Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và giá trị của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.26 KB, 67 trang )

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 1 Lớp K33A – GDCD

























TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
********






HOÀNG THỊ HUẾ

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH
ĐẢNG GIỚ VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học :
Th.S TRẦN THẾ VĨNH







HÀ NỘI - 2011

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh

SVTH: Hoàng Thị Huế 2 Lớp K33A – GDCD
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới Thầy giáo Trần Thế
Vĩnh – Người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các Thầy, Cô trong Trường Đại Học sư phạm Hà
Nội 2, đặc biệt là các Thầy, Cô khoa Giáo Dục Chính Trị đã giúp đỡ em trong
suốt thời gian học tập tại trường.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo
điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong nhận được sự chỉ bảo của Thầy, Cô cũng như những ý kiến đóng
góp của các bạn sinh viên!
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Tác giả đề tài


Hoàng Thị Huế







Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 3 Lớp K33A – GDCD

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành bởi sự hướng dẫn của Thầy
giáo: Trần Thế Vĩnh. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm



Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Tác giả đề tài


Hoàng Thị Huế






Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 4 Lớp K33A – GDCD
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN 1
LỜI CAM ĐOAN 2
MỤC LỤC 3
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1 Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 7

3. Mục đích và nhiệm vụ 9
4.Đối tượng và phạm vị 9
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6.Đóng góp mới về khoa học của khóa luận 10
7. Kết cấu 10
Chương I: Cơ sở, lý luận và thực tiễn của vấn đề bình đẳng giới 11
1.1 Khái niêm và vị trí của bình đẳng giới trong đời sống xã hội 11
1.1.1 Bình đẳng 11
1.1.2 Bình đẳng giới 11
1.2 Một số lý luận về bình đẳng, bình đẳng giới 13
1.2.1 Một số quan niệm ngoài Mácxit về bình đẳng, bình đẳng giới 13
1.2.2 Một số quan niệm Mácxit về bình đẳng, bình đẳng giới 15
1.2.3 Quan niệm của Hồ Chí Minh về thân phận của người phụ nữ trong
xã hội cũ 19
1.2.4 Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới 21
Chương II: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới 23
2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới 23
2.1.1 Hồ Chí Minh đã đánh gia cao vị thế, vai trò người phụ nữ trong xã
hội 23
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 5 Lớp K33A – GDCD
2.1.2 Hồ Chí Minh đã khơi dậy những tiềm năng to lớn ở phụ nữ 25
2.1.3 Chỉ ra những thiêú xót, hạn chế 26
2.1.4 Đảng, Nhà nước phải quan tâm tới phụ nữ bằng chính sách, bằng
pháp luật, bằng những đối xử bình đẳng, được học tập, được bồi dưỡng,
được cử vào các chức vụ lãnh đạo quản lý 26
2.1.5 Các biện pháp cụ thể để thực hiện giải phóng phụ nữ 30
2.2 Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới trong một số lĩnh
vực và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay 33
2.2.1 Trong đời sống xã hội 34

2.2.1.1 Trong lĩnh vực kinh tế 34
2.2.1.2 Trong lĩnh vực chính trị 35
2.2.1.3 Trong lĩnh vực văn hóa 38
2.2.2 Trong gia đình 39
2.2.2.1 Mối quan hệ vợ chồng, con cái 39
2.2.2.1 Mối quan hệ mẹ chồng- nàng dâu 41
2.3 Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay 42
Chương III: Giải pháp nâng cao bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay. 43
3.1 Thực trạng và nguyên nhân của bất bình đẳng giới 43
3.1.1 Thực trạng của bất bình đẳng giới 43
3.1.2 Những vấn đề đặt ra và những thách thức của vấn bình đẳng giới ở
Việt Nam hiện nay 44
3.1.3 Nguyên nhân của bất bình đẳng giới 50
3.2 Giải pháp nâng cao bình đẳng giới trong giai đoạn hiên nay 55
3.2.1 Tuyên truyên và nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phụ nữ
trong gia đình và xã hội 55
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 6 Lớp K33A – GDCD
3.2.2 Có chính sách phát triển kinh tế gia đình, tạo việc làm cho người
phụ nữ 58
3.2.3 Sử dụng pháp luật, xây dựng và hoàn thiện các thiết chế gắn với
việc đào tạo và sử dụng phụ nữ trong các công việc của Đảng, chính
quyền, đoàn thể 59
KẾT LUẬN 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65





Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 7 Lớp K33A – GDCD
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, sự tiến bộ của con người được xem là tiêu chuẩn cao nhất
của phát triển xã hội. Sự phát triển xã hội đòi hỏi phải đem lại công bằng,
bình đẳng cho mọi người (cả nam và nữ) trong cơ hội và điều kiện cống hiến
cũng như hưởng thụ các thành quả của phát triển.Điều này hoàn toàn phù hợp
với mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng được
xem là triệt để nhất trong lịch sử nhân loại.
Trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển, việc chăm lo nguồn lực con người là một nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Chăm lo phát triển nguồn lực con người hướng vào cả nam và nữ với
các tiêu chí: Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thẻ chất, phong phú về
tình cảm, đạo đức.
Cuối thế kỷ XX, các quốc gia đều đạt những thành tựu quan trọng về
phát triển con người. Nhưng đem so sánh chỉ số phát triển giữa nam và nữ,
chúng ta nhận thấy rằng sự phát triển năng lực của phụ nữ ở tất cả các quốc
gia còn thấp hơn nam giới, đặc biệt tại các quốc gia chậm phát triển.
Là một nước nông nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam trong những thập kỷ tới tập trung trước hết cho nông nghiệp và
nông thôn.Quá trình này đòi hỏi phải phát huy mọi nguồn lực,đặc biệt là
nguồn lực con người.Theo thống kê, phụ nữ chiếm 56% lao động trong nông
,lâm nghiệp, đảm đương 75% công việc của nhà nông, họ đang đóng góp
phần quan trọng đưa Việt Nam vào hàng thứ hai về xuất khẩu gạo và cà phê
trên thế giới.Phụ nữ không chỉ tham gia sản xuất mà còn làm phần lớn công
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh

SVTH: Hoàng Thị Huế 8 Lớp K33A – GDCD
việc gia đình đồng thời họ cũng tham gia tích cực vào mọi lĩnh vực hoạt động
xã hội Tuy nhiên , so với nam giới, phụ nữ còn rất hạn chế về trình độ, năng
lực, họ đang gặp nhiều khó khăn , thách thức trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và kinh tế thị trường.Mặc dù có đóng góp lớn cho phát triển
nhưng xã hội cũng như gia đình chưa đánh giá hết cống hiến của phụ nữ , họ
còn chịu nhiều thiệt thòi trong phát triển cá nhân.Chẳng hạn, phụ nữ chiếm số
đông trong những người mù chữ, những người mắc bệnh tật và ít có cơ hội
,điều kiện học hành, vui chơi giải trí Sự hạn chế cơ hội phát triển ở phụ nữ
trực tiếp làm giảm sút phúc lợi gia đình và xã hội đồng thời là một cản trở đối
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Các yếu tố tích cực và tiêu cực đang được phản ánh trong cuộc sống gia
đình,đặc biệt là trong quan hệ về giới.Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa sẽ như thế nào nếu người phụ nữ chịu những thiệt thòi ,bất công ngay từ
trong gia đình;nếu sự phát triển năng lực của phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại
ngay từ gia đình?Đây là những câu hỏi đang đặt ra bức thiết cho các nhà
hoạch định chiến lược phát triển gia đình khi nhân loại đang bước vào nền
văn minh trí tuệ.Thực tế này đã thôi thúc em chọn vấn đề:"Tư tưởng Hồ Chí
Minh về bình đẳng giới và giá trị của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay" làm đề tài khóa luận.
2. Lịch sử nghiên cứu:
Vấn đề giải phóng phụ nữ được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin đề cập rất sớm.Ở Việt Nam,vấn đề giải phóng phụ nữ cũng được Đảng
Cộng sản Việt Nam quan tâm ngay từ khi mới thành lập( năm 1930 ) .Từ góc
độ nghiên cứu lịch sử,trong tác phẩm "Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại",
của giáo sư Lê Thị Nhâm Tuyết, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
(1975), đã đề cập khá sâu sắc vị thế người phụ nữ Việt Nam trong gia đình và
ngoài xã hội suốt chiều dài lịch sử,từ khi khai phá nền văn minh của dân tộc
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 9 Lớp K33A – GDCD

cho đến những năm 60.Song có lẽ việc nghiên cứu về phụ nữ và gia đình ở
Việt Nam chỉ được đặt ra và giải quyết như một bộ môn từ năm 1987 với sự
ra đời Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ (sau đổi thành Trung tâm Nghiên cứu
khoa học về gia đình và phụ nữ năm 1993).Cho đến nay,ở Việt Nam đã có
nhiều trung tâm nghiên cứu về phụ nữ và gia đình như:
-Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển.
-Trung tâm Nghiên cứu lao động nữ thuộc Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội.
-Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo về phụ nữ-Đại học Quốc gia Hà
Nội.
-Khoa phụ nữ học-Trường Đại học Mở, Thành phố Hồ Chí Minh.
Mặc dù thời gian chưa nhiều nhưng được sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và sự tâm huyết của nhiều nhà khoa
học,một số vấn đề lý luận và thực tiễn nghiên cứu phụ nữ và gia đình Việt
Nam đã được đặt ra,xem xét và có hướng giải quyết đúng đắn, trong đó có
những chủ đề nghiên cứu về phụ nữ và gia đình.
Nhiều công trình nghiên cứu được tiến hành độc lập hoặc tổ chức liên
ngành mà kết quả đã được công bố. Nhiều cuộc hội thảo được tổ chức đã góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu
bình đẳng giới.Nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu và xuất bản nhiều tác
phẩm có giá trị như: ''Phụ nữ, giới và phát triển" của tiến sĩ Trần Thị Vân
Anh và tiến sĩ Lê Ngọc Hùng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1996; "Phụ nữ và bình
đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam" của giáo sư Lê Thi, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội, 1998 là những tác phẩm đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ
và gia đình theo phương pháp tiếp cận giới - một phương pháp nghiên cứu
mới mẻ nhưng rất hiệu quả.Các công trình trên đã nghiên cứu về giới, phụ nữ
và giải phóng phụ nữ trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 10 Lớp K33A – GDCD
Trước tình hình đó, em mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc

nghiên cứu:"Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và giá trị của nó trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay" cả về phương diện lý luận và thực
tiễn. Đề tài làm rõ thực trạng bình đẳng giới, đề xuất các giải pháp nhằm giảm
dần bất bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ:
3.1 Mục đích:
Làm rõ thực trạng bình đẳng giới trong công cuộc đổi mới.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm giảm dần bất bình đẳng giới, tiến
tới thực hiện bình đẳng giới trong xã hội.
3.2 Nhiệm vụ:
Hệ thống, khái quát những quan điểm ngoài mácxit, mácxit, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới.
Tìm hiểu quan hệ bình đẳng giới theo quan niệm phương Đông và
phương Tây.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm giảm dần sự bất bình đẳng về giới,
tiến tới thực hiện bình dẳng giới trong toàn xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi:
4.1 Đối tượng:
Khóa luận tập trung nghiên cứu bình đẳng giới trong lịch sử loài người;
tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới; bình đẳng giới trong các lĩnh vực.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận làm rõ bình đẳng giới trong xã hội phương Đông, phương
Tây; tư tưởng bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng trong
giai đoạn đổi mới hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 11 Lớp K33A – GDCD
5. Phương pháp:
Khóa luận kế thừa các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và phương pháp tiếp cận giới để tìm hiểu, phân tích, lý
giải sự bình đẳng giới.

Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: logic và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với điều tra xã hội
học.
6. Đóng góp mới về khoa học của khóa luận:
Bước đầu khóa luận đã kết hợp quan điểm mácxit, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam với phương pháp tiếp cận giới
trong xem xét, lý giải vấn đề bình đẳng giới. Sự kết hợp này được coi là bước
phát triển logic của quá trình nhận thức, làm sáng tỏ hơn vấn đề lý luận về
giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới.
Khóa luận đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sự bình đẳng về
giới, coi đây là một tiền đề, tiền đề quan trọng nhằm phát huy nguồn nhân lực
hiện nay.
7. Kết cấu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở, lý luận và thực tiễn về vấn đề bình đẳng giới.
Chương II: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới.
Chương III: Giải pháp nâng cao bình đẳng giới trong giai đoạn hiện
nay.





Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 12 Lớp K33A – GDCD
CHƯƠNG I: CƠ SỞ, LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

1.1. Khái niệm và vị trí của bình đẳng giới trong đời sống xã hội:
1.1.1. Bình đẳng:

Theo từ điển Tiếng Việt:"Bình đẳng là sự ngang nhau về quyền lợi và
địa vị."
[
16;tr 124]
Theo từ điển chủ nghĩa khoa học:"Bình đẳng là những điều kiện và
những khả năng ngang nhau đối với việc tự do phát triển năng lực và thỏa
mãn các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội, địa vị như nhau của
mọi người trong xã hội.Bình đẳng được hiểu khác nhau trong các thời đại
lịch sử khác nhau."[15; tr 203]
1.1.2. Bình đẳng giới:
Bình đẳng giới nói cách khác chính là bình đẳng nam - nữ.Đó là ước
mơ, cũng chính là mục tiêu của nhiều quốc gia trong tiến trình phát triển.Mỗi
chúng ta đều biết, phụ nữ chiếm gần một nửa dân số thế giới.Trong lịch sử
đấu tranh của các dân tộc, họ đã đóng góp công sức vô cùng to lớn để giành
và giữ nền độc lập cho quê hương, đất nước.Trong lịch sử Việt Nam đã có
biết bao nữ anh hùng hy sinh thân mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc như :Bà
Trưng, Bà Triệu, Võ Thị Sáu Còn trong gia đình, họ luôn là người vợ, người
mẹ đảm đang, chịu thương, chịu khó, thương yêu chồng con, góp phần vào sự
bình ổn của xã hội, đem lại hạnh phúc đến cho mọi người.Mặc dù vậy, trên
thực tế chưa ở nước nào phụ nữ thực sự được hoàn toàn bình đẳng, chị em
phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới, và nhiều nơi phụ nữ vẫn bị áp
bức, bóc lột nặng nề, phải kéo dài một cuộc khổ cực.Tình trạng này đặc biệt
nhiều ở các nước đang phát triển, chậm phát triển.Giải phóng phụ nữ thực
hiện triệt để các quyền bình đẳng nam nữ, đó là ước mơ bao đời, là mục tiêu
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 13 Lớp K33A – GDCD
đấu tranh của bao thế hệ phụ nữ.Trước nguyện vọng đó, Liên Hợp Quốc ngay
từ khi thành lập đã quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam-nữ.Hiến Chương của
Liên Hợp Quốc tuyên bố :"Các dân tộc hợp thành Liên Hợp Quốc kiên quyết
khẳng định lại niềm tin vào các quyền cơ bản của con người, vào phẩm giá

