Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc giải quyết xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495 KB, 65 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
*******************

NÔNG VĂN QUÝ

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO Ở TUYÊN QUANG
HIỆN NAY


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên nghành: Triết học Mác- Lênin


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TH.S NGUYỄN THỊ GIANG



HÀ NỘI - 2011
2

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Th.S
Nguyễn Thị Giang đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận này. Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các Thầy, Cô trong Trường Đại


học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các Thầy, Cô khoa Giáo dục Chính
Trị đã giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã
tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian
cũng như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những
thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo của Thầy, Cô cũng như
những ý kiến đóng góp của các bạn sinh viên!
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2011
Sinh viên thực hiện.

Nông Văn Quý






3

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Vận dụng quan điểm toàn diện
trong việc giải quyết xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện nay”
được hoàn thành bởi sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.S Nguyễn
Thị Giang.
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi,
không trùng với bất kỳ công trình nghiên cứu nào của các tác giả khác.




Hà Nội, ngày…tháng…năm 2011
Sinh viên thực hiện.

Nông Văn Quý








4

MỤC LỤC
Trang



MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản 5
1.2.Các quan niệm về nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay
và khái quát chương trình xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện nay. 15
Chương 2: THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TUYÊN
QUANG HIỆN NAY 26
2.1.Tình hình kinh tế- xã hội và tác động của nó trong việc giải quyết

xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện nay 26
2.2.Thực trạng trong việc giải quyết xóa đói giảm nghèo ở Tuyên
Quang hiện nay 29
Chương 3: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TUYÊN QUANG HIỆN
NAY 49
3.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xóa đói giảm
nghèo……… 49
3.2. Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc giải quyết xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay 51
KẾT LUẬN . 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61




5

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, xóa đói giảm nghèo được mọi quốc gia trên thế giới đặc biệt
quan tâm, đươc coi như yêu cầu cấp thiết về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa. Bởi vì, đói nghèo không những là lực cản lớn nhất của sự phát triển, mà
đói nghèo còn gây nên những tác động tiêu cực về mặt đạo đức, tinh thần, gây
mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia. Do vậy, giải
quyết tốt xóa đói giảm nghèo sẽ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước
về mọi mặt. Đối với Việt Nam nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng
không nằm ngoài quy luật đó.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, xóa đói giảm nghèo là một

trong những thách thức lớn của toàn Đảng, toàn dân. Toàn Đảng, nhà nước và
nhân dân Việt Nam cùng nhiều tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt Nam
đang cùng nhau tìm kiếm những giải pháp tiếp cận để giảm tỉ lệ nghèo đói ở
các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng sâu, vùng
xa.
Đặc biệt, Tuyên Quang là tỉnh miền núi nghèo ở phía Bắc nước ta.
Trong thời gian vừa qua, đồng thời với sự giúp đỡ của các tổ chức trong nước
và quốc tế tại Việt Nam trong việc thực hiện những mục tiêu quốc gia của
Đảng và nhà nước ta về thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Các cấp
Ủy Đảng và nhân dân trong tỉnh đã có nhiều những biện pháp đẩy mạnh công
tác xóa đói giảm nghèo và thu được những kết quả khả quan ban đầu. Thể
hiện ở kết quả giảm nghèo của tỉnh: số hộ nghèo giảm mạnh từ 31,60% năm
2006 xuống còn 25,24% năm 2007 đến năm 2009 giảm xuống còn 21,93%
[18, 16].
6

Thực tế trên cho thấy rằng, chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và
Nhà nước ta có nhiều ưu việt. Song, việc triển khai thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo đến các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều lúng
túng, bất cập và thiếu đồng bộ. Nhiều cán bộ được giao triên khai các chính
sách của chính phủ đến các vùng khó khăn còn yếu kém về năng lực, thiếu
kinh nghiệm và hiểu biết về tính ưu việt của chính sách xóa đói giảm nghèo
nên một số cán bộ đã thiếu đi cách nhìn khách quan và cách tiếp cận với
người nghèo, vùng nghèo dẫn đến hiệu quả giảm nghèo của chính sách xóa
đói giảm nghèo không cao. Đặc biệt là tỉnh Tuyên Quang tỉ lệ hộ nghèo đến
năm 2009 vẫn ở mức cao là 21,93% [18, 16]. Do vậy, tôi đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài: “Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc giải quyết xóa đói
giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xóa đói giảm nghèo trở thành vấn đề được các quốc gia trên thế giới

