- 1 -
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
***********
NGUYỄN THỊ CẨM VÂN
TÌM HIỂU KHẢ NĂNG NHẬN DIỆN
VÀ PHÂN BIỆT CÁC TỪ LOẠI CƠ BẢN
(DANH TỪ, ĐỘNG TỪ, TÍNH TỪ) CỦA HỌC
SINH TIỂU HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí thuyết ngôn ngữ
Người hướng dẫn khoa học
THS. LÊ BÁ MIÊN
HÀ NỘI – 2011
- 2 -
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quyết định số 2957/QĐ – ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
chỉ rõ vai trò và tính chất của Giáo dục Tiểu học: Tiểu học là cấp học nền tảng,
đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con
người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục Phổ thông và cho toàn bộ hệ thống
giáo dục quốc dân. Vì vậy, giáo dục Tiểu học cần được chuẩn bị tốt về mọi mặt
để học sinh tiếp tục học lên trên.
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là môn học chính, chiếm nhiều
thời gian trong tuần. Trong các giờ Tiếng Việt, nhà trường đã cung cấp cho học
sinh những kiến thức về ngôn ngữ như: kiến thức về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,
tu từ học – phong cách học tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của tiếng
Việt.
Trong Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ cung cấp kiến
thức tiếng Việt cho học sinh, trong đó có kiến thức về ngữ pháp học.
Từ loại là một địa hạt quan trọng trong ngữ pháp học nói chung và ngữ
pháp tiếng Việt nói riêng. Đối với tiếng Việt, vấn đề từ loại rất đáng chú ý bởi nó
là một vấn đề ngữ pháp lí luận được ứng dụng ở một ngôn ngữ cụ thể thuộc loại
hình ngôn ngữ đơn lập. Từ loại tiếng Việt hết sức phong phú, có thể xếp thành
hai nhóm chính: nhóm thực từ và nhóm hư từ. Trong thực từ, có danh từ, động
từ, tính từ, đại từ, số từ, ; trong hư từ có quan hệ từ, tình thái từ, trợ từ, Trong
danh từ, động từ, tính từ lại bao gồm những loại nhỏ hơn. Vì vậy, việc tìm hiểu
từ loại Tiếng Việt là rất rộng. Trong khuôn khổ của khóa luận này, tôi đi vào tìm
hiểu về khả năng nhận diện và phân biệt các từ loại cơ bản (danh từ, động từ,
tính từ) của học sinh tiểu học.
- 3 -
Phân biệt được từ loại là vấn đề rất quan trọng trong lĩnh vực xử lý ngôn
ngữ tự nhiên. Phân biệt được từ loại sẽ xác định được chính xác từ loại cho các
từ trong văn bản tiếng Việt. Việc xác định này sẽ hỗ trợ cho việc phân tích cú
pháp các văn bản góp phần giải quyết tính đa nghĩa của từ và trợ giúp các hệ
thống rút trích thông tin đến ngữ nghĩa. Hệ thống bài tập về từ loại có số lượng
không nhiều song vấn đề về từ loại tiếng Việt được đưa vào giảng dạy ngay từ
bậc Tiểu học, trung học Cơ sở, trung học Phổ thông và lên cả đại học. Các bài
tập trong sách giáo khoa là cơ bản, đa số học sinh đều làm được do đó khó phân
loại học sinh và phát hiện học sinh khá, giỏi. Trong khi đó để dạy học đạt hiệu
quả cao cần phân loại học sinh để các bài tập đưa ra không tạo sự nhàm chán hay
quá khó đối với các em. Qua điều tra thực tế việc nhận diện và phân biệt từ loại
cơ bản của học sinh, tôi nhận thấy còn những vấn đề tồn tại làm cho hiệu quả
học từ loại của học sinh chưa cao. Là một giáo viên tiểu học tương lai, tự nhận
thấy tầm quan trong của việc bồi dưỡng kiến thức tiếng Việt cho học sinh, tôi
mạnh dạn chọn và thực hiện đề tài “Tìm hiểu khả năng nhận diện và phân biệt
các từ loại cơ bản (danh từ, động từ, tính từ) của học sinh tiểu học”, với mong
muốn được học hỏi, nâng cao tri thức cho học sinh.
2. Lịch sử vấn đề
Nói đến các công trình nghiên cứu về ngữ pháp trong đó có vấn đề về từ
loại trước hết phải kể đến Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam (1948) của tác giả Lê
Văn Lý với hơn 200 trang, dành nửa số trang cho vấn đề từ loại. Ở đây, tác giả
đưa ra các tiêu chuẩn xếp từ loại bằng xem xét khả năng phối hợp của các từ
ngữ.
Năm 1960, trong cuốn Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nguyễn
Tài Cẩn đã khảo sát về một trong những từ loại quan trọng bậc nhất của tiếng
Việt hiện đại: từ loại danh từ. Trong cuốn này, Nguyễn Tài Cẩn đã nêu rõ đặc
điểm của danh từ, xem xét đoản ngữ có danh từ làm trung tâm (danh ngữ). Sau
- 4 -
đó ông đề cập đến các phạm trù từ vựng ngữ pháp quan trọng bậc nhất trong nội
bộ từ loại danh từ
Năm 1978, Đái Xuân Ninh trong Hoạt động của từ tiếng Việt đã để một
phần trong chương 2 nói về lịch sử vấn đề cùng những nhận xét, đánh giá xác
đáng việc phân định từ loại tiếng Việt từ những bước đầu tiên cho đến thời điểm
tác giả viết cuốn tài liệu này.
Tới năm 1986, tác giả Đinh Văn Đức trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Từ
loại) quan tâm đến các vấn đề:
1) Bản chất và các đặc trưng của từ loại, tiêu chuẩn phân định từ loại.
