Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và ý nghĩa của vấn đề đó đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.09 KB, 57 trang )

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XXI mở đầu thiên niên kỉ thứ 3 của một thế giới đầy biến động.
Đó là thế kỉ mà cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, kinh tế tri
thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, đang tác động sâu sắc đến sự
phát triển của nhiều nước. Hiện nay, quan hệ quốc tế đang ở xu thế hoà dịu,
các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa
hợp tác vừa cạnh tranh găy gắt vì lợi ích quốc gia dân tộc. Đó cũng là quá
trình đấu tranh thực hiện dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế, thiết lập trật tự
kinh tế quốc tế, bình đẳng chống lại sự bóc lột, thống trị của chủ nghĩa thực
dân mới. Đó cũng là thời đại mà sự đối đầu trực tiếp của các giai cấp tạm lắng
xuống, nhưng vấn đề dân tộc, sắc tộc lại nổi lên gây đau thương cho bao quốc
gia mà biểu hiện rõ nhất là chủ nghĩa khủng bố, cùng với cả việc tranh chấp
lãnh thổ và tài nguyên vẫn tiếp tục diễn ra phức tạp. Bối cảnh quốc tế đó đã
tạo ra nhiều thời cơ thuận lợi cho các nước có điều kiện phát triển, đồng thời
cũng đặt ra những những thách thức lớn đối với các quốc gia trong cuộc đấu
tranh vì hoà bình, bảo vệ độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội.
Ở Việt Nam công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc đang được toàn
dân ta tiến hành với biết bao nỗ lực và sáng tạo đã đạt được những thành tựu
to lớn có ý nghĩa quan trọng, từng bước đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, nền độc lập dân tộc
được củng cố. Có được những thành tựu tuyệt vời đó là nhờ Đảng ta, nhân
dân ta được trang bị những tư tưởng cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh,
trong đó có tư tưởng về độc lập dân tộc.
Tuy nhiên, ở Việt nam hiện nay, các thế lực thù địch cũng đang tiến
hành âm mưu “diễn biến hoà bình” hòng xoá bỏ những thành quả cách mạng


mà nhân dân ta đã giành được bằng vô vàn sự hi sinh xương máu của các thế
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
2

hệ. Để thực hiện âm mưu đó, chúng không ngừng tìm mọi cách nhằm chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, gây xung đột, tạo cớ can thiệp bằng bạo loạn, lật
đổ. Vì vậy, để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc, thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc nghiên cứu
các giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là vẫn rất cần thiết và
quan trọng.
Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc và ý nghĩa của vấn đề đó đối với sự nghiệp cách mạng ở nước
ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đã được nhiều nhà nhiên
cứu, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã và đang tiếp tục nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của TS. Hoàng Trang – TS. Phạm
Ngọc Anh, Nxb Lao Động, Hà Nội, năm 2000
Bên cạnh đó, có rất nhiều bài báo viết về độc lập dân tộc của Hồ Chí
Minh được đăng trên các báo, tạp chí như:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc” của TS. Lê Văn Tích, Tạp chí Lịch sử Đảng số 6 năm 2001. “Giữ
vững độc lập dân tộc là nền tảng vững chắc cho sự phát triển công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của Phan Thanh Hà, tạp chí Giáo dục lí luận số 8
năm 2001. “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ
Chí Minh” của PGS. TS. Mạch Quang Thắng, tạp chí Giáo dục lí luận số 6
năm 2010.

Các công trình đó đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về độc lập
dân tộc. Trên cơ sở những vấn đề mà các nhà khoa học đã nghiên cứu, tác giả
khoá luận muốn góp phần bổ sung làm sáng tỏ một số vấn đề cụ thể về độc
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
3

lập dân tộc như: độc lập dân tộc là phải giải phóng khỏi ách áp bức thuộc địa,
độc lập là phải xây dựng nền kinh tế vững mạnh, thực hiện quyền bình đẳng
giữa các dân tộc Việt Nam, đồng thời, tìm hiểu ý nghĩa của độc lập dân tộc
đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích:
Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với thực
tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Xác định các nhân tố chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc theo lập trường vô sản
- Hệ thống hoá những nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc
- Xác định ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong
sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài đi sâu nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc. Đồng thời tìm hiểu ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm để bảo vệ nền
độc lập dân tộc trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khoá luận sử dụng các phương pháp luận như: DVBC, DVLS
của chủ nghĩa Mác - Lênin, và các phương pháp nghiên cứu khoa học của
khoa học - xã hội: lịch sử và logíc, phân tích và tổng hợp, hệ thống hoá

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
4

6. Đóng góp của khoá luận
Với những kết quả nghiên cứu đạt được. Khoá luận có thể góp phần
làm rõ và sâu sắc hơn nữa những nội dung cơ bản về độc lập dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, và cho thấy được ý nghĩa của vấn đề này trong sự nghiệp
cách mạng ở nước ta hiện nay. Đồng thời đề ra một số bài học kinh nghiệm để
bảo vệ, giữ vững nền độc lập của dân tộc.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Kết cấu khóa luận
gồm 2 chương 5 tiết.



















Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
5

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC

1.1 Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1.1.1. Cơ sở lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
Sự kiện đánh dấu việc Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin là
việc tháng 7 – 1920, khi Người đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương của Lênin đã trình
bày những quan điểm cơ bản về con đường giải phóng dân tộc thuộc địa khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Với kinh nghiệm thực tiễn và tư duy độc
lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã gặp gỡ và đặt tin tưởng vào bản luận cương của
Lênin và Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Tư tưởng của Lênin đã mở ra một
chân trời mới cho cách mạng giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ
nghĩa thực dân ở khu vực thuộc địa và phụ thuộc. Đặc biệt là quan điểm về
vấn đề quyền tự quyết của các dân tộc và quyền bình đẳng của các dân tộc.
Nội dung đó đã được Hồ Chí Minh vận dụng trong thực tiễn của cách mạng
Việt Nam sau này để đề ra quyền tự quyết của dân tộc và quyền bình đẳng
giữa các dân tộc của Việt Nam.