của con người, vào các quyền bình đẳng giữa các nước lớn cũng như nhỏ."
Bất bình đẳng giới có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, nó xuất hiện ngay
trong xã hội loài người.Hiện tượng này bắt đầu cùng với sự chuyển đổi từ chế
độ mẫu hệ sang phụ hệ trên phạm vi toàn cầu, sau khi xác lập quyền tư
hữu.Sự bất bình đẳng được bắt đầu từ trong gia đình, từ những mối quan hệ
đặc biệt như quan hệ vợ chồng, quan hệ ruột thịt Chính vì thế nó diễn ra có
vẻ êm ái, hầu như không gặp phải sự phản kháng mãnh liệt nào từ phía nữ
giới.Sự áp đặt về giới đã mang tính vô hình từ nhiều thế kỷ này :"Có lẽ trong
3 hình thức bất bình đẳng lớn nhất trong lịch sử nhân loại( bất bình đẳng
chủng tộc, bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng giới) thì bất bình đẳng giới
chính là nguồn gốc đích thực của mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ
vợ chồng.những nhu cầu, lợi ích cá nhân không được đáp ứng trong hôn nhân
dần dần trở thành xung đột , kéo theo những hậu quả tiêu cực về mặt xã
hội."[3; tr 98]
Theo giáo sư Lê Thi "Những khác biệt về giới tính giữa người đàn ông
và người đàn bà là những đặc điểm tự nhiên của cơ thể con người và chức
năng của nó là bẩm sinh và không thay đổi."[12;tr 20]."Giới" mà chúng ta
đang xem xét ở đây chính là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học,
chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội.Nói về "giới" là nói về vai trò
trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và
nữ.Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao
động, phân chia các nguồn của cải vật chất và tinh thần , cách đáp ứng nhu
cầu của nam và nữ trong xã hội.Giữa nam và nữ có mối quan hệ, đó là mối
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 14 Lớp K33A – GDCD
quan hệ xã hội và quan hệ quyền lực, mối quan hệ này thường thể hiện trong
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, trong sinh hoạt xã hội, trong sinh hoạt gia
đình, trong sinh hoạt cộng đồng.Những yếu tố ảnh hưởng đối với quan hệ giới
hết sức đa dạng và biến đổi không ngừng :đó là trình độ văn minh của thời
đại, đặc điểm dân cư, dân tộc, quốc gia, khu vực, ảnh hưởng của tôn giáo, của

nền văn hóa, đặc điểm giai cấp, tập thể, xã hội, đặc điểm của lứa tuổi
Từ phân tích trên , chúng ta có thể đi đến kết luận :"Bình đẳng giới có
nghĩa là các em gái được đến trường học như các em trai, là các cơ hội kinh
tế được mở ra đối với phụ nữ, là các gia đình nghèo được hưởng lợi từ các
hỗ trợ chăm sóc sức khỏe bà mẹ Bình đẳng cũng có nghĩa là phụ nữ hoàn
toàn có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và ra quyết định Bình
đẳng góp phần chấm dứt nghèo nàn.Bình đẳng là một ưu tiên cho công cuộc
phát triển là nền tảng của phát triển".[14; tr 167] Những quan điểm về vấn
đề bình đẳng giới này, trước sự biến đổi hàng ngày hàng giờ của nền kinh tế
thị trường mang tính toàn cầu hóa.Nó được thể hiện khác nhau ở từng quốc
gia, dân tộc và cũng có sự khác nhau giữa các tỉnh thành trong đất nước Việt
Nam.
1.2. Một số vấn đề lý luận về bình đẳng, bình đẳng giới:
1.2.1 Một số quan niệm ngoài Mácxit về bình đẳng, bình đẳng giới:
Theo quan điểm của một số nhà Xã Hội Chủ Nghĩa không tưởng trong
đó có Tomatx Moro nêu quan điểm hôn nhân tự do, mọi người đều có quyền
lựa chọn vợ hoặc chồng.Chế độ một vợ, một chồng được xã hội thừa nhận và
bảo hộ. Moro viết:"Chỉ có dân đảo thỏa mãn với chế độ một vợ, một
chồng nên hôn nhân ở đây rất ít khi bị tan vỡ."[15; tr 167] Theo Moro, về
giáo dục thì tất cả trẻ em được nuôi dưỡng trong nhà trẻ.Mọi trẻ em nam nữ
đều được hưởng chế độ giáo dục chung.Đối với thanh niên, giáo dục cao cấp
là bắt buộc.Học tập văn hóa được kết hợp với nghề thủ công và nông nghiệp.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 15 Lớp K33A – GDCD
Theo Giêrac Uynxtenly thì nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng là
hợp lý.Gia đình sống riêng, độc lập, không chung chạ nhiều mặt với xã hội,
chống sự bạc đãi xảy ra trong mỗi gia gìn, nhất là đối với phụ nữ và con cái.
Bình đẳng giới là một vấn đề không của riêng một quốc gia nào, dân
tộc nào mà nó là vấn đề mang tính toàn cầu.
Hiện nay đang tồn tại 3 quan niệm về bình đẳng giới:

Một là, Bình đẳng là đối xử như nhau, mà không quan tâm đến sự khác
biệt về giới tính.
Hai là, Bình đẳng trên cơ sơ chấp nhận những điều kiện khác nhau của
2 giới tính, từ đó dẫn đến quan niệm cho rằng nam giới phải gánh vác những
công việc nặng nề hơn.Đây là những cách hiểu sai lầm, khoét sâu thêm tình
trạng bất bình đẳng.
Ba là,thừa nhận nam nữ có những sự khác nhau, từ đó tạo điều kiện để
người phụ nữ được bình đẳng với nam giới trước những cơ hội, được khẳng
định bản thân mình.Vì vậy, tạo cơ hội ngang bằng dựa trên đặc điểm khác biệt
của 2 phái mới là công bằng thực sự.
Qua đó bình đẳng được hiểu là Bình đẳng, không có nghĩa là cào bằng
ngang nhau, vợ nấu cơm thì chồng phải rửa chén, chồng góp 2 triệu thì vợ
cũng phải góp 2 triệu.Bình đẳng ở đây là người phụ nữ được giải trí, nghỉ
ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi, được ''sẻ chia'' trách nhiệm và quan
trong hơn là họ phải có cơ hội thăng tiến và phát triển như nam giới.
Bất bình đẳng giới phải chăng là hiện tượng xã hội không thể nào tránh
khỏi? Về vấn đề này có nhiều ý kiến.Có người cho rằng, bất bình đẳng luôn
biểu hiện bởi sự khác biệt giữa các cá nhân.Nếu có một xã hội mở và con
người khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó sẽ làm hàm ý rằng bất
bình đẳng là không thể tránh được.Đó là một thực tế của xã hội.Theo Cauthen
:một số bất bình đẳng đến như là kết quả không thể tránh được như bất bình
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 16 Lớp K33A – GDCD
đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh thần và những khía cạnh
của nhân cách.
Trong thực tế, vẫn còn tồn tại những khác biệt trong kiểu phân chia giới
như là kết quả không thể tránh được của bất bình đẳng.Aristotle đã nói rằng:
đàn ông bản chất là thống trị, và đó là một luật lệ.Gần đây, Goldberg còn cho
rằng sự thống trị và sự thành đạt của nam giới là khả năng không thể đảo
ngược, bởi có sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ.

