc. Trong đó thuốc và phẫu thuật chỉ dùng trong
trường hợp bắt buộc. Thuốc chống béo phì được chia làm hai nhóm lớn.
 Nhóm có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương.
 Nhóm tác dụng lên hệ tiêu hóa.
Thuốc điều trị béo phì phổ biến hiện nay là Metformin thuộc nhóm hai
với tác dụng chủ yếu là ức chế phân giải glycogen thành glucose ở gan, làm
tăng tính nhạy cảm của insulin ngoại vi, tác động hạ glucose trong khoảng 2 -
4 mmol/l, giảm HbA
1
C đến 2%. Vì thế, Metformin được dùng cho cả bệnh
nhân béo phì và tiểu đường. Tuy nhiên thuốc cũng có một số tác dụng phụ với
đường tiêu hóa, chống chỉ định với người suy tim nặng, bệnh gan, bệnh thận
và những người từng có tiền sử nhiễm toan lactic.
1.3.5. Rối loạn trao đổi lipid máu
Huyết thanh người bình thường có 5 - 7g/l lipid toàn phần bao gồm
acid béo tự do, triglycerid, cholesterol toàn phần với hai dạng cholesterol tự
do và cholesterol este, các photpholipid. Vì không tan trong nước nên lipid
được vận chuyển trong máu dưới dạng kết hợp với các protein đặc hiệu. Các
acid béo tự do được vận chuyển chủ yếu bởi albumin, các lipid khác được lưu
hành trong máu dưới dạng phức hợp lipoprotein như: các hạt chymomicron,
VLDL, HDL, IDL, LDL. Các lipoprotein này có kích thước, thành phần, tỉ


20
trọng và chức năng khác nhau trong quá trình chuyển hóa lipid [16], [33],
[56], [69].
Để đánh giá lượng mỡ trong máu người ta làm xét nghiệm với các chỉ
số:

 Cholesterol toàn phần (2,9 – 5,2 mmol/l).
 Triglycerid (0,8 – 2,3 mmol/l).
 HDL-c (0,90 – 1,50 mmol/l).
 LDL-c (0,5 – 3,4 mmol/l).
Tình trạng rối loạn và hoặc tăng nồng độ các thành phần lipid trong
máu, hậu quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch làm tăng nguy cơ
biến chứng tim mạch và đột quỵ, tăng các biến chứng mạch máu khác, hậu
quả nặng nề nhất là dẫn đến tử vong hoặc tàn phế gọi là rối loạn chuyển hóa
[3]. Ngày nay người ta đã xem là có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ thành
phần của lipid máu có sự thay đổi. Khái niệm này chỉ rõ rối loạn lipid máu có
thể xảy ra từ rất sớm, ngay cả khi chưa có tăng các giá trị tuyệt đối nồng độ
của các thành phần trong máu [3]. Rối loạn này có thể tiên phát do di truyền
hoặc thứ phát sau các bệnh khác như: béo phì, đái tháo đường, nghiện rượu,
suy giáp trạng. Fredrickson căn cứ vào kĩ thuật điện di và siêu ly tâm với các
thành phần huyết thanh đã phân loại chứng tăng lipid máu thành 5 type dựa
trên những thay đổi thành phần lipoprotein. Cách phân loại này đã được
WHO chính thức sử dụng vào năm 1970 [30]. Nhiều nghiên cứu đã chứng
minh người mắc bệnh béo phì có nguy cơ cao mắc các bệnh rối loạn lipid máu
dẫn đến xơ vữa động mạch (liên quan chủ yếu đến các lipoprotein) hoặc hiện
tượng “nhiễm độc mỡ tế bào” [27], [30].
1.3.6. Mối quan hệ giữa béo phì và đái tháo đƣờng
Béo phì và ĐTĐ là hai bệnh không truyền nhiễm nguy hiểm nhất của
thế kỉ 21. Hai căn bệnh này có mối liên quan chặt chẽ với nhau thể hiện ở chỗ


21
tỉ lệ người béo phì luôn tăng tương đương với số bệnh nhân bị ĐTĐ. Một
cuộc khảo sát của Mỹ gần đây đã chỉ ra rằng có tới 58% số người bị ĐTĐ
type 2 được quy cho là do béo phì. Béo phì liên quan tới ĐTĐ type 2 thông
qua sự đề kháng insulin. Nồng độ acid béo tự do cứ tăng 100µM thì mức đề