đặc biệt quan tâm, là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong phát triển
kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt. Đối với Việt Nam
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vì vậy, mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở
nước ta nói chung và ở Tuyên Quang nói riêng đã được đặt ra và thực hiện từ
lâu. Tuy nhiên, để công tác xóa đói giảm nghèo mang lại hiệu quả cao đòi hỏi
phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc và toàn diện các yếu tố dẫn đến
đói nghèo, tình hình kinh tế- xã hội và thực trạng, nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo ở Tuyên Quang hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù
hợp nhằm huy động sức mạnh tổng thể của toàn Đảng, toàn dân từ Trung
ương đến cơ sở để chương trình xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả cao.
Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về
chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước như: Nguyễn Thị Hằng
và Nguyễn Văn Thiều, “Đói nghèo ở Việt Nam”, Nxb Bộ lao động Thương
7

binh và xã hội Hà Nội (1993), các báo cáo tại các cuộc tọa đàm về chuẩn đói
nghèo ở Việt Nam tại Hà Nội tổ chức ngày 15 đến 16/2/2002 của các tác giả:
Nguyễn Phong, tổng cục thống kê của Vali Jamal- Đại diện của tổ chức lao
động quốc tế, của đại diện ngân hàng thế giới (WB) và một số bài báo được
đăng tải trên các tạp chí: Báo Tuyên Quang (chào mừng năm mới 2011), các
báo cáo chương trình xóa đói giảm nghèo của Sở lao động thương binh và xã
hội tỉnh Tuyên Quang.
Các công trình trên đều đề cập khác nhau về chuẩn nghèo đói, ngưỡng
nghèo đói, nguyên nhân gây ra nghèo đói và các kinh nghiệm tổng kết về
công tác xóa đói giảm nghèo ở các địa phương trong cả nước như: Bài nghiên
cứu về “Đói nghèo ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Hằng và Nguyễn Văn Thiều
chỉ nghiên cứu chung về đói nghèo ở Việt Nam… tuy nhiên, các nghiên cứu
về việc “vận dụng quan điểm toàn diện trong việc giải quyết xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay” các tác giả còn rất ít đề cập. Xuất phát
từ yêu cầu cấp thiết đó tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài trên, nhằm góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích
Làm rõ các nguyên nhân gây ra đói nghèo và thực trạng đói nghèo,công
tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay. Từ đó đưa ra những
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xoa s đói giảm nghèo ở tỉnh
Tuyên Quang.
* Nhiệm vụ
+ Làm sáng tỏ về mặt lí luận của quan điểm toàn diện trong triết học và
các quan niệm về đói nghèo.
8

+ Nghiên cứu thực trạng đói nghèo ở Tuyên Quang và tìm ra các
nguyên nhân dẫn tới thực trạng đói nghèo ở Tuyên Quang.
+ Từ đó vận dụng quan điểm toàn diện trong việc giải quyết xóa đói
giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
Nghiên cứu về chương trình xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện
nay.
* Phạm vi
Nghiên cứu về chương trình xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang giai
đoạn từ 2006-2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin. Phương pháp lôgic- lịch sử và các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác: phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh.
6. Ý nghĩa đề tài

Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề xóa đói giảm nghèo ở
tỉnh Tuyên Quang, từ đó góp phần:
- Làm tài liệu tham khảo cho nhiều nhà hoạch định chính sách của tỉnh
và Nhà nước.
- Làm tư liệu cho những người quan tâm đến công tác xóa đói giảm
nghèo.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương và 6 tiết.


9

Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái quát về phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng ra đời ngay từ khi triết học ra đời, trong quá trình phát
triển của triết học, phép biện chứng có ba hình thức cơ bản: Đó là phép biện
chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
Thời cổ đại- phép biện chứng chất phác, do trình độ tư duy phát triển
chưa cao, khoa học chưa phát triển nên các nhà triết học cả phương Đông lẫn
phương Tây, đều chỉ dựa vào những quan sát trực tiếp để khái quát những bức
tranh chung của thế giới. Ở phương Đông, phép biện chứng chất phác thể hiện
rõ trong “Thuyết âm dương”, “Thuyết ngũ hành” của triết học Trung Hoa cổ
đại, của các nhà triết học cổ đại. Ở phương Tây, dưới con mắt của Hêraclit,
mọi sự vật trong thé giới chúng ta luân vận động và thay đổi không ngừng.
Luận điểm bất hủ của Hêraclit: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng
một dòng sông” [14, 49]. Song, phép biện chứng này thiếu đi những căn cứ
khoa học. Vì vậy, nó đã bị phép siêu hình xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ thứ XV