Khác hẳn với quan niệm trên, một số người cho rằng bất bình đẳng chủ
yếu là do cấu trúc của hệ thống xã hội gây ra chứ không phải là do sự khác
biệt về tài năng, đặc điểm và nhu cầu cá nhân.
Những quan điểm trên đây về bất bình đẳng hoạc quá nhấn mạnh đến
những yếu tố sinh học của cá nhân, hoặc quá thiên về yếu tố kinh tế như là
nguyên nhân gây bất bình đẳng xã hội.Mac Weber coi sự bất bình đẳng là một
hình thức thống trị của nam giới, vốn có nguồn gốc về sức khỏe, về thể lực
của nam giới.Dần dần sức mạnh cơ bắp được thay thế bằng chế độ nam trị,
tức là một hệ thống các giá trị xã hội và niềm tin vốn hợp thức hóa sự bị trị
của phụ nữ trong gia đình cùng các thế chế khác.Hậu quả là giới trở thành cơ
sở để hình thành nhóm vị thế, dẫn đến loại trừ phụ nữ ra khỏi các nhóm do
nam giới thống trị.
1.2.2. Quan niệm Mácxit về bình đẳng, bình đẳng giới:
Chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm: bình đẳng của mỗi người, với tư cách
chủ thể có địa vị ngang nhau về phương diện chính trị-xã hội, là sự bảo đảm
những điều kiện và những khả năng cần thiết và thích hợp với mỗi người
nhằm tự do phát triển năng lực và thỏa mãn những nhu cầu của tất cả các
thành viên trong xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, không có ''bình đẳng nói chung'' cũng không
có ''dân chủ nói chung'' tách khỏi cơ cấu kinh tế-xã hội.Nhưng xét đến cùng,
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 17 Lớp K33A – GDCD
bình đẳng không chỉ là xóa bỏ những đặc quyền chính trị nào đó của một giai
cấp hay một tầng lớp nào đó mà xóa bỏ ngay những sự khác biệt về xã hội-
giai cấp.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng vấn đề bất bình đẳng
nam nữ, sự áp bức của giới này với giới kia diễn ra trong xã hội loài người là
do nhiều yếu tố thuộc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và nhận thức quy
định, trong đó kinh tế là nguyên nhân chính tác động đến vai trò, thứ bậc của
mối quan hệ nam nữ trong loài người.Loài người đã chứng kiến thời đại

''hoàng kim" của phụ nữ trong thời kỳ công xã nguyên thủy,thời kỳ nắm
quyền tối cao của phụ nữ,thậm chí là thống trị đối với đàn ông.Tuy nhiên, vị
trí ấy đã bị "đổi ngôi"kể từ khi chế độ tư hữu xuất hiện và phát
triển.Ph.Angghen viết :"Chế độ một vợ, một chồng là hình thức gia đình đầu
tiên không dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện
kinh tế tức là dựa trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng
nguyên thủy và tự phát.Sự thống trị của người chồng trong gia đình, sự sinh
đẻ ra những đứa con chỉ có thể là con của người chồng và phải được thừa
hưởng tài sản của người ấy".[11; tr 356]
Sở dĩ, địa vị xã hội của phụ nữ lúc bấy giờ luôn thấp kém hơn nam giới
là bắt nguồn từ địa vị kinh tế của họ.Trong cả 3 loại quan hệ sản xuất gồm
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quan hệ sản xuất và
quan hệ phân phối sản phẩm làm ra đều do nam giới nắm giữ và giữ vai trò
quyết định, người phụ nữ hầu như chỉ đứng ngoài cuộc đối với 3 mối quan hệ
cơ bản trên.
Trong tác phẩm:"Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và chế độ
Nhà nước", C.Mác và Ph.Angghen viết:"Tình trạng không bình quyền giữa
đôi bên do những quan hệ xã hội trước kia để lại cho chúng ta, tuyệt nhiên
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 18 Lớp K33A – GDCD
không phải là nguyên nhân mà là kết quả của việc áp bức của đàn ông với
người đàn bà về mặt kinh tế”
[11;
tr
15].
"Sự đối lập giai cấp đầu tiên trong lịch sử là trùng với sự phát triển
của sự đối kháng giữa chồng và vợ trong hôn nhân cá thể, và sự áp bức đầu
tiên là trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà".[3;tr 104]
Theo từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học:"Sự xuất hiện chế độ tư hữu
dẫn đến sự phụ thuộc về mặt kinh tế của người phụ nữ vào người chồng, vào