2) Hệ thống các từ loại tiếng Việt.
3) Từ loại là các phạm trù của tư duy.
Năm 1999, tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại nghiên
cứu các vấn đề: khái niệm về từ loại, đối tượng, tiêu chí, mục đích phân định từ
loại. Đặc biệt, tác giả đi sâu tìm hiểu hệ thống từ loại cơ bản, ranh giới giữa từ
loại cơ bản với từ loại không cơ bản.
Đến năm 2004 trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, khi nghiên cứu về từ loại
tiếng Việt, Diệp Quang Ban đã đưa ra ba tiêu chuẩn để phân định từ loại tiếng
Việt: Ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức vụ cú pháp. Ngoài ra, khi bàn về
vấn đề các lớp từ tiếng Việt, tác giả phân thành hai lớp lớn: thực từ và hư từ.
Trong đó, tác giả tập trung nghiên cứu ba từ loại thuộc lớp thực từ: danh từ, động
từ tính từ.
Và gần với đề tài chúng tôi nghiên cứu là cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, 2007, tác giả Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung đã dành ra một
chương nghiên cứu về từ loại tiếng Việt với trọng tâm là tiêu chuẩn phân định từ
loại và hệ thống từ loại tiếng Việt. Theo tác giả, hệ thống từ loại tiếng Việt có
thể sắp xếp thành hai nhóm:
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ.
- 5 -
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ và tình thái từ)
Đồng thời tác giả có sự lí giải cho cách sắp xếp nêu trên.
Ngoài những tài liệu trên, Luận văn thạc sĩ của giảng viên Lê Thị Lan Anh
(Đại học Sư phạm Hà Nội II-2006) cũng nghiên cứu về từ loại qua đề tài Từ loại
tiếng Việt và việc dạy từ loại cho học sinh tiểu học. Bên cạnh việc đề cập đến
các đặc điểm của từ loại tiếng Việt luận văn còn đưa ra những biện pháp nhằm
giải quyết một số vấn đề về phương pháp dạy học tiếng Việt.
Khóa luận tốt nghiệp Tìm hiểu khả năng xác định từ loại cơ bản của học
sinh tiểu học lớp 4 trên cơ sở các bài Tập đọc (sinh viên Trần Thị Hoa, K30B-
GDTH, Đại học Sư Phạm Hà Nội II) trình bày về một số đặc điểm của ba từ loại
cơ bản: danh từ, động từ, tính từ, đồng thời tìm hiểu khả năng xác định từ loại
của học sinh tiểu học qua một số bài tập.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về từ loại, liên quan đến từ loại
tiếng Việt đã trình bày hết sức chi tiết về đặc điểm của từ loại tiếng Việt. Song
những cuốn sách trên chỉ viết trên cơ sở lí luận mà chưa được thực nghiệm ở
trường Tiểu học, hai cuốn Luận văn thạc sĩ và Khóa luận tốt nghiệp lại nghiên
cứu hai khía cạnh là phương pháp dạy từ loại và khả năng xác định từ loại của
học sinh tiểu học. Bên cạnh việc kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
đó, chúng tôi mạnh dạn tiến hành điều tra thực nghiệm một khía cạnh khác. Đó
là khả năng nhận diện và phân biệt các từ loại cơ bản của học sinh tiểu học.
3. Mục đích nghiên cứu – Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích sau:
Tìm hiểu thực tế khả năng nhận diện, phân biệt từ loại cơ bản của học
sinh. Trên cơ sở đó nhận định đúng thực trạng đối tượng học sinh, đồng thời đưa
ra một số đề xuất nhằm giải quyết thực trạng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- 6 -
- Tìm hiểu lí thuyết về từ loại cơ bản.
- Trên cơ sở lí luận đã có, tiến hành khảo sát thực tế đối tượng học sinh,
đồng thời đưa ra một số đề xuất nhằm giải quyết thực trạng trên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Điều tra, thống kê, phân loại, so sánh, phân tích ngôn ngữ học và thực
nghiệm sư phạm.
Quá trình nghiên cứu đề tài được tiến hành tuần tự theo các bước sau:
- Đọc lí thuyết có liên quan đến đề tài
- Thống kê tư liệu điều tra được
- Xử lí tư liệu điều tra bằng các biện pháp: phân tích, phân loại và so
sánh.
- Viết khóa luận và tóm tắt.
5. Đối tượng nghiên cứu – Phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là khả năng nhận diện và phân biệt từ
loại danh từ, động từ, tính từ của học sinh tiểu học lớp 4, 5.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Như chúng tôi đã trình bày trước đó, tìm hiểu về từ loại là một đề tài rộng.
Vì vậy, trong khuôn khổ của khóa luận này, chúng tôi chỉ đề cập nghiên cứu một
khía cạnh nhỏ là “Tìm hiểu khả năng nhận diện và phân biệt các từ loại cơ bản
(danh từ, động từ, tính từ) của học sinh tiểu học”.