kháng insulin tăng khoảng 5-10% [3]. Thiếu insulin dẫn đến sự tăng trọng
lượng cơ thể, tăng đường máu, cuối cùng dẫn đến bệnh ĐTĐ type 2.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa béo phì và bệnh
ĐTĐ type 2 bao gồm: chỉ số khối cơ thể, thời gian béo phì, chế độ dinh
dưỡng, sự vận động thân thể. Một thống kê đã chỉ ra rằng những người có chỉ
số khối cơ thể lớn hơn 30 kg/m
2
trong 10 năm có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ
type 2 cao gấp hai lần người bị béo phì dưới 5 năm và nếu trọng lượng cơ thể
tăng một kilogam thì rủi ro về bệnh ĐTĐ type 2 tăng 4,5% [42]. Đây chính là
cơ sở để Reed và cộng sự đưa ra phương pháp gây mô hình ĐTĐ thực nghiệm
ở động vật bằng cách tiêm STZ liều đơn cho chuột đã được vỗ béo nhiều ngày
[64], [67]. Tại Việt Nam, Trần Thị Chi Mai đã áp dụng phương pháp này và
đạt hiệu quả 90% chuột xuất hiện ĐTĐ với nồng độ glucose máu ≥10 mmol/l
[28].
Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy acid béo tự do có vai trò trong
bệnh sinh ĐTĐ type 2. Phần lớn người béo phì có nồng độ acid béo trong
huyết tương tăng cao. Sự tăng này ức chế quá trình hấp thu glucose ngoại vi
dưới tác dụng của insulin, ức chế sử dụng glucose của toàn cơ thể, ức chế oxy
hóa glucose ở cơ [43].
ĐTĐ đặc trưng bởi sự rối loạn chuyển hóa glucid, sự rối loạn này ảnh
hưởng đến môi trường nội môi do đó kéo theo hoặc làm cho quá trình rối loạn
chuyển hóa lipid ở mỗi loại ĐTĐ mang những đặc trưng riêng. Đặc trưng
chung của rối loạn chuyển hóa lipid trong ĐTĐ là sự tăng triglycerid, giảm
HDL-c và LDL-c vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên ở ĐTĐ


22
type 1 rối loạn tăng triglycerid sẽ mất đi khi kiểm soát được glucose máu
khác với type 2, rối loạn này có thể vẫn kéo dài mặc dù có sự điều trị

giảm glucose máu thích hợp. LDL-c của type 2 cũng có thể tăng nhẹ và
xuất hiện nhiều LDL-c với kích thước nhỏ và nặng hơn khi việc kiểm soát
glucose kém. Đây chính là yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh xơ vữa động
mạch [27].
1.4. Bệnh đái tháo đƣờng (Diabetes mellitus)
1.4.1. Khái niệm và phân loại
Danh từ đái tháo đường (Diabetes mellitus) có nguồn gốc từ tiếng Hy
Lạp (Diabetes: nước chảy trong ống syphon) và tiếng Latinh (mellitus: ngọt)
[69]. Khoảng 1550 năm trước công nguyên các thầy thuốc Hy Lạp đã mô tả
bệnh này với các triệu chứng ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, nước tiểu có
đường và sút cân nhanh [3]. PGS. TS Tạ Văn Bình định nghĩa đái tháo đường
là một hội chứng có đặc tính biểu hiện bằng tăng đường máu, do hậu quả của
việc mất hoàn toàn insulin hoặc là do có liên quan đến sự suy yếu trong bài
tiết và hoạt động của insulin. Bệnh ĐTĐ được xác định dựa vào những tiêu
chí trong bảng 1.2 [3].
Bảng 1.2. Các tiêu chí để chuẩn đoán ĐTĐ theo WHO
Kết luận
Đƣờng huyết lúc
đói (mmol/l)
Đƣờng huyết 2 giờ sau khi
làm nghiệm pháp tăng
đƣờng huyết (mmol/l)
Đƣờng huyết tại
thời điểm bất kì
(mmol/l)
Đái tháo đường
> 7
> 11.1
>11.1
kèm triệu chứng

uống nhiều, đái
nhiều và gầy sút.
Rối loạn dung
nạp đường huyết
5.6 - 7
7.8 - 11.1
Bình thường
< 5.6
< 7.8


23
Dựa vào những hiểu biết về nguyên nhân phát sinh bệnh, ủy ban
chuyên gia về chuẩn đoán và phân loại ĐTĐ của WHO chia ĐTĐ thành các
loại như sau:
ĐTĐ type 1: Thường xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên, khởi phát
ở các cá thể có tính mẫn cảm về di truyền với bệnh. Nguyên nhân chính của
bệnh là tế bào β đảo tụy Langerhans bị phân hủy dẫn đến mất khả năng sản
xuất insulin, một hormon điều hòa lượng đường trong máu. Quá trình hủy
hoại tế bào β do cơ chế tự miễn [3], [34]. Người ta đã biết đến 18 vùng gen
liên quan đến type này được kí hiệu từ IDDM1 đến IDDM18. Các gen này
chủ yếu liên quan đến những yếu tố kháng nguyên bạch cầu người HLA hoặc
là gen mã hóa insulin [21].
ĐTĐ type 2: Chiếm 80% - 90% bệnh nhân, có tính quy tụ gia đình
và hay gặp ở những người trên 30 tuổi. Hai yếu tố chính đóng vai trò quan
trọng trong cơ chế sinh ĐTĐ type 2 là khiếm khuyết chức năng tế bào β tuyến
tụy và tình trạng kháng insulin [3], [42]. Hai yếu tố này luôn có tác động qua
lại với nhau và không thể kết luận yếu tố nào xuất hiện trước. Kháng insulin
có thể do bất thường ở hậu thụ thể insulin, bất thường về số lượng receptor
insulin hoặc ái lực gắn hormon của insulin và cũng có thể do acid béo tự do

tăng cao gián tiếp làm ảnh hưởng quá trình truyền tin nội bào của insulin ở tế
bào đích. Bởi vậy, bệnh béo bệu là một trong những nguyên nhân môi trường
được đề cập đến nhiều nhất vì chính béo bệu làm gia tăng tình trạng kháng
insulin [21].
Sinh bệnh học ĐTĐ type 2 diễn biến qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn bình thường,
nhưng có hiện tượng kháng insulin vì insulin tăng cao hơn mức bình thường
trong máu.