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác và Ănghen về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách
mạng thế giới, kết hợp với thực tiễn cách mạng của nước Nga. Lênin đã khái
quát cương lĩnh dân tộc như sau: " Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân
tộc có quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại"[4, tr.375]
Các dân tộc có quyền tự quyết: Đó là quyền của các dân tộc tự quyết
định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và
con đường phát triển dân tộc. Quyền tự quyết bao gồm quyền tách ra thành
lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
6

dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Tự quyết là quyền của các dân tộc nhưng
khi thực hiện phải đảm bảo những nguyên tắc sau: phải đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc với
lợi ích của giai cấp công nhân. Ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn nhằm chống phá, can thiệp
vào công việc nội bộ của các dân tộc.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Đó là quyền thiêng liêng của tất cả
các dân tộc và không có sự phân biệt dù lớn hay nhỏ hoặc trình độ phát triển
cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc
lợi về kinh tế, chính trị và văn hoá. Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan
hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột các dân tộc
khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải
được thể hiện trên cơ sở pháp lý và quan trọng hơn nó phải được thể hiện trên
thực tế ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, là một thành quả rực rỡ của

tư tưởng Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải
phóng dân tộc, xây dựng quan hệ hoà bình giữa các dân tộc trong Liên Bang
Xô Viết. Cách mạng tháng Mười Nga đã đưa ra một mô hình mới về xã hội
do nhân dân lao động Nga và các dân tộc anh em làm chủ vận mệnh của
mình. Chính sách dân tộc tự quyết của nước Nga sau cách mạng đã đưa ra
mẫu mực về việc giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc theo quan điểm
đúng đắn của Lênin. Điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc tới tư duy của Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc mà sau này Người sẽ vận dụng sáng tạo và phát triển
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc Việt Nam với các quốc gia
trong khu vực đặc biệt là với các dân tộc Lào, Campuchia.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
7

Một hình ảnh của một Nhà nước Xô Viết kiểu mới vững vàng trong
vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, đánh bại các cuộc tấn công trực tiếp của các
nước đế quốc và sự phá hoại của các thế lực thù địch bên trong. Mô hình của
một xã hội mới trong đó quyền tự do bình đẳng, quyền làm chủ đất nước của
nhân dân và của các dân tộc bị áp bức được thực hiện trên thực tế đã củng cố
lòng tin của người thanh niên yêu nước Việt Nam trên con đường tìm chân lí
cho dân tộc. Những thực tế đầy mới mẻ và đầy sức hấp dẫn ấy cùng những
luận điểm cách mạng giàu sức thuyết phục của Lênin đã đáp ứng khát vọng
cháy bỏng của Nguyễn Ái Quốc lúc ấy về con đường giải phóng dân tộc giành
lại độc lập cho Tổ quốc. Chính vì vậy, Người đã quyết định đi theo Lênin đi
theo Quốc tế cộng sản, theo con đường của cách mạng Tháng Mười Nga, đặt
tương lai của dân tộc trong tương lai chung của giai cấp vô sản và nhân dân bị
áp bức trên toàn hành tinh.
Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã coi cách
mạng Tháng Mười như “mặt trời chói lọi chiếu sáng khắp năm châu”, một

tấm gương cách mạng vĩ đại cho giai cấp vô sản và nhân dân các dân tộc bị áp
bức noi theo. Người coi Lênin như một người thầy về lí luận và hoạt động
cách mạng giành độc lập dân tộc. Qua bản Luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin, đã chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa sự nghiệp giải phóng
giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ đó Hồ
Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng chúng ta giành lại độc lập dân tộc
đó là con đường cách mạng vô sản. Đã trở thành cơ sở lí luận trong việc giải
quyết các vấn đề dân tộc trên đất nước ta sau này. Thông qua tư duy độc lập
sáng tạo và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, những luận điểm cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng linh hoạt, phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lí luận,
phương pháp luận để Hồ Chí Minh hình thành và phát triển những luận điểm
độc đáo của mình về độc lập dân tộc.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
8

1.1.2 Truyền thống yêu nước đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam.
Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành cùng
với quá trình đấu tranh cải tạo tự nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm. Cùng
với lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước, truyền thống yêu nước tốt đẹp đã kết
tụ, tạo nên sức sống vững vàng và mạnh mẽ của dân tộc. Truyền thống yêu
nước đã được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, đặc biệt được khơi dậy mạnh mẽ trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược,
truyền thống đó lại càng dâng cao mạnh mẽ thành “làn sóng nhấn chìm lũ
cướp nước và bán nước”.
Lịch sử nhân loại đã có nhiều dân tộc chống ngoại xâm song thật hiếm
có dân tộc nào như dân tộc Việt Nam, thường xuyên phải chống ngoại xâm

triền miên với thời gian kéo dài và số lượng các cuộc kháng chiến nhiều đến
như thế. Nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ lùi bước. Trước vận mệnh
của Tổ quốc, đại bộ phận người Việt đã cố gắng vượt lên những quyền lợi
riêng, tạm gác lại những mâu thuẫn nội bộ, không rời bỏ nơi chôn nhau cắt
rốn của mình, vẫn bám làng, bám chắc địa bàn sinh tụ của dân tộc, tập trung
sức lực, trí tuệ, quyết giữ vững giang sơn mà ông cha đã tạo dựng. Lòng quyết
tâm, ý chí và nghị lực phi thường của dân tộc thể hiện rõ trong các cuộc đấu
tranh yêu nước và sớm được đúc kết lại trong những lời tuyên bố của các anh
hùng dân tộc về độc lập chủ quyền của dân tộc. Thế kỉ XI, Lý Thường Kiệt
nói:
“ Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
(Nam quốc sơn hà)