6. Dự kiến cấu trúc luận văn
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
- 7 -
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu – Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng nghiên cứu – Phạm vi nghiên cứu
6. Dự kiến cấu trúc luận văn
Phần nội dung
Chương 1: Những vấn đề về từ loại cơ bản và việc học từ loại cơ bản của
học sinh tiểu học
1. Khái niệm về từ loại
2. Việc dạy và học từ loại cơ bản ở Tiểu học
Chương 2: Khả năng nhận diện và phân biệt các từ loại cơ bản của học sinh
tiểu học
1. Khả năng hiểu khái niệm từ loại cơ bản (trên phương diện lí thuyết)
2. Khả năng vận dụng lí thuyết vào thực tiễn xác định từ loại cơ bản
3. Khả năng nhận diện từ loại trong hệ thống các từ rời
4. Khả năng nhận diện từ loại cơ bản trong lời nói
5. Khả năng kết hợp các từ loại cơ bản
6. Khả năng kết hợp từ để chuyển loại các từ loại cơ bản
7. Khả năng đặt câu với các từ loại cơ bản
Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
- 8 -
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỪ LOẠI CƠ BẢN VÀ VIỆC HỌC TỪ LOẠI CƠ
BẢN CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
1. Khái niệm về từ loại
1.1. Khái niệm
Từ loại là những lớp từ có cùng bản chất ngữ pháp được phân chia theo ý
nghĩa khái quát, theo khả năng kết hợp với các từ ngữ khác và thực hiện những
chức năng ngữ pháp nhất định ở trong câu. (Đinh Văn Đức – Ngữ pháp tiếng
Việt – Từ loại)
Từ loại là khái niệm chỉ sự phân loại từ nhằm mục đích ngữ pháp, theo
bản chất ngữ pháp của từ. (Lê Biên – Từ loại tiếng Việt hiện đại)
Từ loại là kết quả nghiên cứu vốn từ trên bình diện ngữ pháp. Đó là những
lớp từ có chung bản chất ngữ pháp, được biểu hiện trong các đặc trưng thống
nhất làm tiêu chuẩn tập hợp và quy loại. (Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung
– Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1)
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt – 2008 (Nguyễn Văn Xô) định nghĩa: “Từ
loại là phạm trù ngữ pháp bao gồm các từ có chung đặc điểm ngữ pháp và ý
nghĩa khái quát như: danh từ, động từ, tính từ ”
1.2. Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt
1.2.1. Phủ nhận sự tồn tại của từ loại, tác giả Hồ Hữu Tùng cho rằng: tiếng Việt
cơ cấu theo một lối khác hẳn so với các ngôn ngữ phương Tây (không có sự biến
đổi hình thái) do đó không có từ loại, mà tùy thuộc vào vị trí trong câu mà có
tính chất nhất định, một từ có thể có nhiều thuộc tính khác nhau.
1.2.2. Thừa nhận sự tồn tại của phạm trù từ loại. Tuy nhiên trong nhóm này có
những khác biệt trong việc phân định, phân loại:
- Thuần túy ý nghĩa khái quát (Trần Trọng Kim)
- 9 -
- Chức vụ cú pháp (Phan Khôi): Một từ có thể thuộc về nhiều từ loại khác nhau.
- Khả năng kết hợp (Nguyễn Tài Cẩn)
Khả năng làm trung tâm của cụm từ, ngữ.
Khả năng làm thành tố phụ của ngữ
1.3. Tiêu chí phân định từ loại
Trong tiếng Việt người ta dựa vào ba tiêu chí sau đây để phân chia thành
các từ loại:
1.3.1. Ý nghĩa khái quát
Ý nghĩa khái quát là ý nghĩa phạm trù có tính chất khái quát hóa cao: nó là
kết quả của quá trình trừu tượng hóa nghĩa của hàng loạt cái cụ thể: danh từ chỉ
sự vật; động từ chỉ hoạt động, trạng thái; còn tính từ chỉ đặc điểm, tính chất
1.3.2. Khả năng kết hợp
Khả năng kết hợp của một từ là là năng lực tiềm tại của từ đó xuất hiện
trong một tổ hợp từ có nghĩa với tư cách một yếu tố thường trực trong tổ hợp từ
đó.
- Danh từ có khả năng kết hợp với tất cả, những, các, mọi , này, kia, đó
(Ví dụ: tất cả những ngôi nhà kia, mọi người ).
- Động từ có khả năng kết hợp với hãy, đừng, chớ (Ví dụ: đừng chạy,
hãy nói ).
- Tính từ có khả năng kết hợp với hơi, rất, lắm, quá (Ví dụ: đẹp lắm, hơi
nặng, cao quá, rất tốt ).
1.3.3. Khả năng đảm nhận các chức vụ ngữ pháp
Khả năng giữ chức vụ cú pháp trong câu thường được sử dụng như một
tiêu chuẩn hỗ trợ. Các từ thuộc một lớp nào đó có thể đảm đương không phải
một mà một số chức vụ cú pháp ở trong câu. Trong số các chức vụ cú pháp đó
thường có một hoặc vài chức vụ nổi lên rõ hơn có tính chất tiêu biểu cho lớp từ
đó.
- 10 -
- Danh từ thường làm chủ ngữ. Khi làm vị ngữ, danh từ thường phải kết
hợp với từ “là” (Ví dụ: Tôi là sinh viên.).
- Động từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò chủ ngữ, động từ mất khả
năng kết hợp với đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, chứ, hãy, đừng, chớ
- Tính từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò chủ ngữ, tính từ mất khả
năng kết hợp với đã, đang, sẽ, cũng, vẫn, cứ, rất, lắm, quá
1.4. Kết quả phân loại
Hệ thống từ loại tiếng Việt có thể sắp xếp thành hai nhóm, bao gồm những
từ loại sau đây:
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ; số từ; đại từ
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ và tình thái từ)
Trong khóa luận này, chúng tôi chỉ nghiên cứu trên ba lớp: danh từ, động
từ, tính từ - ba từ loại cơ bản trong sách giáo khoa Tiếng Việt ở Tiểu học.
A. Danh từ
Về ý nghĩa ngữ pháp, danh từ là thực từ có ý nghĩa thực thể (ý nghĩa chỉ
“vật” hiểu rộng), được dùng làm tên gọi các “vật”.
Về khả năng kết hợp, danh từ có khả năng kết hợp với các từ chỉ lượng
(Những, các ) ở trước, và các từ chỉ định (này, nọ ) ở sau nghĩa là có khả năng
làm thành tố chính của cụm danh từ.