người cha, còn trong các giai cấp bị bóc lột nó đồng thời dẫn đến sự nô dịch
người phụ nữ về mặt giai cấp"[15; tr 39]
Như vậy, có thể khẳng định sự chuyển giao quyền lực giữa phụ nữ và
nam giới gắn liền với sự xuất hiện của chế độ tư hữu.Sự "đổi ngôi" này đã
đánh dấu một mốc mới về sự bất bình đẳng nam nữ trong lịch sử nhân loại và
cho đến tận bây giời mối quan hệ vẫn còn tồn tại dai dẳng ở nhiều quốc gia
trên thế giới ở những mức độ và hình thức biểu hiện không giống nhau.
Tuy nguyên nhân chính của bất bình đẳng nam nữ là kinh tế, nhưng
kinh tế không phải là yếu tố duy nhất. Bên cạnh đó có các yếu tố phi kinh tế,
thuộc về truyền thống văn hóa xã hội.Đây là quan điểm mang tính chất duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Ph.Angghen đã từng nêu rõ quan
điểm này: Chúng tôi coi những điều kiện kinh tế là cái cuối cùng quyết định
sự phát triển lịch sử.Nhưng chủng tộc cũng là một nhân tố kinh tế Sự phát
triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật là
dựa trên sự phát triển kinh tế.Nhưng tất cả những sự tác động đó đều tác động
lẫn nhau và cũng tác động đến cơ sở kinh tế.Hoàn toàn không phải điều kiện
kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng
thụ động.Trái lại có sự tác động qua lại trên cơ sở tính tất yếu kinh tế xét đến
cùng bao giờ cũng tự vạch ra con đường đi của nó.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 19 Lớp K33A – GDCD
Hình thành trên cơ sở kinh tế, song các hình thái ý thức không bao giờ
cũng phản ánh trực tiếp, trùng khít với kinh tế mà có tính độc lập tương đối
của nó.Những thói quen, tập tục lạc hậu vốn bị khúc xạ rất phức tạp trong
những bối cảnh lịch sử cụ thể nhất định có thể trở thành những nhân tố làm
trầm trọng hơn, gay gắt hơn sự bất bình đẳng xã hội nói chung, bất bình đẳng
nam nữ nói riêng.Cùng với ý thức thống trị của đàn ông do nắm được địa vị
kinh tế, những yếu tố kinh tế-xã hội tương tác qua lại với nhau càng làm tăng
thêm mức độ của bất bình đẳng nam nữ.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, để tiến tới sự bình đẳng

nam nữ phải giải phóng phụ nữ cần phải thực hiện những quá trình thực tiễn
cách mạng sau:
Một là, cần phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xây
dựng chế độ công hữu nhằm xóa bỏ sự lệ thuộc về kinh tế của người phụ nữ
đối với nam giới.Cần phải giải phóng phụ nữ ra khỏi sự áp bức, bất công, bóc
lột và bất bình đẳng trong nền sản xuất xã hội.Thực hiện tốt điều này sẽ tạo
điều kiện cho việc xây dựng bất bình đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài xã
hội."Sự thống trị của người đàn ông trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả
của sự thống trị của họ về kinh tế và sẽ tiêu vong cùng với sự thống trị về kinh
tế"[11;tr 127].
Hai là, cần phải giải phóng phụ nữ thoát khỏi ràng buộc quẩn quanh
chuyện bếp núc.Tạo những điều kiện và cơ hội để phụ nữ tham gia vào nền
sản xuất xã hội.C.Mác và Ph.Angghen viết :"Điều kiện tiên quyết để giải
phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã hội
và điều kiện đó lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cá thể không còn là một địa
vị kinh tế của xã hội nữa".[ 11; tr 116 ]
Ba là, cần phải tiến tới xóa bỏ các phong tục, tập quán định kiến về giới
và tâm lý coi thường phụ nữ trong các nhóm xã hội, coi đây là một trong
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 20 Lớp K33A – GDCD
những giải pháp cần được chú trọng giải quyết .Việc tuyền truyền, giáo dục
và vận động xã hội nhận thức được ý nghĩa của việc nâng cao bình đẳng nam
nữ và góp phần thúc đẩy gia đình ổn định và xã hội phát triển bền vững.
Bốn là, xây dựng quan hệ gia đình bình đẳng hòa thuận, quan hệ hôn
nhân cần dựa trên cơ sở tình yêu.Tình yêu đó phải dựa trên sự thỏa thuận giữa
2 người, gắn với trách nhiệm bình đẳng và việc thực hiện hôn nhân một vợ,
một chồng theo nghĩa chân chính của nó.Ph.Angghen cho rằng phải để cho
thanh niên có quyền tự do lựa chọn chính bạn đời của mình.Khi hạnh phúc gia
đình thực sự không còn nữa, Angghen tán thành giải quyết li hôn và coi đó là
điều kiện cần thiết cho cả hai bên và xã hội.