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
9

Thế kỉ XV, Nguyễn Trãi khẳng định:
“ Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông cõi bờ đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”

(Bình ngô đại cáo)
Thủ đoạn cổ truyền của kẻ đi xâm lược bao giờ cũng là xâm lược lãnh
thổ thường đi đôi với việc chinh phục về chính trị, kinh tế, văn hoá. Chính
trong những thời kì ngoại bang thống trị, dân tộc Việt Nam đã kiên cường,
bền bỉ đấu tranh chống lại những chính sách “đồng hoá” của kẻ thù giữ gìn và
phát huy những tinh hoa văn hoá lâu đời của cha ông. Trong suốt một ngàn
năm bị phong kiến phương Bắc thống trị với âm mưu biến nước ta trở thành
một quận huyện của chúng, xoá bỏ nhà nước ta, dân tộc ta. Nhưng nhân dân
Đại Việt vẫn giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình.
Trong thời kì đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân ta qua các thời kỳ
lịch sử đã xây dựng, bồi đắp, phát triển nền văn hoá dân tộc lên những bước
cao hơn. Những nét đặc sắc của nền văn hoá dân tộc đã được ghi dấu trong rất
nhiều công trình kiến trúc, những tác phẩm văn học, nghệ thuật vẫn được
lưu giữ cho đến ngày nay. Như vậy, những truyền thống tư tưởng, văn hóa tốt
đẹp và cao quý của dân tộc đã góp phần hình thành nên ý thức dân tộc, tinh
thần về độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc ở trong con người Hồ Chí Minh.
Người là hiện thân của những truyền thống đó.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
10

Từ nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phương
Tây đã xâm chiếm hầu hết các quốc gia ở Á, Phi, MiLaTinh, nền độc lập của
Việt Nam bị đế quốc Pháp tước đoạt, đã đặt dân tộc Việt Nam trước những
thử thách mới: phải đối mặt với kẻ thù lúc này là một cường quốc có tiềm lực
về kinh tế, quân sự lớn mạnh và cao hơn về trình độ phát triển. Mặc dù triều
đình phong kiến nhà Nguyễn đã từng bước đầu hàng nhưng với chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần dân tộc và truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, nhiều
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp đã diễn ra không dứt trong suốt quá trình

chúng xâm lược đất nước ta. Các thế hệ Việt Nam đã nối tiếp nhau đứng lên
đấu tranh chống lại bọn xâm lược với tinh thần yêu nước và ý chí độc lập, tự
chủ, tự cường rất cao, quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước, giành lại chủ
quyền cho dân tộc. Lòng quyết tâm đó được minh chứng bằng câu nói của
Nguyễn Trung Trực: “Khi nào người Tây nhổ hết cỏ nước nam thì mới hết
người Nam đánh tây”.
Những truyền thống yêu nước đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc
là một trong những nhân tố chi phối mọi suy nghĩ, hành động trong hoạt động
cách mạng của Người. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh quyết chí ra đi tìm
đường cứu nước giải phóng dân tộc giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
1.1.3. Ảnh hưởng của quê hương Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Quê hương Nghệ Tĩnh là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước chống
ngoại xâm. Nơi đây đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh chống áp bức, chống
ngoại xâm trong nhiều thời kì lịch sử. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta,
cùng với cả nước nhân dân Nghệ - Tĩnh đã liên tiếp nổi dậy chống Pháp.
Bước sang thế kỉ XX, thực dân Pháp củng cố nền thống trị của chúng trên đất
nước ta, xúc tiến việc vơ vét, bóc lột sức người, sức của, đẩy nhân dân ta vào
cuộc sống khốn cùng. Nghệ - Tĩnh là một trong những nơi phải chịu chế độ
phu phen, tạp dịch nặng nề của chính quyền thực dân và Nam triều với bao
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
11

cảnh đoạ đày, chết chóc tang thương mà Hồ Chí Minh phải chứng kiến ở tuổi
thiếu thời.
Nghệ - Tĩnh cũng là quê hương của nhiều người anh hùng nổi tiếng
trong lịch sử dân tộc Việt Nam như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu; các chí sĩ
yêu nước tham gia lãnh đạo các cuộc vận động cứu nước cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Tinh thần

yêu nước, ý chí trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc ở các bậc tiền bối
đã ảnh hưởng sâu sắc tới suy nghĩ và tình cảm của Hồ Chí Minh lúc bước vào
tuổi thanh niên.
Những năm Người sinh sống học tập ở Huế, cũng đã để lại những dấu
ấn sâu sắc và tác động mạnh mẽ tới nhận thức, đến quá trình hình thành tư
tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh. Huế là kinh đô của Nam Triều, nhưng tại
đây sự bất lực, thái độ ươn hèn, bạc nhược của quan lại Nam Triều phụ thuộc
vào chính quyền bảo hộ Pháp lại bộc lộ rõ nét nhất. Sự oán hận phẫn nộ của
các sĩ phu yêu nước và đông đảo nhân dân trước cảnh bất công và nỗi nhục
mất nước đã bùng lên trong những phong trào yêu nước, phong trào chống
thuế sôi động mà Người tham gia. Đồng thời, cũng tại đây, nhận thức của
Người được nâng cao, mở rộng thông qua những tri thức thu được trong thực
tế cuộc sống, qua thầy học và sách vở, góp phần thôi thúc Người quyết tâm
tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc giành lại độc lập cho dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi nhân
dân. Chính hoàn cảnh, nếp sống, đạo lí gia đình là nguồn trực tiếp ảnh hưởng
đến tư tưởng, tình cảm, đã nuôi dưỡng lòng yêu nước, thương dân, ý chí kiên
cường của Người. Cuộc sống lao động thanh bạch, trải qua nhiều bước gian
nan, thăng trầm của gia đình cũng là yếu tố tác động đến tư tưởng của Người.
Trong đó nổi bật là ảnh hưởng từ người cha của Người là cụ Phó Bảng
Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
12