Về chức vụ ngữ pháp, danh từ thường làm chủ ngữ hoặc bổ ngữ trong câu.
Đáng chú ý là danh từ tiếng Việt cũng có thể làm vị ngữ trong câu, không cần
phụ từ. Khi làm vị ngữ thường cần có từ “là”.
Danh từ là một lớp từ lớn và đa dạng về ý nghĩa, về khả năng kết hợp nên
được phân thành nhiều lớp nhỏ theo những tiêu chuẩn khác nhau, cụ thể:
1. Danh từ riêng và danh từ chung
- 11 -
Sự phân biệt danh từ riêng với danh từ chung căn cứ vào cách gọi tên của
chúng. Danh từ riêng là tên gọi cụ thể của từng cá thể, còn danh từ chung là tên
gọi của từng lớp sự vật đồng nhất về một phương diện nào đó.
Về nghĩa, danh từ riêng không mang nghĩa, chúng là tên gọi của từng
người, tên địa danh, tên sách báo, tên gọi tổ chức Về nguyên tắc, đây là mối
quan hệ một – một giữa tên gọi và vật được gọi tên, do đó yêu cầu của việc đặt
tên riêng là phân biệt được từng vật cụ thể. Trong sự phân tích nghĩa của câu,
danh từ riêng thuộc về kiểu nghĩa kinh nghiệm.
Danh từ chung là mảng từ lớn và đa dạng cần được xem xét ở một số dạng
khác nhau. Cụ thể là:
2. Danh từ tổng hợp và danh từ không tổng hợp
Trong lớp lớn danh từ chung, việc tách ra lớp nhỏ danh từ tổng hợp là cần
thiết không chỉ do ý nghĩa mà còn bởi đặc điểm ngữ pháp của bản thân lớp con
này. Những danh từ chung không mang đặc điểm ý nghĩa và ngữ pháp của danh
từ tổng hợp làm thành lớp còn lại đối lập với nó và được gọi là danh từ không
tổng hợp.
Danh từ tổng hợp chỉ chung nhiều sự vật đồng nhất xét ở một phương diện
nào đó, như: cây cối, bạn bè, nhà cửa, xe cộ, đường xá
Danh từ không tổng hợp chỉ cả lớp sự vật đồng chất, hoặc thông qua từng
cá thể sự vật như là đại diện cho cả lớp, như: bụi cây, bạn tôi, xe máy
Cả danh từ tổng hợp và danh từ không tổng hợp đều có thể xem xét ở các
phương diện sau đây.
3. Danh từ vật thể, danh từ chất thể, danh từ trừu tượng, danh từ tập thể,
danh từ chỉ hiện tượng thời tiết
3.1. Danh từ vật thể
Danh từ chỉ vật thể bao gồm 4 lớp con
- Danh từ chỉ đồ vật: bàn, ghế, ao, nhà, bát, đũa
- 12 -
- Danh từ chỉ thực vật: cỏ, lúa, nhãn, bưởi
- Danh từ chỉ động vật: cá, bò, trâu, chim
- Danh từ chỉ người: học sinh, sinh viên, công nhân
3.2. Danh từ chất thể
Danh từ chất thể chỉ các chất thuộc cả ba thể là: thể rắn, thể lỏng, thể khí,
như: đá, nước, hơi, khói
3.3. Danh từ trừu tượng
Danh từ trừu tượng gồm các danh từ chỉ các vật thể tưởng tượng, như:
thần, thánh, ma, quỷ, tiên, bụt ; và các danh từ chỉ khái niệm trừu tượng, như: lí
luận, trí tuệ, tư tưởng
3.4. Danh từ tập thể
Danh từ tập thể là danh từ chỉ những vật khác nhau về loại cụ thể nhưng
thường đi kèm với nhau thành một tập hợp hoàn chỉnh, và mỗi tập hợp này làm
thành một “đơn vị rời” đếm được như: bầy, lũ, bọn, đám, đàn
3.5. Danh từ chỉ hiện tượng thời tiết
Danh từ chỉ hiện tượng thời tiết có khả năng kết hợp với một số loại từ
riêng, như: bão, chớp, lũ, lụt, gió, mưa, sấm
Ví dụ: ánh chớp, cơn bão, cơn gió, cơn mưa, tiếng sấm, tiếng sét
4. Danh từ đơn vị
Trong số các danh từ vật thể có thể tách ra những từ sẵn chứa trong mình
ý nghĩa “đơn vị rời” có thể đo đếm được, chúng tập hợp lại dưới cái tên chung là
danh từ đơn vị.
Đặc điểm chung của danh từ đơn vị là dễ dàng đứng trực tiếp sau số từ
chính xác, bao gồm hai lớp con:
- Danh từ đơn vị khoa học là những khái niệm trừu tượng chỉ đơn vị đo
lường do các nhà khoa học nghiên cứu và quy ước đặt ra, như: mét, lít, gam
- 13 -
- Danh từ đơn vị dân gian là tên gọi các vật chứa hay các hành động tạo
lượng do nhân dân quy ước lấy làm đơn vị như: thùng (gạo), bát (cơm), mâm
(cỗ), bó (rơm)
5. Danh từ đếm được và danh từ không đếm được
5.1. Danh từ đếm được
Danh từ đếm được là những danh từ có khả năng xuất hiện trực tiếp sau số
từ chính xác, gồm hai nhóm con:
5.1.1. Danh từ đếm được tuyệt đối
Danh từ đếm được tuyệt đối là danh từ dễ dàng xuất hiện trực tiếp sau số
từ chính xác, gồm các nhóm con:
- Danh từ chỉ đơn vị đại lượng quy ước khoa học, như: mét, lít, sào, mẫu
- Danh từ chỉ đơn vị hành chính, tổ chức xã hội như: nước, tỉnh, xã,
đoàn, đội, nghề, môn
- Danh từ chỉ không gian như: nơi, chốn, xứ, vùng, miền, khoảnh
- Danh từ chỉ đơn vị thời gian: dạo, khi, hồi, lúc
- Danh từ chỉ màu sắc, mùi vị, âm thanh: màu, mùi, tiếng
- Danh từ chỉ chức vụ: nhà văn, nghệ sĩ, giám đốc
- Danh từ chỉ lần của sự việc: lần, lượt, phen, chuyến
- Danh từ chỉ khái niệm trừu tượng: tài năng, trí tuệ
5.1.2. Danh từ đếm được không tuyệt đối
Danh từ đếm được không tuyệt đối là những danh từ vốn không đếm
được, nhưng trong một số trường hợp sử dụng khá quen thuộc chúng có thể xuất
hiện trực tiếp sau số từ chính xác.