thay thế.
Phép biện chứng duy tâm xuất hiện ngay trong triết học Cantơ và hoàn
thiện trong triết học Hêghen - một đại biểu suất sắc của triết học cổ điển Đức,
ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Tính chất duy tâm trong phép biện
chứng của Hêghen thể hiện ở chỗ: Ông coi “ ý niệm tuyệt đối” tha hóa thành
giới tự nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về chính mình trong tinh thần. Thực
chất, phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen, của ý niệm sản sinh
ra biện chứng của sự vật. Phép biện chứng cổ điển Đức có những đóng góp to
lớn vào sự phát triển tư duy biện chứng của nhân loại, thúc đẩy tư duy biện
10

chứng lên một trình độ cao. Nhưng với những hạn chế duy tâm nó chưa trở
thành cơ sở lý luận cho thế giới quan khoa học.
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó.
Mác, Ăngghen đã tiếp thu có phê phán triết học Hêghen và chủ nghĩa duy vật
Phoiơbăc. Đối với Hêghen trong tác phẩm Bộ tư bản, Mác đã viết: “ Ở
Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là
sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lí của nó đằng sau cái vỏ thần bí của nó”
[4, 67-68].
Mác tiếp thu có chọn lọc triết học cũ và phát triển cao hơn. Do vậy, bản
chất phép biện chứng của Mác cao hơn về chất so với phép biện chứng của
Hêghen, ông nói: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác
phương pháp biện chứng của Hêghen về căn bản, mà còn đối lập hẳn với
phương pháp biện chứng ấy nữa”.[14, 96]. Theo Hêghen, thì sự vận động của
tư duy mà ông đặt cho cái tên là ý niệm và biến nó thành một chủ thể độc lập,
chính chúa sáng tạo ra giới hiện thực và giới hiện thực này chẳng qua chỉ là
hiện tượng bên ngoài của ý niệm mà thôi. Trái lại, theo Mác thì sự vận động
của tư duy chỉ là sự phản ánh sự vận động hiện thực, di chuyển và biến hình
trong đầu óc con người. Nhờ đó mà chủ nghĩa Mác mang giá trị to lớn là tính
phê phán đối với mọi quan niệm sai lầm, những quan điểm siêu hình, chủ

trương triết trung, phản động.
Ăngghen đã chỉ rõ: Có thể khẳng định vắn tắt phép biện chứng là sự
thống nhất của các mặt đối lập. Như thế người ta sẽ nắm được hạt nhân của
phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có sự giải thích và sự phát triển
thêm.
Như vậy, đến Mác, Ăngghen và Lênin thế giới quan duy vật biện chứng
và phương pháp luận biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau trong
phép biện chứng ấy. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế của
11

phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện
chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát những quy luật
chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện chứng duy
vật trở thành một khoa học và là hình thức phát triển cao nhất, hoàn bị nhất
trong lịch sử phép biện chứng.
Phép biện chứng được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên
lý (nguyên lý về sự phát triển, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến), những cặp
phạm trù cơ bản (gồm 6 cặp phạm trù: Cái chung và cái riêng; nguyên nhân
và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức; bản chất và hiện
tượng; khả năng và hiện thực), những quy luật cơ bản (quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại; quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định).
Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về
những quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài người và của tư duy” [7, 201]. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất
trong phép biện chứng duy vật. Tuy nhiên, trong phạm vi bài khóa luận này
chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
1.1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến

Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, những câu hỏi được đặt ra là:
Các sự vât, hiện tượng và quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua
lại, tác động ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định những mối liên hệ đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho
rằng: các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên
cạnh cái kia, giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và chuyển
12