sắc. Tư tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách
chính trị, xã hội của cụ Phó Bảng đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành
nhân cách của Người. Cùng với đó là ảnh hưởng từ người anh, người chị
những người đều gắn bó với dân, ít nhiều có tham gia hoặc quan hệ với những

phong trào chống Pháp, chống phong kiến ở quê hương. Mối liên hệ gần gũi
giữa cụ Phó Bảng với những người lãnh đạo phong trào yêu nước ở chính tại
quê hương đã tạo điều kiện cho Người tiếp xúc với các xu hướng yêu nước
đương thời. Đó chính là điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh phát triển tư
duy chính trị của mình. Giúp Người thấu hiểu được tâm tư, tình cảm và cả
những khó khăn bế tắc của các bậc cha anh. Những phong trào đó đã góp
phần trực tiếp và quan trọng bồi dưỡng nâng cao lòng yêu nước của Người.
Đồng thời chính sự thất bại trên tất cả các ngả đường của những người đi
trước có giá trị như những bài học kinh nghiệm để Người thêm quyết tâm ra
đi theo ngả đường khác để giải phóng dân tộc giành lại độc lập về cho dân
tộc.
1.1.4. Những nhân tố thuộc phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
Trong những nhân tố góp phần hình thành và phát triển tư tưởng của
Hồ Chí Minh, ngoài những nhân tố khách quan còn có nhân tố chủ quan thuộc
về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
Một trong những phẩm chất nổi bật của Hồ Chí Minh là tư chất thông
minh, ham học hỏi; phương pháp quan sát, khái quát đời sống chính trị, xã
hội, óc phê phán tinh tường, khả năng nhạy bén nắm bắt, phát hiện thông tin,
ý thức tìm tòi sáng tạo nghiên cứu lí luận và thực tiễn trong quá trình hoạt
động thực tiễn. Những phẩm chất, khả năng đó ở Hồ Chí Minh ngày càng
được phát triển cao hơn, trở thành tài năng chính trị đặc biệt. Nhờ đó mà
Người đã vượt qua những lối mòn cứu nước của các bậc tiền bối Hồ Chí
Minh đã quyết định sang phương tây sang tận xứ sở phát sinh những ý tưởng
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
13

“tự do, bình đẳng, bác ái”, Người hướng tới lí tưởng cách mạng dân chủ tư
sản Pháp, mong muốn tìm hiểu về nền văn minh của chủ nghĩa tư bản phương

tây. Người muốn tìm một phương pháp mới, một con đường cứu nước mới để
giành lại độc lập thật sự cho dân tộc, chứ không chỉ đơn thuần là đi cầu viện,
tìm chỗ dựa cho cuộc giải phóng dân tộc như các bậc tiền bối. Điều đó đã thể
hiện tư duy độc lập sáng tạo của Người.
Nhờ có trí tuệ mẫn tiệp, phương pháp tư duy độc lập sáng tạo và vốn tri
thức phong phú, Hồ Chí Minh đã phân tích, khái quát hiểu sâu bản chất và
phán đoán chính xác về chiều hướng và khả năng phát triển của các sự kiện
hiện tượng chính trị. Chính vì vậy, trước thực tiễn phong phú sinh động của
rất nhiều học thuyết, quan điểm chính trị khác nhau, mà Hồ Chí Minh đã tìm
đến được chủ nghĩa Mác – Lênin, một học thuyết “chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất” của thời đại.
Một phẩm chất ở Hồ Chí Minh không thể không nói tới đó là một con
người có lòng yêu nước, thương dân rất sâu sắc. Lòng yêu nước trong con
người Hồ Chí Minh được hình thành từ rất sớm, xuất phát từ tình yêu quê
hương, sự cảm thông sâu sắc tới những người nghèo khổ, sự trân trọng tự hào
về truyền thống lịch sử của dân tộc. Lòng yêu nước của Hồ Chí Minh không
bị bó hẹp trong khuôn khổ yêu nước truyền thống, Người đã vượt qua được cả
giới hạn “trung quân ái quốc” thời phong kiến và cả giới hạn yêu nước của
các bậc cha anh tiến bộ nhất theo các trào lưu dân chủ tư sản đương thời.
Chính trên cơ sở lòng yêu nước chân chính đó Hồ Chí Minh đã dễ dàng hoà
đồng với những tầng lớp nhân dân lao động nghèo khổ, với phong trào đấu
tranh của công nhân và các dân tộc bị áp bức ở nhiều khu vực mà Người từng
đến, từng sinh sống.
Cũng như các bậc tiền bối, lòng yêu nước của Hồ Chí Minh gắn liền
với ý thức trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc, với hoài bão xả thân cứu
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
14