1.2.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thân phận của người phụ nữ trong
xã hội cũ:
Ở phương Đông, tư tưởng "trọng nam, khinh nữ", bất bình đẳng vẫn
đang tồn tại khá dai dẳng trong xã hội.
Trong xã hội Trung Quốc thì quan điểm của Nho Giáo chi phối, người
phụ nữ trong gia đình tuyệt đối nghe theo chồng.Người phụ nữ được giáo dục
theo tinh thần:
"Gái thì tiết hạnh là câu trau mình"
Phụ nữ lấy chồng sáng nâng khăn, chiều sửa túi cho chồng, phục vụ
cho sự nghiệp của chồng con.Đem tài khéo léo nấu nướng cho chồng con ăn
ngon miệng, trang điểm dung nhan đẹp đẽ cho chồng nhìn ngắm, nói năng
nhỏ nhẹ hiền thục, lễ phép cho chồng êm tai, và giữ gìn sự thủy chung tuyệt
đối với chồng.
Phụ nữ đấu tranh cho bình quyền nam nữ song tại sao trọng nam khinh
nữ vẫn còn được xem như là mặc nhiên trong xã hội?Nhìn vào Nhật Bản, Hàn
Quốc họ là những quốc gia phát triển hiện đại nhưng đàn ông lại luôn có cái
nhìn khắt khe cho phụ nữ và luôn có tư tưởng thống trị trong đầu, luôn xem
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 21 Lớp K33A – GDCD
mình là tối thượng, là có quyền quyết định tất cả.Các nước Arap giàu có và
ngày càng hiện đại vẫn không có một chút định kiến xã hội nào bị lung lay
cho cơ hội thực hiện quyền phụ nữ trong xã hội. Người phụ nữ phương Đông
bị trói chặt vào "tam tòng", "tứ đức" đã ăn sâu vào trong tiềm thức.
Vấn đề trọng nam khinh nữ trong xã hội phương Đông là vấn đề lớn và
có liên quan tới lịch sử, văn hóa, xã hội không thể giải thích suông được.Có
phải do phụ nữ chưa đấu tranh đủ mạnh để giành lấy quyền bình đẳng cho
mình, hay tại đàn ông phương Đông cổ hủ lạc hậu hơn nam giới phương Tây?
Về phía nam giới, họ vẫn cứ xem phụ nữ là sở hữu của họ, phải phục
tùng họ.Họ sinh ra và được giáo dục trong một xã hội mà mọi tôn ti trật tự đã
được sắp đặt theo hướng có lợi cho họ từ ngàn đời qua, cho nên họ đã quá

quen với tôn ti trật tự bất bình thường này đến nỗi không thể nào hiểu được
tại sao phụ nữ bây giờ lại cứ hay phát biểu về nữ quyền và bình đẳng giới.
Về phía phụ nữ, đa phần họ vẫn công nhận cái quyền của nữ giới trong
xã hội, thành ra một luật bất thành văn lại vô tình được duy trì trong giới nữ
vô điều kiện trong xã hội,từ thế hệ này sang thế hệ khác.Cứ nhìn những bà mẹ
chồng cổ hủ bây giờ thì rõ.Các bà luôn xem chồng và con trai là độc tôn trong
nhà, rằng con dâu nhất nhất vâng lời chồng, hy sinh cho chồng, hy sinh là sự
tự nguyện chứ không phải từ sự khuyến khích.
Phụ nữ chúng ta đã và đang sống trong cái sự chịu đựng vô hình ấy.Và
cũng vì phụ nữ Á Đông tin rằng chúng ta sinh ra là để cung phụng cho nam
giới nên họ đã chấp nhận những lề thói bất công trong xã hội.
Ở phương Đông do ảnh hưởng của Nho Giáo, của sự tồn tại lâu dài của
chế độ phong kiến nên đã dẫn đến quan niệm gia trưởng, đề cao vai trò của
người đàn ông.Phụ nữ bị hạ thấp, tình trạng bất bình đẳng kéo dài, dai dẳng
qua các thời kỳ.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 22 Lớp K33A – GDCD
Ở xã hội phương Tây,từ thời trung cổ, Châu Âu cũng rất khắc nghiệt
với phụ nữ không kém, nếu không nói là có phần nhỉnh hơn ở Châu Á.Phụ nữ
không có quyền hành gì trong gia đình, thậm chí không tự quyết định số phận
cho chính bản thân mình nữa.Họ không được học hành, không được hành
nghề trong xã hội, thậm chí không được ra đường một mình nếu không có nhũ
mẫu đi cùng.Họ chỉ đơn giản là một cái máy đẻ, máy khâu, máy nấu ăn trong
nhà.Hoặc cao sang hơn thì họ như là một bình hoa để tô sắc trong những gia
đình giàu có.Tuy nhiên, giàu hay nghèo thì họ đều có chung một đặc điểm:họ
chỉ là công dân hạng 2 trong xã hội.
Cho đến cách đây chỉ khoảng vài thế kỷ, phụ nữ Âu Mỹ mới thực sự
đòi được tý quyền bình đẳng giới trong xã hội.Khi đến thập niên 60, khi
phong trào hippie nở rộ và bừng bừng phong trào giải phóng tình dục cho nữ
giới, phụ nữ mới thực sự bắt đầu vươn lên và nắm giữ trọng trách trong xã