hóa lẫn nhau; nếu có chỉ là những liên hệ có tính ngẫu nhiên, bề ngoài. Hạn
chế của quan điểm siêu hình là sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên
ranh giới giả tạo giữa các sự vật, hiện tượng. Hạn chế này có nguồn gốc bởi
phương pháp tư duy siêu hình, nghiên cứu tách rời các lĩnh vực, bộ phận riêng
rẽ của thế giới gắn với trình độ tư duy khoa học còn ở giai đoạn sưu tập tài
liệu. Phương pháp đó không có khả năng phát hiện ra được cái chung, cái bản
chất, quy luật của sự tồn tại vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
Đối lập với quan điểm siêu hình, những người theo quan điểm biện
chứng lại cho rằng: Các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn
tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Thế giới như
một chỉnh thể thống nhất trong đó các sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối liên
hệ phổ biến.
Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, những người theo quan điểm chủ nghĩa
duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng: cái quy định
mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực
lượng tinh thần siêu tự nhiên hoặc cảm giác, ý thức của con người. Đứng trên
quan điểm duy tâm chủ quan, Beccơli cho rằng: Cảm giác là nền tảng mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm
khách quan, lại cho rằng: “Ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng.

Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định: Tính
thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng phong phú. Song, chúng đều chỉ là
những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất thế giới vật chất.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan chỉ biểu hiện sự tồn
tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất
13

tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua
lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng với các sự vật,
hiện tượng khác.
* Theo quan điểm duy vật biện chứng mối liên hệ phổ biến có tính
chất
- tính khách quan: Có thể khẳng định, mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng là khách quan, vốn có vì nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của
thế giới. Biểu hiện trong tất cả các quá trình: Tự nhiên, xã hội và tư duy sự
vật, hiện tượng nào cũng là một thể thông nhất của các mặt đối lập và sự vật,
hiện tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
Ngay trong cả sự vật vô chi, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác. Các mối liên hệ là vốn có của mọi
sự vật, hiện tượng; Nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- tính phổ biến: Không chỉ mang tính khách quan, mối liên hệ còn
mang tính phổ biến, tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
+ Thứ nhất, bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với các sự vật
hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
Chính vì vậy, hiện nay trên thế giới xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, khu vực
hóa mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Thứ hai, Mối liên hệ thể hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể
tùy theo từng điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức riêng

rẽ, cụ thể được các nhà khoa học nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật nghiên
cứu những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế
Ăngghen viết: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”. [14, 181]. Cùng với lí do trên, triết học gọi mối liên hệ
14

đó là mối liên hệ phổ biến. Nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các mối
liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới còn thấy rõ tính đa dạng
phong phú, nhiều vẻ của nó.
- Tính đa dạng: có thể phân chia các mối liên hệ đa dạng thành từng
loại tùy theo tính chất: đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp, độ nông
hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp. Mà có thể khái quát thành những mối
liên hệ khác nhau tùy theo từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên
ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và
mối liên hệ không bản chất. Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận
động và phát triển của bản thân các sự vật hiện tượng quy định tính đa dạng
của các mối liên hệ. Các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới,
được khái quát trong các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng:
+ Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng.
+ Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết qủa.
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng.
+ Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức.
+ Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực.
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận
động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự
quy định, chuyển hóa lẫn nhau, giữa các yếu tố, các thuộc tính của các mặt sự
vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. các mối
liên hệ khác nhau cũng có mối quan hệ biện chứng như mối liên hệ biện

chứng của các cặp mối liên hệ đã nêu trên.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ
phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau theo
15

phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của
chính các sự vật. Tuy sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối
nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết. Bởi vì, mỗi loại mối liên hệ đều có vị
trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.
Như vậy, có thể khẳng định. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong thế
giới cũng luân tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với các sự vật hiện tượng
khác. Do đó, muốn tìm hiểu về một sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta phải
đặt trong mối liên hệ, quan hệ với xung quanh. Nghĩa là, phải xem xét một
cách toàn diện, đó chính là nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý
mối liên hệ phổ biến.
* Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý mối liên hệ phổ
biến
- Quan điểm toàn diện
Từ việc nguyên cứu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật, rút ra quan điểm toàn diện. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ
rất đa dạng, phong phú. Do đó, khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta
phải có quan điểm toàn diện, tránh rơi vào quan điểm phiến diện, chỉ xem xét
sự vật, hiện tượng ở một vài mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
tính quy luật của chúng. Trên cơ sở quán triệt quan điểm toàn diện trong mọi
hoạt động nhận thức và thực tiễn, quan điểm toàn diện đặt ra yêu cầu cơ bản
sau:

Thứ nhất, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong tác động giữa sự vật đó với các sự vật khác. Cần tránh quan điểm phiến
16

diện, chỉ xem xét sư vật, hiện tượng ở một hoặc một vài mối liên hệ mà đã vội
vàng đi đến những kết luận về bản chất sự vật. Như Lênin từng nói: muốn
thực sự hiểu được sự vật cần hiểu bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả
các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. Chỉ trên cơ sở đó mới nhận
thức đúng về sự vật.
Thứ hai, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên…Để hiểu rõ bản chất của sự vật và có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt
động của bản thân. Chúng ta phải xem xét thấu đáo và phân biệt từng mối liên
hệ của sự vật để khái quát và làm nổi bật cái cơ bản nhất, quan trọng nhất của
sự vật, hiện tượng đó. Song, trong nhận thức và hoạt động, chúng ta cần chú ý
sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định.
Trong quan hệ giữa con người với con người chúng ta phải biết cách ứng xử
sao cho phù hợp với từng người.
Thứ ba, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào những sai lầm
của chủ nghĩa triết trung và thuật ngụy biện. Thực chất chủ nghĩa triết trung là
sự kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tạo nên một hình ảnh không đúng về
sự vật. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, theo quan điểm toàn diện khi tác
động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ của
sự vật ấy với các sự vật khác. Ví dụ: Để thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” một mặt chúng ta phải biết phát
huy nội lực, mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, nhất là xu thế toàn cầu hóa
đem lại.
Tóm lại, qua tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy

vật, rút ra được quan điểm toàn diện, đây là nguyên tắc phương pháp luận có
ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
17

- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Nguyên tắc lịch sử cụ thể có nghĩa là: trong những điều kiện hoàn cảnh
khác nhau thì mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng cũng khác nhau.
Bản thân nguyên tắc lịch sử- cụ thể đòi hỏi trước hết chúng ta phải xem
xét phương pháp tư duy là tính lịch sử. Những phương pháp cơ bản của tư
duy biện chứng là kết quả của lịch sử của lịch sử quá trình nhận thức, của tư
duy, đã thể hiện ở việc con người đi sâu nhận thức thế giới và vận dụng phép
biện chứng vào quá trình tư duy của con người. Phương pháp tư duy là sản
phẩm của thời đại lịch sử, nó được hình thành và phát triển trong những điều
kiện lịch sử nhất định. Khoa học về tư duy cũng giống như các khoa học khác
là về sự phát triển của lịch sử tư duy. Phương pháp tư duy của con người đã
trải qua một quá trình phát sinh và phát triển, trải qua một quá trình từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Có thể phân chia sự phát triển của phương
pháp tư duy của con người thành những giai đoạn sau:
- Phương pháp tư duy nguyên thủy.
- Phương pháp biện chứng chất phác thời cổ đại.
- Phương pháp tư duy cận đại.
- Phương pháp biện chứng hiện đại.
Những phương pháp đó tạo thành một hệ thống phương pháp dựa vào
nhau và phân biệt với nhau. Tính lịch sử, tính thời đại của phương pháp tư
duy của con người chứng tỏ: không có tư duy lí luận vĩnh hằng, không có
phương pháp tư duy cứng nhắc không thay đổi. Trong lịch sử nhận thức, lịch
sử phát triển tư duy của con người phương pháp tư duy mới được hình thành
trên cơ sở khắc phục những mâu thuẫn của tư duy cũ.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và
tác động vào sự vật phải chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi

trường cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát triển. Một
18

luận điểm nào đó trong điều kiện này là luận điểm khoa học nhưng sẽ không
phải luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Trong lịch sử triết học khi xem
xét các hệ thống triết học bao giờ ta cũng phải xem xét hoàn cảnh ra đời và
sự phát triển của các hệ thống đó.
Để xác định đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của
từng thời kì xây dựng đất nước bao giờ Đảng ta cũng phải phân tích tình hình
cụ thể của đất nước cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai
đoạn và từng thời kì đó. Dĩ nhiên, trong khi thực hiện đường lối, chủ trương
Đảng ta cũng luôn bổ sung và điều chỉnh kịp thời để phù hợp với diễn biến
của hoàn cảnh cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể có những đòi hỏi mang tính tổng hợp. Quán
triệt nguyên tắc này trong quá trình vận dụng phương pháp tư duy sẽ đưa
nhận thức của con người tới chân lí. Một khi xa rời những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể thì chân lí sẽ trở thành sai lầm.
Tóm lại, qua tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật chúng ta rút ra quan điểm toàn diện và nguyên tắc lịch sử- cụ thể. Đây là
những nguyên tắc phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
1.2. Các quan niệm về nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay và
khái quát chương trình xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện nay
1.2.1. Các quan niệm về đói nghèo trên thế giới và ở Viêt Nam hiện
nay
* Các quan niệm đói nghèo trên thế giới
Thông thường các nước sử dụng thước đo mức độ nghèo đói, dựa vào
tiêu chí tính trên đầu người để tính toán người nghèo. Tổng cục thống kê và
ngân hàng thế giới đã dựa trên những tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân
cư năm 1993 và năm 1998 ở Việt Nam và được chia thành hai ngưỡng nghèo:

19

ngưỡng nghèo thứ nhất, là số tiền cần mua lương thực hàng ngày được gọi là
ngưỡng nghèo về “lương thực thực phẩm”; Ngưỡng nghèo thứ hai gọi là
“ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả phần chi tiêu cho sản phẩm phi lương
thực.
Điểm xuất phát để xây dựng ngưỡng nghèo “lương thực thực phẩm” là
lượng thức ăn tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng. Trong nhiều năm
qua các nhà dinh dưỡng của tổ chức y tế thế giới, các cơ quan quốc gia và
quốc tế đã đưa ra nhiều kiến nghị về lượng dinh dưỡng để đảm bảo cho một
cuộc sống khỏe mạnh. Chỉ tiêu cơ bản nhất về lượng dinh dưỡng đưa vào cơ
thể là lượng ca- lo tiêu thụ. Tổ chức y tế thế giới và các cơ quan khác đã xây
dựng mức ca- lo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người.
Nhu cầu ca- lo của mỗi người là rất khác nhau, tùy thuộc vào độ tuổi, giới
tính và cường độ hoạt động thể chất mà họ thực hiện. Tuy vậy, để xây dựng
một ngưỡng nghèo cần phải xác định mức nhu cầu trung bình cho toàn bộ dân
số. Ngân hàng thế giới đã nhiều lần làm như vậy và con số phổ biến để xác
định ngưỡng nghèo là 2.100 ki- lô ca- lo cho mỗi người/ một ngày.
Tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhangen, Đan Mạch (tháng 3 năm 1995) đã đưa ra khái niệm về nghèo
cụ thể như sau: “người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1
USD/ mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản
phẩm thiết yếu để tồn tại”. [12].
Tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tổ
chức tại Băng Cốc, Thái Lan (tháng 9 năm 1993) xác định: “nghèo là tình
trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ
bản của con người được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế
- xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. [11]. Theo khái niệm này,
không có chuẩn nghèo chung cho mọi quốc gia, chuẩn nghèo cao hay thấp
20


phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và thay đỏi theo thời gian,
không gian.
* Các quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới vấn đề đói nghèo,
người coi đây là một trong những động lực, điều kiện thiết yếu để xây dựng
và phát huy sức mạnh toàn dân. Hồ Chí Minh quan niệm: Xóa đói giảm nghèo
là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì
giàu thêm. Vậy là, mọi thành viên trong xã hội không ngừng phấn đấu vươn
lên vượt qua cửa ải đói nghèo, người quan niệm xã hội mà chúng ta xây dựng
là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nó xa lạ với
đói nghèo, bần cùng, lạc hậu, là xã hội giàu về kinh tế, lành mạnh về văn hóa-
xã hội. Quan niệm này hàm chứa ý nghĩa to lớn trong việc giải phóng sức sản
xuất, hướng đến phát triển toàn diện con người. Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng
gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức, bóc lột, lại kinh qua nhiều
năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái cần
cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng ta cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. [15, 511].
Theo chuyên nghành Kinh tế học, khái niệm đói nghèo được hiểu là:
Nghèo là một tình trạng thiếu thốn về nhiều phương diện như: thu nhập thiếu
do bị thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu những nhu cầu cơ bản của cuộc sống
hàng ngày, thiếu tài sản tiêu dùng lúc bất trắc sảy ra và dễ bị tổn thương trước
những mất mát.
Theo từ điển tiếng việt, khái niệm xóa đói giảm nghèo là: “Xóa đói
giảm nghèo là xóa bỏ tình trạng đói kém và giảm dần sự nghèo nàn, lạc hậu”.
[25, 1.469].
21