Ví dụ: Làng này có ba ao, năm giếng
Đồng hồ ba kim, bàn bốn chân
5.2. Danh từ không đếm được
- 14 -
5.2.1. Danh từ không đếm được là danh từ chất thể
Các danh từ chất thể như: muối, dầu, hơi không có khả năng trực tiếp
đứng sau số từ chính xác. Chúng có thể đo đếm được thông qua các loại đơn vị
thích hợp biểu thị bằng danh từ đơn vị quy ước và một số loại từ thích hợp.
Ví dụ: hai tấn thóc, hai xe sắt, hai lít dầu, hai thùng dầu
5.2.2. Danh từ không đếm được là danh từ tổng hợp
Các danh từ tổng hợp như: áo quần, binh lính, xe cộ không có khả năng
trực tiếp đứng sau số từ chính xác. Chúng chỉ có thể đo đếm được thông qua các
danh từ đơn vị quy ước, một số danh từ tập thể thích hợp dùng làm danh từ đơn
vị.
Ví dụ: hai bộ quần áo, hai tấn quần áo, hai chục kilomet đường xá
Trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, từ loại danh từ trước hết được
chia thành hai loại: danh từ chung và danh từ riêng. Danh từ chung được chia
thành năm nhóm: từ chỉ người, từ chỉ vật, từ chỉ hiện tượng, từ chỉ khái niệm và
từ chỉ đơn vị. Cách phân loại này được các nhà biên soạn sách lựa chọn để phù
hợp với tư duy, nhận thức của học sinh tiểu học.
* Ta có thể tóm tắt các nội dung về danh từ bằng sơ đồ sau:
- 15 -
B. Động từ
Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình.
Về khả năng kết hợp, động từ thường kết hợp với các từ: đã, sẽ, đang,
cũng, vẫn, hãy, đừng, chớ
Ví dụ: Mai anh ấy sẽ đi Hà Nội.
Cũng giống như danh từ, động từ có khả năng đảm nhiệm nhiều chức năng
cú pháp khác nhau. Nhưng chức năng cú pháp điển hình là làm vị ngữ. Trong
cấu tạo câu, nó có vị trí trực tiếp đứng sau chủ ngữ. Do đó, chức năng vị ngữ của
động từ làm thành một tiêu chuẩn đối lập động từ và danh từ trong tiếng Việt.
Khi làm chủ ngữ, động từ mất khả năng kết hợp với các từ: đã, sẽ, đang, cũng,
vẫn, hãy, đừng, chớ
Động từ được phân chia thành hai lớp con: lớp động từ không độc lập và
lớp động từ độc lập.
1. Động từ không độc lập
Danh từ
Danh từ riêng
Danh từ chung
DT tổng hợp DT không tổng hợp
DT đếm được DT không đếm được
DT DT DT DT DT
Vật chất trừu tập hiện
Thể thể tượng thể tượng
Thời
Tiết
- 16 -
Động từ không độc lập là những động từ về ý nghĩa, biểu thị quá trình chư
đầy đủ, chưa trọn vẹn; chúng chỉ tình thái vận động ở lúc bắt đầu hay kết thúc
quá trình; hoặc ý nghĩa quá trình không trực tiếp gắn với hành động hay trạng
thái cụ thể (có thể nói là “trống” nghĩa); về khả năng kết hợp và đảm nhiệm chức
năng cú pháp, do đặc điểm ý nghĩa, lớp động từ này khi làm thành phần câu,
thường đòi hỏi kết hợp với thực từ hay tổ hợp thực từ để khỏi “trống” nghĩa.
Lớp động từ không độc lập thường bao gồm một số nhóm sau đây:
1.1. Nhóm động từ tình thái
Động từ tình thái thường biểu thị các ý nghĩa tình thái (có tính chất quá
trình) khác nhau:
- Ý nghĩa tình thái về sự cần thiết: cần, nên, phải, cần phải
- Chỉ ý nghĩa tình thái về khả năng: có thể, không thể, chưa thể
- Chỉ ý nghĩa tình thái về ý chí: định, toan, nỡ, dám
- Chỉ ý nghĩa tình thái mong muốn: mong, muốn, ước, mong muốn, mong
ước, ước muốn
- Chỉ ý nghĩa tình thái tiếp thụ, chịu đựng: bị, mắc, phải, được
- Chỉ ý nghĩa tình thái đánh giá, nhận định: cho, xem, thấy
1.2. Nhóm động từ quan hệ
Động từ trong nhóm này biểu thị các ý nghĩa quan hệ (có tính chất quá
trình) giữa các thực thể, quá trình hay đặc trưng:
- Chỉ quan hệ đồng nhất hiểu rộng: là, làm.
- Chỉ quan hệ tồn tại (xuất hiện, tồn tại hoặc tiêu biến): còn, có, biến,
mất, sinh (ra)
- Chỉ quan hệ sở hữu: có.