24
- Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần do có
hiện tượng tăng glucose huyết sau ăn.
- Giai đoạn 3: Kháng insulin không đổi nhưng bài tiết insulin suy giảm
gây tăng glucose huyết lúc đói, bệnh ĐTĐ biểu hiện ra bên ngoài.
Ngoài ra còn có ĐTĐ thai nghén và một số type ĐTĐ đặc biệt khác
như thiếu hụt chức năng tế bào β, thiếu hụt di truyền về tác động của insulin,
bệnh tụy ngoại tiết,
1.4.2. Thực trạng đái tháo đƣờng trên thế giới và Việt Nam
Cùng với các bệnh không lây nhiễm khác bệnh ĐTĐ đang phát triển
với tốc độ nhanh chóng cùng sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Năm 1994,
toàn thế giới có 98,9 triệu người mắc ĐTĐ. Năm 1995 đã tăng lên 135 triệu
người chiếm 4% dân số thế giới, cuối năm 2002 có khoảng 177 triệu người
[4] . Dự đoán đến năm 2010 có khoảng 222 triệu và năm 2025 có khảng 300
triệu bệnh nhân chiếm 5,4% dân số thế giới [4]. Đặc biệt ngày nay tỉ lệ người
mắc bệnh ở châu Á đã vượt xa châu Âu - nơi vẫn được xem là ổ bệnh [2]. Tại
Tây Thái Bình Dương có 12 quốc gia có tỉ lệ ĐTĐ type 2 trên 8%, cá biệt có
quốc đảo có tỉ lệ bệnh vượt 40% [22].
Việt Nam hiện nay ĐTĐ đang gia tăng rất nhanh. Năm 1990, Hà Nội
có tỉ lệ mắc bệnh là 1,2%, Huế 0,96%, Thành phố Hồ Chí Minh là 2,52%.

Theo điều tra quốc gia năm 2002 cho thấy tỉ lệ người mắc bệnh ĐTĐ lứa tuổi
từ 30 - 64 trong toàn quốc là 2,7% (khu vực đô thị và khu công nghiệp tỉ lệ tới
4,4%). Đặc biệt bệnh này trong nhóm người có yếu tố nguy cơ là rất cao
(10,3%). Hiện nay, có khoảng hai triệu người mắc bệnh ĐTĐ nhưng có tới
65% số đó không biết mình đã mắc bệnh. Theo PGS. TS Tạ Văn Bình: ĐTĐ
type 2 ở lứa tuổi thanh thiếu niên ngày một tăng nhanh, đây là một vấn đề rất
đáng lưu tâm [4].


25
1.4.3. Tác hại và biến chứng
ĐTĐ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và khả năng làm việc của người
lao động, nhưng hơn cả là nguy cơ biến chứng của bệnh nhân thường rất cao
[3].
- Biến chứng mắt như: bệnh lý võng mạc (27,8%), đục thủy tinh thể
(6,1%) tăng sinh gây mù lòa (1,1%) Bệnh về võng mạc tăng dần theo thời
gian phát hiện bệnh.
- Biến chứng thận như: microalbumin niệu (11,6%), macroalbumin
(3%), suy thận từ độ 1 đến độ 4 (3,5%) …
- Biến chứng thần kinh ngoại vi: giảm hoặc mất phản xạ gân xương
hoặc cảm giác rung …
- Tổn thương bàn chân: tùy từng mức độ như phỏng rộp, biến dạng,
loét, hoại thư, cắt cụt, …
- Biến chứng mạch máu lớn: mạch vành có tới (38%), đột quỵ
(1,2%), tăng huyết áp (27,6%)
1.4.4. Phòng và điều trị bệnh ĐTĐ
Trừ những nguyên nhân di truyền thì ăn uống sinh hoạt hợp lý điều độ
và khám sức khỏe định kỳ là phương thức chung để phòng bệnh nói chung và
bệnh ĐTĐ nói riêng. Tùy theo loại ĐTĐ mà việc điều trị bằng thuốc là khác
nhau:

+ Insulin và các thuốc kích thích bài tiết insulin như Sulfonflurea,
Nateglinid (Starlix) …
+ Thuốc làm tăng tính nhạy cảm của thụ thể với insulin như: Biguanid,
nhóm thiazolidinedion…
+ Các thuốc chống tăng glucose huyết sau bữa ăn: thuốc ức chế enzyme
α- glucosidase…

×