Theo quyết định số 1143 của Bộ lao động, Thương Binh và xã hội ban
hành năm 2000 có định nghĩa về tiêu chí hộ đói và hộ nghèo như sau:
+ Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người là 13 kg gạo/tháng
tương đương với 45.000 đồng.
+ Hộ nghèo là hộ có thu nhập tính bình quân đầu người ở mức theo
từng vùng cụ thể: Dưới 15 kg gạo/tháng tương đương với 55.000 đồng đối với
khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo; Dưới 20 kg
gạo/tháng tương đương với 70.000 đồng đối với khu vực nông thôn, đồng
bằng và trung du. Dưới 25 kg gạo/tháng tương đương với 90.000 đồng đối với
khu vực thành thị.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau
thì tiêu chí xác định hộ nghèo hộ đói có sự thay đổi.
Ở Việt Nam, theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg do thủ ban hành
ngày 08/07/2005 về chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010, đã đưa ra
điều kiện để xác định và cấp “sổ hộ nghèo” là gia đình phải thuộc diện có thu
nhập bình quân đầu người hàng tháng từ 200.000 trở xuống đối với khu vực
nông thôn, hoặc 260.000 đồng trở xuống đối với khu vực thành thị. [22]. Một
số địa phương có mức sống giàu có hơn có thể điều chỉnh chuẩn hộ nghèo với
mức thu nhập bình quân trong hộ cao hơn.
1.2.2. Khái quát về chương trình xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang
hiện nay
* Khái quát chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Xóa đói giảm nghèo là chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ Việt
Nam nhằn giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường. Trong sản xuất nông
nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ gia đình, đã nhảy vọt từ nước thiếu lương
thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo và giữ vị trí là một trong ba nước
22

xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. từ đó đến nay an ninh lương thực được giữ

vững. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỉ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương
thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo).
Đầu những thập niên 1990 Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ.
Ngay đầu năm 1991 vấn đề xóa đói giảm nghèo đã được đề cập ở các diễn
đàn, các nghiên cứu và triển khai thành phong trào xóa đói giảm nghèo. Tổng
bí thư Đỗ Mười khi đó rất quan tâm đến chương trình này, ông lo lắng những
thế hệ mai sau bị ảnh hưởng do đói nghèo hôm nay.
Nghị quyết quốc hội Việt Nam về nhiệm vụ năm 1993 đã đánh giá cao
tinh thần cao tinh thần cộng đồng, tương thân, tương ái “trong nhân dân đã
phát triển nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và phong trào xóa đói giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa”… sáng kiến của thủ tướng chính phủ được mặt trận
Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 là “ngày vì người nghèo” đó cũng là
ngày Liên Hợp Quốc chọn là ngày “thế giới chống đói nghèo”.
Ngày 21 tháng 5 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo”. Đây là chiến lược đầy
đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên
Hợp Quốc công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của
các chuyên gia quốc tế tại Việt Nam như: UNDP, WB… tổng hợp thành các
mục tiêu phát triển tại Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hóa chiến lược bằng các
chương trình, dự án được triển khai, được giám sát và đánh giá thường xuyên.
Các nghiên cứu đã lập được bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ
gia đình, Việt Nam đã vào tuyên bố thiên niên kỷ với 8 mục tiêu:
- Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói.
- Đạt phổ cập giáo dục tiểu học.
- Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ.
23

- giảm tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
- Tăng cường sức khỏe bà mẹ.

- Phòng chống bệnh HIV/ AIDS, sốt rét và các bệnh khác.
- Đảm bảo bền vững môi trường.
- Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển.
Những mục đích này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp đến xóa đói
giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ nghèo đói, tái đói nghèo đều có
thể sảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội
nhập và phát triển. Một quốc gia khi không giải quyết dứt điểm xóa đói giảm
nghèo thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát triển không bền vững, dẫn đến những
hậu quả bất ổn định về kinh tế- xã hội. Mục tiêu đó cũng gợi mở những
phương thức tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay, chuẩn nghèo của thế giới quy định quốc gia có thu nhập bình
quân đầu người hàng năm là 735 USD, thu nhập của Việt Nam khoảng 400
USD. [20]. Dù có quy đổi về giá trị so sánh tương đương (ppp) vẫn chưa qua
chuẩn nghèo. Ngày 29 tháng 3 năm 2005 tại Hội thảo “Hợp tác giữa các nhà
tài trợ và các tổ chức phi chính phủ trong xóa đói giảm nghèo” theo định
hướng giảm nghèo toàn diện hơn, công bằng hơn và hội nhập hơn. Viêt Nam
sẽ nâng chuẩn nghèo lên gấp 2 lần (chuẩn nghèo trước đây theo mức thu nhập
bình quân người/ tháng theo khu vực miền núi, nông thôn, thành thị trước
năm 2000 là 45.000 đồng, 70.000 đồng và 100.000 đồng; sau năm 2000 là
80.000 đồng, 100.000 đồng và 150.000 đồng).[1]. Theo chuẩn nghèo đói mới
có hai mức thu nhập bình quân tháng là 200.000 đồng ở nông thôn và 260.000
đồng ở thành thị. [22]. Tuy nhiên, ở một số thành phố chuẩn đó có thay đổi do
yếu tố giá sinh hoạt.
Thông qua điều tra thực tế, Tổng cục thống kê tính toán tỉ lệ (%) hộ
nghèo cho năm 2002 và năm 2004 theo chuẩn nghèo của Thủ tướng Chính
24