- Chỉ quan hệ biến hóa: thành, hóa, hóa ra, hóa thành, trở thành
- Chỉ quan hệ diễn biến theo thời gian: bắt đầu, tiếp tục, kết thúc, thôi
- Chỉ quan hệ so sánh, đối chiếu: giống, khác, như, tựa, in, hệt
- 17 -
- Chỉ quan hệ diễn biến trong không gian: gần, xa, ở, gần gụi
2. Động từ độc lập
Động từ độc lập là những động từ biểu thị ý nghĩa quá trình (hành động hoặc
trạng thái). Động từ độc lập có đầy đủ khả năng kết hợp và chức năng cú pháp
của động từ. Tuy vậy, động từ độc lập cũng có thể phân chia thành một số nhóm
nhỏ dựa theo hai tiêu chí sau:
2.1. Các nhóm động từ độc lập phân loại theo phụ từ đi kèm:
- Nhóm động từ chỉ hành động: gồm những động từ kết hợp được với hãy,
đừng, chớ và với lắm, quá và không kết hợp được với rất, hơi, khá: viết, đánh,
đi, làm
Động từ chỉ hành động còn gồm những động từ kết hợp được với xong:
nói, nghe, suy nghĩ, sửa chữa
- Nhóm động từ chỉ trạng thái gồm:
Những động từ kết hợp được với hãy, đừng, chớ; với lắm, quá và với rất,
hơi, khá: yêu, ghét, thương, kính nể, giận
Những động từ không kết hợp được với xong: thấy, hiểu, mỏi, biết
2.2. Các nhóm động từ phân loại theo các thực từ đi kèm:
- Nhóm động từ không đòi hỏi thực từ đi kèm (động từ nội động): nói,
cười, khóc, ngồi, đứng, bò, ngủ, càu nhàu, hậm hực thường chỉ các hành động
cơ thể (vận động sinh lí) hoặc chỉ trạng thái tâm lí.
- Nhóm động từ có thực từ đi kèm biểu thị đối tượng tác động (động từ
ngoại động): đánh (giặc), trồng (cây), viết (thư), xây (nhà), đá (bóng)
- Nhóm động từ có hai thực từ đi kèm biểu thị đối tượng phát/nhận và đối
tượng được lợi hay bị thiệt do tác động của hành động nêu ở động từ (động từ
ngoại động): cho (em) (một cái kẹo), gửi (bạn) (một bức thư)
- 18 -
- Nhóm động từ có hai thực từ đi kèm biểu thị đối tượng sai khiến và nội
dung sai khiến (động từ khiên động, thuộc lớp động từ ngoại động): nhờ (bạn)
(xách nước), bảo (con) (học), cử (người) (tiếp khách)
- Nhóm động từ có thực từ đi kèm chỉ hướng dời chuyển, hoặc hướng nối
kết của hành động nêu ở động từ; hoặc chỉ đích dời chuyển của hành động, hoặc
nêu đối tượng bị tác động dời chuyển: lăn vào, chạy ra, đi xuống; buộc vào, cởi
tháo ra; chạy ra phố, đi xuống chân núi; buộc vào cột, kéo thuyền ra; đùn cát lên,
đẩy xe vào nhà, lên gác
* Tóm tắt:
C. Tính từ
Tính từ là những từ chỉ đặc điểm hay tính chất.
Giống như động từ, tính từ có khả năng kết hợp với các loại phụ từ. So với
động từ, tính từ dễ kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ hơn nhưng hầu như không
kết hợp được với các phụ từ chỉ mệnh lệnh. Khả năng này cũng có thể coi là khả
năng làm thành tố chính của cụm tính từ.
Tính từ có khả năng đảm nhiệm chức năng của các thành phần câu: khi
làm vị ngữ, tính từ không cần đến từ “là”. Ví dụ: Bạn tôi rất xinh.
Các tiểu loại:
Động từ
ĐT độc lập ĐT không độc lập
Có thực từ đi
kèm
ĐT quan hệ
Có phụ từ đi
kèm
ĐT tình thái
- 19 -
1. Căn cứ vào ý nghĩa và khả năng kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ,
có thể tách ra một nhóm các tính từ chỉ những đặc điểm tính chất tuyệt đối.
Những tính từ này không có khả năng kết hợp được với các phụ từ chỉ mức độ.
Ví dụ: công, tư, riêng, chung, đực, cái, trống, mái (tính từ không có mức
độ). Xanh lè, đỏ chói, vàng ối, đen kịt, to bự, thấp tè, cao vút, mỏng dính, thơm
phức (tính từ mức độ cao)
Các tính từ còn lại (chiếm đa số các tính từ) đều chỉ các đặc điểm có mức
độ và do đó kết hợp được với các phụ từ chỉ mức độ.