nước, cứu dân giành lại độc lập cho dân tộc . Khát vọng giải phóng đồng bào
kết hợp với ý chí nghị lực và bản lĩnh vững vàng đã trở thành quyết tâm cứu
nước không gì lay chuyển được, nó đã trở thành “ham muốn tột bậc”, thành
mục đích sống suốt đời của Hồ Chí Minh, là làm sao “nước ta được độc lập,
dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. [9, tr.161]
Như vậy, những phẩm chất và tài năng nổi trội của Người đã có vai trò
rất quan trọng trong việc quyết định hướng đi tìm đường cứu nước, quyết
định việc lựa chọn của Hồ Chí Minh về con đường giành độc lập cho dân tộc.
Có thể thấy, tất cả các nhân tố trên: cơ sở lí luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với truyền thống yêu nước đấu tranh chống
giặc ngoại xâm bất khuất của dân tộc, truyền thống của quê hương, gia đình,
và những phẩm chất cá nhân của Người - mỗi nhân tố này đã tạo ra cơ sở và
đã đóng góp những vai trò khác nhau trong quá trình hình thành và phát triển
hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về độc lập dân tộc
của Người nói riêng.
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
1.2.1. Độc lập dân tộc là phải giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức thuộc
địa.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên đánh chiếm Đà Nẵng,
mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Do hạn chế của lịch sử và giai
cấp triều đình phong kiến nhà Nguyễn chống trả yếu ớt và từng bước đầu
hàng thực dân Pháp, làm cho Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Trong
xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (giữa dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (giữa nông dân với
địa chủ phong kiến).
Dưới sự thống trị của thực dân phong kiến, đời sống của nhân dân ta
cùng cực, khốn cùng với bao cảnh đoạ đày chết chóc. Sống dưới cảnh nước
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh


SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
15

mất, nhà tan mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì
quyền sống của con người còn bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự
do, dân chủ của mọi người. Sinh ra giữa lúc nước nhà đã rơi vào tay thực dân
Pháp, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang lên tự do, độc lập của đất
nước, Người đã viết: “Trên đời ngàn vạn điều căy đắng, căy đắng chi bằng
mất tự do” [17]. Được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn yêu nước của
người dân Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với người dân mất nước, cái quý
nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Người sớm có điều
kiện được tiếp xúc và biết đến các phong trào cứu nước đầu thế kỉ XX, theo
lập trường phong kiến và theo lập trường tư sản. Trong đó tiêu biểu là phong
trào Đông Du (1905 - 1908) theo đường lối quân chủ lập hiến của Phan Bội
Châu và con đường cứu nước của Phân Chu Trinh, người khởi xướng phong
trào Duy Tân (1906 - 1908) theo lối cải lương. Cuộc khởi nghĩa của nông dân
Yên Thế (1885 - 1913) do Hoàng Hoa Thám đứng đầu. Trước thực tế của lịch
sử dân tộc, Người đã tìm hiểu và rút ra nguyên nhân thất bại của các con
đường cứu nước của các bậc tiền bối. Đó là tình trạng lẻ tẻ, tản mạn, thiếu
liên kết của các cuộc nổi dậy; là sự thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo, thiếu cơ sở
vật chất để có thể chiến thắng một tên đế quốc; là do trình độ dân trí dân sinh
còn quá thấp kém ở một bộ phận đông đảo nhất trong dân cư là giai cấp công
nhân và nhân dân lao động – động lực của cách mạng. Dù con đường cứu
nước theo lập trường tư sản tiến bộ hơn rất nhiều so với lập trường phong
kiến, nhưng các phong trào lúc bấy giờ của các bậc tiền bối vẫn bị thất bại.
Bởi vì, trên thế giới lúc đó chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản động toàn diện mà
nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng
nặng nề nhất. Chính vì vậy, mà các con đường cứu nước của các bậc tiền bối
cuối cùng bị thất bại nếu chưa thực sự thất bại thì cũng bế tắc, khởi nghĩa này

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
16

hay binh biến nọ, cuộc ám sát, duy tân nối tiếp duy tân nhưng cái đích độc lập
cho dân tộc cứ thấy xa vời. Như cụ Phan Bội Châu đã nói “Than ôi! Cuộc đời
tôi trăm lần thất bại mà không có một lần thành công”. Như Người nhận xét
các phong trào cứu nước lúc bấy giờ: hy vọng vào sự giúp đỡ của đế quốc
Nhật Bản để chống lại đế quốc Pháp của Phan Bội Châu chẳng khác nào
“đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, như vậy chưa khỏi ách thống trị của
một tên đế quốc này, lại có nguy cơ rơi vào ách thống trị của một tên đế quốc
khác, kết cục nô lệ vẫn hoàn nô lệ. Hay dựa vào chính chủ nghĩa đế quốc
Pháp để cải cách chế độ phong kiến Việt Nam, đưa đất nước đi lên, từ đó
giành lại độc lập cho dân tộc của cụ Phan Chu Trinh là “xin giặc rủ lòng
thương”. Người cho rằng muốn giải phóng dân tộc thì phải dựa vào chính bản
thân mình không thể trông chờ vào sự giúp đỡ của bên ngoài. Thực tế hơn đó
là cụ Hoàng Hoa Thám không nhờ vả, xin xỏ, hi vọng vào tên đế quốc nào mà
dựa ngay vào chính bản thân mình để tổ chức vũ trang đánh pháp cứu nước,
nhưng cụ còn nặng cốt cách phong kiến nông dân. Vì vậy, tuy rất khâm phục
tinh thần yêu nước ý chí giành lại độc lập tự do cho dân tộc của các bậc tiền
bối, nhưng Người thấy rõ để chống lại một tên đế quốc giàu mạnh như Pháp
thì con đường của họ không thể thành công được, không thể giải phóng được
dân tộc thực sự khỏi ách áp bức thực dân đem lại độc lập cho dân tộc.
Trước những thất bại về con đường cứu nước của các bậc cha anh, đã
không làm cho Nguyễn Tất Thành nản lòng mà càng thúc giục anh tìm con
đường cứu nước mới, giải phóng cho dân tộc. Vượt qua những lối mòn cứu
nước của các bậc tiền bối Hồ Chí Minh đã quyết định từ giã Tổ quốc, đồng
bào sang phương tây để học tập xem các nước làm thế nào, để trở về giúp
đồng bào mình đấu tranh tự giải phóng khỏi chế độ thuộc địa. Hành trình tìm