phủ ban hành áp dụng cho giai đoạn 2006- 2010 (200.000 đồng/người/tháng
cho khu vực nông thôn, 260.000 đồng/người/tháng cho khu vực thành thị).
[20]. Và đưa ra các chỉ tiêu chủ yếu hướng đến giai đoạn 2006 - 2010 là:

- Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1,45 lần so với năm 2005.
- Các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng, thiết yếu.
- 6 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi.
- 4,2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông - lâm - ngư.
- 1,5 triệu người được miễn giảm phí học nghề.
- 15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm.
- 19 triệu lượt hộ nghèo được miễn giảm học phí, tiền xây dựng trường.
- 500 nghìn hộ gia đình nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm.
Trong cuộc họp giữa Bộ lao động, Thương binh và xã hội với Ủy ban
dân tộc giải phóng, chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) công bố
quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chương tình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo giai đoạn 2 (2006-2010). Bộ lao động, Thương binh và xã hội cho biết:
+ Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1
(2001-2005) và năm 2006 đã có 4.354 triệu lượt hộ vay tín dụng ưu đãi,
51.136 hộ được hỗ trợ sản suất, trên 2 triệu hộ được hướng dẫn cách làm ăn…
Để thực hiện giai đoạn 2 (2006-2010) chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tổng nguồn vốn cho giảm nghèo
khoảng 43.488 tỉ đồng.
+ Mục tiêu của giai đoạn 2 (2006-2010) là đẩy nhanh tốc độ giảm
nghèo, hạn chế tái nghèo; củng cố thành quả giảm nghèo, tạo cơ hội cho hộ
nghèo đã thoát nghèo vươn lên khá giả.
Bộ trưởng chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Kson Phước cho biết: Tổng
nguồn vốn cho chương trình 135 giai đoạn 2 vừa được Chính phủ phê duyệt là
khoảng 16.000 tỷ đồng. Ông Jonh Hendra trưởng đại diện UNDP tại Việt
25

Nam cũng cho biết: Thông qua UNDP các tổ chức nước ngoài sẽ hỗ trợ
khoảng 300 triệu USD cho giai đoạn 2 của chương trình 135.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta cực kỳ quan tâm tới chương trình xóa
đói giảm nghèo và coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu

trong mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới- thời kỳ hội
nhập, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững nền kinh tế đất
nước.
* Khái quát chương trình xóa đói giảm nghèo ở Tuyên Quang hiện
nay
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, trong những
năm qua tỉnh hưởng ứng chương trình mục tiêu quốc gia của Đảng và Nhà
nước ta về chương trình xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi, vùng sâu,
vùng xa, nâng cao đời sống nhân dân và phát triển bền vững kinh tế đất nước.
Tuyên Quang đã thực hiện nhiều giải pháp xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là
chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV với mục tiêu
giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống dưới 15% năm 2010, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê
duyệt chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 (theo quyết định số
11/2006/QĐ-UBND ngày 31 tháng 5 năm 2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh).
Cùng với việc Chính phủ ban hành quyết định số 02/2007/QĐ-TTg ngày 05
tháng 02 năm 2007 về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo giai đoạn 2006-2010. Mục tiêu chính của chương trình giảm nghèo
được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt là giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống dưới 15%
đến năm 2010. Gồm các mục tiêu cụ thể sau:
- Không còn xã có tỉ lệ hộ nghèo trên 35%.
- Hết năm 2007 không còn hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách,
Thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công.

×