Ví dụ: đẹp, xinh, to, gầy, béo, thấp, cao
2. Căn cứ vào ý nghĩa và khả năng có các thành tố phụ đi sau lại có thể
tách tính từ ra thành hai tiểu loại:
- Các tính từ chỉ đặc điểm “về chất”. Ví dụ: đẹp, tốt, xấu, thông minh,
ngoan ngoãn, giỏi, ngu, đần, đỏ, xanh, vàng Những tính từ này thường có
thành tố phụ đi sau với ý nghĩa phương diện thể hiện của phẩm chất: xấu người,
đẹp nết, giỏi về toán, xanh vỏ, đỏ lòng, tốt gỗ
- Các tính từ chỉ các đặc điểm “về lượng”. Ví dụ: cao, thấp, nông, sâu,
dài, ngắn, nặng, nhẹ, to, nhỏ Các tính từ này thường có thể có thành tố phụ
định lượng đi sau (gồm số từ + từ chỉ đơn vị đo lường). Ví dụ: rộng tám mét, dài
mười phân, nặng ba tạ, xa hàng trăm cây số
* Một số lưu ý về việc phân tách hai từ loại động từ và tính từ
Trong ngôn ngữ Ấn – Âu, chỉ có động từ có khả năng làm vị ngữ còn danh
từ và tính từ không có khả năng làm vị ngữ. Còn ở tiếng Việt, tính từ và động từ
lại có nhiều điểm chung để đối lập với danh từ. Trong thực tế tiếng Việt không
phải chỉ có tính từ mới có khả năng kết hợp với: rất, quá, lắm, cực kì, vô cùng
(yêu lắm, rất ghét, giận vô cùng ) và không chỉ có động từ mới kết hợp được
với: hãy, đừng, chớ Nhập động từ và tính từ thành một từ loại là vị từ (theo
một số tài liệu của Cao Xuân Hạo, Lê Biên ) góp phần giải quyết khó khăn
- 20 -
trong việc phân biệt hai loại từ này về khả năng kết hợp. Song chúng tôi không
đưa ra hệ thống từ loại tiếng Việt với sự gộp chung này khi mục đích đề tài
chúng tôi là hướng đối tượng học sinh tiểu học. Với đối tượng học sinh này, cuối
cùng vẫn phải phân loại và tách vị từ ra thành động và tính từ để các em có thể
dễ dàng hơn trong việc sử dụng từ; nhập để rồi lại tách thêm một lần gây khó cho
học sinh lứa tuổi này.
2. Việc dạy và học từ loại cơ bản ở Tiểu học
2.1. Nội dung dạy từ loại cơ bản ở Tiểu học
Về từ loại, ở Tiểu học chỉ học các khái niệm danh từ, động từ, tính từ,
danh từ riêng, danh từ chung, tính từ chỉ tính chất chung không có mức độ, tính
từ chỉ tính chất có xác định mức độ, đại từ chỉ ngôi. Ở chương trình cải cách giáo
dục, nội dung kiến thức về từ loại nằm trong phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp học
sinh được học ngay từ lớp 2. Đến chương trình Tiếng Việt 2000, theo sự tăng
dần độ khó của kiến thức, ở học kì I (lớp 4) học sinh mới chính thức được học
các khái niệm về danh từ, động từ, tính từ. Cụ thể:
Lớp 2: Các em có thể nhận biết các từ chỉ người, vật, hành động.
Lớp 3: Các em nhận biết được từ chỉ tính chất, nhận biết cách dùng một số
cặp từ nối.
Lớp 4: Hình thành khái niệm sơ giản về danh từ, động từ, tính từ.
Lớp 5: Hình thành các khái niệm sơ giản về đại từ, quan hệ từ.
Các bài Luyện từ và câu đề cập đến cách phân loại các từ loại cơ bản.
Cách phân loại này dựa vào các tiêu chí: ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và
khả năng đảm nhận các chức vụ ngữ pháp. Tuy nhiên ở tiểu học, sách giáo khoa
Tiếng Việt 4 mới chỉ giới thiệu một tiêu chí trong cách phân loại nêu trên - tiêu
chí về ý nghĩa khái quát. Theo tiêu chí này:
* Danh từ là những từ chỉ sự vật.
- 21 -
Để giúp học sinh hiểu rõ hơn khái niệm sự vật sách giáo khoa nêu ra 5 nội
hàm của khái niệm này. Sự vật gồm:
- Người: ông, bà, cha, mẹ, công nhân, nông dân
- Vật (đồ vật, con vật, cây cối ): sông, núi, mèo, chó
- Hiện tượng (cái xảy ra trong không gian, thời gian mà người ta nhận
thấy): mưa, sấm, sét
- Khái niệm (chỉ các đối tượng có tính chất trừu tượng hoặc thuộc tư
duy): cuộc sống, cái đẹp
- Đơn vị: con, cái, cơn
Sau khi đưa ra các khái niệm về danh từ sách giáo khoa dành riêng một
tiết đề cập đến vấn đề phân chia danh từ thành danh từ riêng và danh từ chung.
Danh từ chung là tên chung của một loại sự vật. Ví dụ: núi, sông, xe, cặp,
sách, vở
Danh từ riêng là tên riêng của một sự vật. Hay nói cách khác, danh từ
riêng là tên riêng của từng người, từng vật, từng địa phương Danh từ riêng
luôn luôn được viết hoa. Ví dụ: Hà Nội, Nguyễn Thị Cẩm Vân, (núi) Bà Đen
* Động từ là những từ chỉ hành động, trạng thái của sự vật. Ví dụ: lau nhà,
rửa bát, ăn cơm, thái thịt
* Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt
động, trạng thái. Ví dụ: vui, đẹp, xấu, cao, thấp, gầy, béo
Sách giáo khoa giới thiệu một số cách thể hiện mức độ tính từ như sau:
- Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy từ tiếng đã cho.
Ví dụ: Đỏ: đỏ chói, đỏ lòm, đỏ lòe
Đo đỏ, đỏ đắn
- Thêm các từ rất, lắm, quá, vô cùng, cực kì vào trước hoặc sau tính từ.
Ví dụ: cao: rất cao, cao lắm, cao quá
- Tạo ra phép so sánh:
- 22 -
So sánh ngang bằng
So sánh hơn kém
So sánh tuyệt đối
2.2.Việc dạy học từ loại cơ bản ở Tiểu học
Thực tế cho thấy việc học các kiến thức ngữ pháp tiếng Việt là rất quan
trọng đối với học sinh, bởi qua học tập về ngữ pháp giúp cho học sinh có hiểu
biết về quy tắc cấu tạo từ, nắm quy tắc dùng từ, đặt câu và tạo văn bản để sử
dụng trong giao tiếp. Vì vậy, việc học tập ngữ pháp hiện nay được tiến hành một
cách có kế hoạch mang tính chủ động. Thông qua hệ thống các bài tập trong sách
giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận diện, phân loại các đơn vị ngữ
pháp, nắm các quy tắc cấu tạo và sử dụng các đơn vị này trong hoạt động giao
tiếp của mình.