đường cứu nước của Người bắt đầu từ ngày 5 - 6 - 1911, với một mong muốn
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
17

hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [9, tr.161]
Gần một thập niên bôn ba khắp năm châu bốn biển vừa lao động vừa
nghiên cứu lí luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản như ở Pháp,
Mỹ … và tham gia các hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp sau đó trở thành
người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp, Người đã từng bước rút ra những bài
học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Người kết luận rằng cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường cách
mạng dân chủ tư sản được. Vì đó là con đường không triệt để, không thể
mang lại độc lập thực sự cho các dân tộc bị áp bức trong đó có Việt Nam. Đó
là những tiền đề rất quan trọng giúp Người đến với con đường cách mạng
thực sự giải phóng được dân tộc giành lại độc lập tự do. Đó chính là con
đường cách mạng vô sản “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [13, tr.314]. Chính vì thế,
khi đọc được bản sơ thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin, Người đã sung sướng reo to lên như thể đang nói trước đông đảo đồng
bào “Hỡi đồng bào bị đày đoạ đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta” [13, Tr 314]. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có đi
theo con đường cách mạng vô sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức.
Đó là con đường đáp ứng yêu cầu lịch sử dân tộc và phù hợp với xu thế của
thời đại. Từ đó, Người tin theo Lênin, tin theo cách mạng tháng Mười Nga.
Sau gần mười năm từ buổi đầu ra đi tìm hiểu học tập để giúp đồng bào
mình tiến hành sự nghiệp giải phóng Hồ Chí Minh đã tìm ra và xác lập con

đường cứu cho dân tộc Việt Nam. Từ người tìm đường trở thành người dẫn
đường, Hồ Chí Minh bắt tay xây dựng học thuyết và đường lối cách mạng,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo quần chúng đấu tranh thực hiện
các nhiệm vụ của cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức thực dân của
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
18

Việt Nam. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh cho rằng: “nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của
bộ phận giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được” [8, tr.1]. Lòng quyết tâm
giải phóng dân tộc cho bằng được, đã được Hồ Chí Minh đúc kết trong một
câu nói bất hủ: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập!” [8, tr.198]. Với lòng quyết tâm đó đã làm nên cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đã giải phóng nhân dân ta khỏi
sự thống trị của đế quốc thực dân, đưa nước ta từ một nước thuộc địa thành
một nước độc lập, tự quyết định con đường chính trị của mình lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên ở Đông Nam Á. Đưa nhân dân ta từ
thân phận nô lệ thành người dân độc lập, tự do, thực sự làm chủ vận mệnh của
dân tộc. Mở ra một kỉ nguyên mới cho lịch sử dân tộc - kỉ nguyên độc lập và
tự do. Người đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và thế giới: “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [9, tr.557].
Quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc càng thể hiện rõ khi
thực dân Pháp quay lại đánh chiếm nước ta một lần nữa. Trong các bức thư và
điện văn gửi tới Liên hợp quốc và chính phủ các nước vào thời gian đó,

Người đã trịnh trọng tuyên bố rằng “Nhân dân chúng tôi thành thật mong
muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc
và độc lập cho đất nước” [9, tr.469]. Người đã ra lời kêu gọi vang dậy núi
sông “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ” [9, tr.480]. Hay khi đế quốc Mỹ điên cuồng
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
19

mở rộng chiến tranh leo thang ra miền bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đưa ra
một chân lí bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại “Không có gì quý hơn độc lập
tự do” [16, tr.108]. Điều đó thể hiện quyết tâm dù trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng quyết bảo vệ, giữ vững nền độc lập, tự do của toàn thể nhân dân Việt
Nam. Sự thực dưới sự lãnh đạo và chỉ dẫn của Hồ Chí Minh nhân dân ta đã
thực hiện thắng lợi cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập của nước nhà bằng sự
thắng lợi của hai cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống Pháp (1946 - 1954)
và chống Mỹ (1954 - 1975), bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, đưa cả nước bước vào kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Như vậy, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định những đóng góp
vô cùng quý giá của Người đối với kho tàng lí luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam và chủ nghĩa Mác – Lênin và đó cũng là dẫn chứng rõ nét nhất cho tính
đúng đắn, triệt để của con đường giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức thuộc địa
theo lập trường cách mạng vô sản.
1.2.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đấu tranh giành độc lập cho dân tộc thì đời nào cũng có, nhưng cái
đích cuối cùng không phải ở thời nào cũng giống nhau. Có thời chúng ta
giành độc lập dân tộc để rồi xây dựng nên chế độ phong kiến, điều đó là phù
hợp với xu thế phát triển của xã hội khi đó chế độ phong kiến chưa trở thành

lực cản.Từ giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, phát huy
truyền thống yêu nước nhân dân ta đã nổi dậy tiến hành nhiều cuộc khởi
nghĩa chống lại thực dân Pháp. Tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa do Trương
Công Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám lãnh đạo nhân dân cùng các
thủ lĩnh đứng lên đấu tranh chống áp bức, xâm lược với tinh thần yêu nước và
ý chí độc lập, tự chủ, tự cường rất cao. Các phong trào đều mang ý thức hệ
phong kiến, nặng tư tưởng tôn quân. Các cuộc khởi nghĩa này đã gây nhiều
thiệt hại cho bọn tư bản, thực dân Pháp, tuy nhiên đều lần lượt thất bại. Sự
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
20