hội, được đối sử công bằng, và được bảo vệ.
Nhìn vào văn hóa hiện đại ngày nay của phương Tây, thật khó tưởng
tượng ngày xưa phương Tây cũng đã từng khắc nghiệt với phụ nữ như
thế.Nhưng phụ nữ phương Tây cũng không đơn giản tự nhiên được công nhận
trong xã hội.Họ phải trải qua nhiều biến cố thăng trầm, tự vùng lên đấu tranh
giành sự bình đẳng trong xã hội mới có được ngày hôm nay.
1.2.4 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới:
Trên cơ sở lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn
đề giải phóng phụ nữ đã được Đảng ta coi trọng ngay từ những ngày đầu mới
thành lập.Luận Cương Chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương được thông
qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 10/1930) đã nêu: nam nữ
bình quyền là một trong những nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương.
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 23 Lớp K33A – GDCD
Xuyên suốt quan điểm của Đảng về vấn đề phụ nữ là những luận điểm
của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ, về nhiệm vụ cách mạng
Việt Nam và về các biện pháp tiến tới bình đẳng nam nữ.
Chúng ta nhận thấy rằng, trong các chủ trương của Đảng và chính sách
của Nhà nước có rất nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện việc giải phóng phụ
nữ và bình đẳng nam nữ.Tuy nhiên còn qua ít văn bản cụ thể và các biện pháp
thực tế để nhằm từng bước tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản
trong người đàn ông.Thực tiễn nước ta còn nghèo, còn nhiều khó khăn và trở
ngại trong việc thực hiện các chính sách về cán bộ nữ ở nhiều cấp ủy và cấp
quản lý Nhà nước; Hiện tượng bạo lực gia đình đối với phụ nữ, các tệ nạn xã
hội trong đó có tệ nạn mại dâm chưa được ngăn chặn triệt để
Tóm lại, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự tiếp nối và cụ thể
hóa các quản điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bình đẳng nam nữ.Quan điểm
này nhấn mạnh vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, trong gia
đình;nhấn mạnh sự hỗ trợ cần thiết của nhà nước và xã hội để tạo điều kiện
cho người phụ nữ có thể giảm bớt các công việc gia đình để tham gia công tác

xã hội.Bên cạnh đó, các quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng cho thấy
tính chất lâu dài và khó khăn của cuộc đấu tranh vì bình quyền, bình đẳng và
sự cần thiết tập trung vào việc thay đổi nhận thức xã hội, thực hiện giải phóng
phụ nữ với việc xóa bỏ tư tưởng phong kiến của người đàn ông.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải phóng phụ nữ thực hiện nam nữ
bình đẳng là cơ sở lý luận, là nền tảng tư tưởng để Đảng và Nhà nước ta đề ra
phương hướng, giải pháp nhằm xóa bỏ triệt để tình trạng bất bình đẳng đối
với phụ nữ trong gia đình.


Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 24 Lớp K33A – GDCD
CHƯƠNG II: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI

2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới:
2.1.1 Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vị thế, vai trò người phụ nữ trong xã
hội:
Là học trò xuất sắc của C.Mác và V.I.Lênin, lại am hiểu lịch sử dân tộc
và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ vai
trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trong quá trình dựng nước , giữ nước .Hồ Chí
Minh dẫn lời của Mac :"Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội
mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc chắn không làm nổi.Xem tư tưởng và
việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào". Người cũng
dẫn lời của V.I.Lênin "Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn
cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công ".[4; tr
288]
Như vậy, Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nhà kinh điển của
chủ nghĩa xã hội khoa học đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong xã hội.Trong

ý tưởng của họ, việc giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền là một
mục tiêu lớn của cách mạng do Đảng cách mạng lãnh đạo. Điều này có thể
giải thích tại sao từ năm 1920 thế giới tiến bộ lấy ngày 8-3 là "Ngày đàn bà
con gái", sau này đổi là ngày "Quốc tế phụ nữ" nhằm đoàn kết phụ nữ các
nước đấu tranh để giải phóng giới mình, giành quyền bình đẳng về kinh tế,
chính trị và xã hội cho họ.
Cũng như Mác và Lênin, Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò của phụ nữ thế
giới nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng.Người nhận định rằng: 'Non sông
gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt
đẹp, rực rỡ".[6; tr 432]
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thế Vĩnh
SVTH: Hoàng Thị Huế 25 Lớp K33A – GDCD
Người cũng rút ra kết luận :''xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần
nào là không có đàn bà con gái tham gia", rồi khẳng định :''An Nam cách
mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công".[4; tr 288,289]
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng phụ nữ chiếm một nửa nhân loại: ''Nói
đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội'' [7; tr 523], cũng như vậy:"Phụ nữ Việt
Nam chiếm một nửa tổng số nhân dân ta.Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi phụ nữ."[8; tr
225].Người chỉ rõ :"Phụ nữ là một lực lượng lao động rất quan trọng"[9; tr
194].Vì vậy, theo Người,"Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng
một nửa loài người";"Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được
giải phóng";"Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa''.[10; tr 195].Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh rằng :muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội,"nhất định phải sản xuất cho thật nhiều.Muốn sản xuất nhiều thì
phải có nhiều sức lao động.Muốn nhiều sức lao động thì phải giải phóng lao
động của phụ nữ"[8; tr 523].
Quan niệm của Người cho thấy, giải phóng phụ nữ là một trong những
mục tiêu lớn của cách mạng.
Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã có dịp tìm

hiểu nhiều cuộc cách mạng diễn ra trên thế giới. Người rút ra kết luận: chỉ có
cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng " đến nơi" hay còn là cuộc cách
mạng triệt để, nghĩa là đem lại quyền làm chủ xã hội thực sự cho người dân "
Chính nhờ cuộc cách mạng này mà cơ sở của quyền tự do chân chính và
quyền bình đẳng thực sự đã được đặt ra cho loài người. Chính nhờ cuộc cách
mạng này mấ sự giải phóng phụ nữ sẽ có giá trị và có những ý nghĩa đầy đủ,
trọn vẹn"[15; tr 6]. Vì vậy, Hồ Chí Minh muốn ấm no, tự do, hạnh phúc thực
sự cho nhân dân và để thực sự giải phóng phụ nữ thoát khỏi cả ách áp bức dân
tộc lẫn ách áp bức xã hội.

×