Dạy học từ loại cũng được tiến hành tuần tự theo các bước nhận thức của
học sinh. Bắt đầu là việc phân tích ngữ liệu là các từ hoặc đoạn văn cho trước để
tìm ra đặc điểm, hiện tượng của khái niệm để làm bài tập cụ thể. Các bước này
có thể chia thành hai hướng là dạy lí thuyết và dạy thực hành từ loại.
Do ngữ pháp là một môn khó (hiện nay là Luyện từ và câu) cho nên giáo
viên vẫn có những hạn chế nhất định trong việc tổ chức tiết dạy sao cho đạt yêu
cầu chuyên môn, đúng đặc trưng phân môn và đạt hiệu quả dạy học cao. Tuy
nhiên, hạn chế lớn nhất là về mặt kiến thức. Giáo viên có những khó khăn khi
xác định đơn vị từ và xác định từ loại. Cụ thể:
Xác định đơn vị từ (phân tách từ): Trước khi đi vào xác định từ loại thì
khâu đầu tiên đó là phải phân tích đúng đơn vị từ. Một bộ phận giáo viên không
chắc chắn trong việc xác định đơn vị từ, nhiều khi còn nhầm lẫn giữa từ và cụm
từ, nhầm lẫn giữa từ ghép với hai từ đơn.
Một thực tế là giáo viên tiểu học không thích dạy kiến thức ngữ pháp
trong đó có kiến thức về từ loại. Nhiều giáo viên không nắm chắc về kiến thức từ
- 23 -
loại: các tiêu chí phân định từ loại, hệ thống từ loại, các tiểu loại của từng từ loại
và đặc biệt là sự chuyển di từ loại; vẫn có tư tưởng phân định từ loại của những
năm 50 thế kỉ trước: phân định từ loại chủ yếu dựa vào ý nghĩa của từ loại. Họ
dễ xác định sai từ loại của các từ như: những suy nghĩ, niềm vui, sự đau khổ, rất
Tây, người đàn bà thép.
Về phía học sinh cũng ít hứng thú học môn này do đây là một môn khó và
khô khan. Những điểm khó của môn học muốn trở nên dễ với học sinh thì giáo
viên phải không ngừng bồi dưỡng kiến thức cho mình, đồng thời đổi mới
phương pháp dạy học sao cho phù hợp và tạo được hứng thú học tập cho học
sinh.
- 24 -
Chương 2
KHẢ NĂNG NHẬN DIỆN VÀ PHÂN BIỆT TỪ LOẠI CƠ BẢN CỦA HỌC
SINH TIỂU HỌC
Để tìm hiểu về khả năng nhận diện và phân biệt từ loại của học sinh tiểu
học, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát qua các phiếu bài tập. Do thời gian
nghiên cứu có hạn cũng nhưng phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ tiến
hành khảo sát trên hai đối tượng học sinh lớp 4 và lớp 5 qua các mặt sau.
1. Khả năng hiểu khái niệm từ loại cơ bản (trên phương diện lí thuyết)
1.1. Mục đích khảo sát
Xem xét mức độ nắm lí thuyết về các từ loại cơ bản (danh từ, động từ, tính
từ) của học sinh, chỉ ra những lỗi mà học sinh mắc phải.
1.2. Các bước tiến hành điều tra
1.2.1. Phát phiếu bài tập
Các phiếu bài tập dưới đây được phát cho 34 học sinh lớp 4 và 35 học sinh
lớp 5 vào thời gian khác nhau.
PHIẾU BÀI TẬP 1
Danh từ là những từ có ý nghĩa gọi tên cái gì? Em hãy nêu một số danh từ
mà em biết.
PHIẾU BÀI TẬP 2
Động từ là những từ có ý nghĩa gọi tên gì? Em hãy nêu một số động từ mà
em biết.
PHIẾU BÀI TẬP 3
- 25 -
Tính từ là những từ có ý nghĩa gọi tên gì? Em hãy nêu một số tính từ mà
em biết.
1.2.2. Thống kê, phân loại phiếu bài tập
Đây là phần tìm hiểu khả năng hiểu khái niệm từ loại cơ bản của học sinh
nên chúng tôi chỉ xem xét kết quả trả lời câu hỏi về khái niệm danh từ, động từ,
tính từ (ý thứ nhất của câu hỏi) còn phần lấy ví dụ (ý thứ hai của câu hỏi) chúng
tôi sẽ trình bày ở phần 2 – khả năng vận dụng lí thuyết vào thực tiễn xác định từ
loại cơ bản.
4 5 Từ
loại
Lớp
Phân loại
Số lượng HS Tỉ lệ % Số lượng HS Tỉ lệ %
Đúng
25 73,53 32 91,43
Chưa chính xác
(thiếu)
0 0 1 2,86
Danh
từ
Sai/ không nêu
được
9 26,47 2 5,71
Đúng
22 64,71 17 48,57
Chưa chính xác
(thiếu)
2 5,88 16 45,71
Động
từ
Sai/ không nêu
được
10 29,41 2 5,71
Đúng
15 44,12 14 40
Chưa chính xác
(thiếu)
6 17,65 17 48,57
Tính
từ
Sai/ không nêu
được
13 38,23 4 11,43
1.2.3. Khả năng hiểu khái niệm từ loại cơ bản và những lỗi sai của học sinh