thất bại của các phong trào này đã chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong
kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập cho lịch sử đặt ra. Chứng tỏ
hệ tư tưởng phong kiến không còn phù hợp với thời đại mới, đòi hỏi cần phải
có những con đường khác tiến bộ hơn nó. Đến đầu thế kỷ XX nhiều nhà ái
quốc đã xuất ngoại để tìm con đường cứu nước cứu dân, tiêu biểu là hai cụ
Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh. Cái mới và cái tiến bộ cái hơn phong
trào yêu nước trước đây là phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản.
Cụ Phan Bội Châu thì dùng phương pháp bạo động vũ trang chống Pháp,
dùng khởi nghĩa ám sát, thỏa thuận với Nhật Hoàng để gửi hàng loạt thanh
niên Việt Nam sang Nhật Bản – một nước đã mở cửa, cải cách đang hùng
dũng tiến vào chủ nghĩa tư bản – để trở về hoạt động lật đổ chế độ thực dân,
phong kiến. Còn cụ Phan Chu Trinh thì chủ chương “bất bạo động bạo động
tắc tử”. Cụ chủ trương: khai dân trí, chán hưng dân khí, hậu dân sinh, muốn
thực dân Pháp cải cách chế độ phong kiến thành độ chế độ khác. Như vậy, dù
phương pháp là khác nhau nhưng cả hai cụ đều có mục tiêu giống nhau đó là
sau khi giành được độc lập không nên dựng lại chế độ phong kiến mà là lập
lên chế độ Cộng hòa đại nghị tư sản. Nhưng phong trào của các cụ đều bị thất

bại, cái đích cuối cùng là độc lập cho dân tộc cứ thấy xa vời. Cũng giống như
các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, các phong trào này
không phù hợp với xu thế của thời đại. Dù hệ tư tưởng tư sản là mới, rất mới
ở Việt Nam, tiến bộ hơn nhiều so với hệ tư tưởng phong kiến, nhưng trên
phạm vi thế giới nó đã lạc hậu vì chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Chính vì vậy, mà phong trào cứu nước ở Việt Nam đầu thế
kỷ vẫn hoàn toàn bế tắc, đen tối như không có đường ra. Dù khâm phục ý chí
đấu tranh của các cụ, nhưng Người thấy rằng không thể đi theo những con
đường đó, vì nó không thể đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, không thể đem
lại cuộc sống ấm no hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Vì vậy, Người quyết
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
21

tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới để giành lại độc lập thực sự cho dân
tộc.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử đã chứng kiến sự thắng lợi của
hai con đường cách mạng theo hai lập trường đối nghịch nhau là dân chủ tư
sản và dân chủ vô sản. Người đã rất chú trọng nhiên cứu và trân trọng kinh
nghiệm của các nước cách mạng trên thế giới lúc đó, từ đó lựa chọn những gì
phù hợp với công cuộc giải phóng đất nước và thấy cần phải tránh những gì
để không lặp lại sai lầm thất bại của người khác. Qua việc tìm hiểu các cuộc
cách mạng Mỹ năm 1776 và cách mạng Pháp năm 1789, tuy khâm phục ý chí
đấu tranh của nhân dân hai nước này, đồng thời Người cũng đã phát hiện ra,
tất cả các cuộc cách mạng dân chủ tư sản dù có tiến bộ đến đâu nhưng đều
chưa triệt để. Khi cách mạng thành công thì chính quyền nằm trong tay một ít
người không đại diện cho quyền lợi của quần chúng công nông vẫn bị bóc lột,
vẫn khổ cực, vẫn đói và họ vẫn thấy phải hướng tới thực hiện một cuộc cách
mạng khác. Sau này trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh viết

“cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi mà nay
công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mạng lần nữa mới thoát khỏi vòng
áp bức” [6, tr.274]. Như vậy, trực tiếp đến nước Mỹ, đến Pháp để tìm hiểu,
Hồ Chí Minh đã thấy cái cần học, cần áp dụng cho cách mạng Việt Nam.
Đồng thời chính từ những hạn chế, từ bài học thành công và chưa thành công
của nó, Người rút ra những kết luận xác đáng và lưu ý cách mạng Việt Nam:
“Chúng ta đã hi sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao
cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
bọn ít người. Thế mới khỏi hi sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh
phúc” [6, tr.270]. Cách mạng dân chủ tư sản thực hiện độc lập một cách hời
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
22

hợt không triệt để, độc lập dân tộc giành được trong cách mạng tư sản chỉ mở
đường cho giai cấp tư sản xác lập vững chắc quyền lực thống trị của nó, nó
không mang lại độc lập thực sự cho các dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho
mọi người. Chính vì vậy, cách mạng Việt Nam không thể đi theo lối mòn của
các cuộc cách mạng ấy. Từ việc nghiên cứu cách mạng tháng Mười Nga, Hồ
Chí Minh nhận thấy đó là cuộc cách mạng triệt để nhất. Người nhận xét:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và thành công
đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do bình đẳng thật,
không phải tự do bình đẳng như chủ nghĩa đế quốc khoe khoang bên An Nam.
Cách mạng Nga đã đuổi được vua, chủ nghĩa tư bản rồi lại ra sức cho công
nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả
đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mạng Nga dạy cho chúng ta
rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng

vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất” [6, tr.280].
Trải qua gần mười năm Người ra đi tìm con đường cứu nước và Người
đã tìm thấy con đường độc lập dân tộc thực sự cho dân tộc chính là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường của cách mạng tháng Mười
Nga, đi theo chủ nghĩa Mác- Lênin. Ngay từ đầu, Người khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam là: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [13, tr.314]. Đường lối
đó gắn liền làm một, mục tiêu độc lập với mục tiêu chủ nghĩa xã hội; làm cho
cách mạng Việt Nam phát triển theo xu thế cách mạng chung của thời đại.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Người nói rõ: “Chủ trương làm cách
mạng tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” [8, tr.1]. Vì khi giành độc lập dân tộc mới chỉ giải quyết được một phần
về mặt chính trị, mới chỉ là bước đầu tiên, là điều kiện thôi chứ chưa phải là
đã đủ để mọi người có ấm no, tự do, hạnh phúc. Theo Người, độc lập dân tộc
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
23

phải gắn liền với tự do hạnh phúc cho con người, trước hết ở những yêu cầu
tối thiểu như ăn, mặc, ở, học tập, việc làm và được chữa bệnh khi đau ốm. Do
vậy, mà ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Người cho
rằng: “Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì
tự do, độc lập cũng không để làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [9, tr.152]. Vì thế, cách mạng Việt Nam
sau khi giành được độc lập tự do tất yếu phải đi lên chủ nghĩa xã hội, Người
quan niệm “Chủ nghĩa xã hội trước hết là nhằm làm cho nhân dân thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một
đời hạnh phúc” [14, tr.17]. Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn “Chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị

áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [14, tr.128].
Người cũng đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh, chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng
dân tộc mới có điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội và chỉ có đi lên chủ nghĩa
xã hội mới bảo đảm vững chắc những thành quả do sự nghiệp giải phóng dân
tộc mang lại. Theo Người chỉ có gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mới
huy động được lực lượng to lớn là các giai cấp, các tầng lớp nhân dân vào
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Người còn chỉ rõ: “Cách mạng
giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng mạng xã hội chủ nghĩa thì
mới giành được thắng lợi hoàn toàn” [16, tr.305]. Đây là sự vận dụng sáng tạo
lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể Việt Nam, là kết quả của sự phát hiện đúng quy luật của cách mạng Việt
Nam, đưa cách mạng nước ta hòa vào đúng dòng thác cách mạng của thời đại.
Ngược lại có độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc lại một lần
nữa rơi vào vòng áp bức, bóc lột thì chắc chắn là quần chúng lao động không
thể chấp nhận điều đó và độc lập dân tộc cũng không được đảm bảo. Đối với
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
24

nhân dân ta độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, phải bảo đảm. Đối với nhân dân, độc lập
là quyền tự do, bình đẳng, công bằng cho xã hội, xóa bỏ mọi ách áp bức bóc
lột, không phụ thuộc và lệ thuộc vào bên ngoài. Những vấn đề đó chỉ có thể
tìm thấy giải quyết được bằng còn đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới thực sự làm cho dân giàu, mới đoàn kết được cộng đồng dân
tộc và không ngừng tăng cường sức mạnh về mọi mặt của đất nước. Đó sẽ là
những yếu tố cơ bản bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh
nói “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì có tiến

lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, Tổ quốc
mỗi ngày một giàu mạnh thêm” [13, tr 173].
1.2.3. Độc lập dân tộc là phải có nền kinh tế vững mạnh
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã rất
chú trọng đến “thực túc thì binh cường” để yên dân và đảm bảo cho non sông
bền vững. Vì vậy, sau khi giành được độc lập các nhà nước phong kiến ta đã
thực hiện nhiều chủ trương biện pháp nhằm phục hồi, đẩy mạnh phát triển sản
xuất, phát triển kinh tế để chấn hưng đất nước. Hồ Chí Minh, trong quá trình
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng cũng luôn quan tâm đến vấn đề này và quan
điểm xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, độc lập, tự chủ đã được Người đề
cập đến rất sớm. Một nền kinh tế vững mạnh, độc lập, tự chủ là nền tảng vững
chắc để phát triển đất nước. Trong một đất nước có nền kinh tế vững mạnh là
phải có sự độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách phát triển, không bị lệ
thuộc, phụ thuộc vào các nước khác hoặc phụ thuộc vào tổ chức quốc tế nào
đó về đường lối, chính sách, định hướng phát triển, vào những điều kiện kinh
tế, chính trị mà họ áp đặt cho ta, gây tổn hại đến chủ quyền quốc gia và lợi ích
cơ bản của dân tộc.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Thế Vĩnh

SVTH: Lộc Hải L ý Lớp: K33A - GDCD
25

Theo Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế là “làm sao cho dân ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Bởi vì độc lập rồi mà dân không
được hạnh phúc, còn nghèo khổ thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì. Như vậy
là sự hi sinh của hàng triệu người cho đất nước được độc lập là sự hi sinh vô
nghĩa. Khi quốc gia độc lập rồi thì việc xây dựng một nền kinh tế vững mạnh,
tự chủ là tối cần thiết. Vì vậy, ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lập tức tuyên bố giặc đói, giặc dốt là đồng minh của
giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng, nhà nước ta đã có nhiều

chính sách đẩy lùi nạn đói, từng bước đưa nền kinh tế nhanh chóng phục hồi.
Trong việc xây dựng đường lối phát triển kinh tế của nước ta, Hồ Chí
Minh xác định cần phải xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học – kĩ thuật tiên tiến,
đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, cải thiện phát triển kinh tế, sản
xuất kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi
nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn kinh tế với kĩ thuật, kinh tế với xã
hội.
Trong cơ cấu các ngành kinh tế, Người đặc biệt quan tâm đến vai trò
của nông nghiệp, lấy đó làm mặt trận hàng đầu. Theo Người, vì nước ta là
một nước nông nghiệp vì vậy phải coi trọng nông nghiệp mà trước hết là sản
xuất lương thực. Người đã viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp.
Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. trong công cuộc xây dựng nước
nhà, chính phủ trông mong vào lòng dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần
lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh” [9, tr.215]. Nói về vai trò của nông nghiệp Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
nông nghiệp không chỉ giải quyết vấn đề lương thực mà còn cung cấp nguyên
liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, công nghiệp đồng thời cung cấp lâm thổ
sản để mở rộng buôn bán với nước ngoài, phải phát triển nông nghiệp toàn

×