Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.12 KB, 56 trang )


- 1 -

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không? Dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu
được hay không chính là nhờ một phần lớn công học tập của các cháu”.
Bác Hồ đã đi xa nhưng câu nói của người vẫn còn in mãi trong mỗi thế hệ con
người Việt Nam. Hiểu được ý nghĩa to lớn trong câu nói của người, Đảng và
Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm tới sự nghiệp trồng người của đất
nước, hướng tới phát triển toàn diện và giáo dục toàn diện.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Tiểu học được xem là bậc học nền
tảng hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất và kỹ năng cơ bản để học sinh học lên các bậc
học sau. Chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở Tiểu
học. Trong Nghị Quyết TW II – Khóa 8 Đảng ta đã ghi rõ: “Muốn tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh Giáo dục – Đào
tạo, phát huy nguồn lực con người”. Điều 28 luật giáo dục cũng nêu ra những
yêu cầu cụ thể về nội dung, phương pháp dạy học ở Tiểu học là: “Giáo dục
Tiểu học phải đảm bảo cho học sinh những hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự
nhiên, xã hội, con người”. Muốn làm được điều này chúng ta cần tiến hành
đồng bộ những vấn đề của bậc Tiểu học, tiến hành đổi mới toàn diện trong đó
đổi mới phương pháp dạy học là xu thế tất yếu để nâng cao chất lượng dạy
học hiện nay. Đổi mới cần có chiến lược lâu dài và biện pháp đúng đắn để
đưa nước ta đi lên theo kịp các nền giáo dục tiên tiến của thế giới.
Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay chưa đáp ứng được
nhu cầu giáo dục trong nước và hiệu quả đem lại chưa cao. Một trong những
nguyên nhân chính là việc sử dụng phương pháp dạy học chưa hợp lý. Nếu
chỉ vận dụng những phương pháp dạy học truyền thống thì sẽ không đáp ứng


- 2 -

được nhu cầu nhận thức của các em bởi hiểu biết của học sinh Tiểu học ngày
nay đã cao hơn rất nhiều so vơi trước đây, chính vì thế giáo viên cần phải đổi
mới phương pháp dạy học để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo
và khai thác được hết tiềm năng, vốn sống của học sinh. Cấp Tiểu học giúp
cho các em có những hiểu biết về thế giới xung quanh, những hiện tượng
khoa học và những vấn đề tự nhiên… Môn Khoa học cung cấp cho các em
những kiến thức đó. Đây là một môn học tích hợp những kiến thức của khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành phẩm chất, năng lực đạo đức của con người. Trong quá trình dạy môn
học này đòi hỏi giáo viên cần phải sử dụng phối hợp linh hoạt các phương
pháp dạy học tích cực như: phương pháp phân hóa, phương pháp làm việc
theo nhóm, phương pháp điều tra, dự án, phương pháp phát hiện và giải quyết
vấn đề, phương pháp trò chơi…
Phương pháp dạy học phân hóa được coi là một phương pháp dạy học
tích cực, giúp giáo viên khơi dậy và phát huy những năng lực vốn có của mỗi
học sinh để giải quyết và thực hiện nhiệm vụ học tập, giúp đảm bảo nguyên
tắc dạy học sát đối tượng. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm bản chất của
phương pháp dạy học phân hóa và đặc điểm của môn khoa học lớp 4 tôi quyết
định chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học phân hóa trong dạy học
môn Khoa học lớp 4”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu đề xuất quy trình dạy học theo phương pháp phân
hóa để tổ chức cho học sinh học tập môn Khoa học lớp 4. Đồng thời góp phần
đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học và nâng cao chất lượng dạy học
môn khoa học lớp 4.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, khách thể nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu


- 3 -

Quy trình dạy học môn khoa học lớp 4 theo phương pháp dạy học phân
hóa.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn Khoa học
lớp 4.
3.3 Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Khoa học lớp 4.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu cơ sở lý luận của phương pháp dạy học phân hóa.
Tìm hiểu thực trạng phương pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn
Khoa học lớp 4.
Đề xuất quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 theo phương pháp dạy
học phân hóa.
Thiết kế một số giáo án môn Khoa học 4 theo phương pháp dạy học
phân hóa.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng phương pháp dạy học phân hóa để dạy môn Khoa học lớp
4 sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học 4 nói riêng, các
môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học nói chung.
6. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp trò chuyện
7. Cấu trúc khóa luận
I. MỞ ĐẦU
II. NỘI DUNG


- 4 -

Chương 1: Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp dạy
học phân hóa trong dạy học môn Khoa học 4
1. Phương pháp dạy học phân hóa
2. Một số vấn đề về môn Khoa học 4
3. Vai trò của phương pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn Khoa
học 4
Chương 2: Vận dụng phương pháp phân hóa trong dạy học môn Khoa
học lớp 4
1.Các nguyên tắc khi vận dụng phương pháp dạy học phân hóa trong
dạy học môn Khoa học lớp 4
2. Quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 bằng phương pháp dạy học
phân hóa
3. Giáo án minh họa cho quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 theo
phương pháp dạy học phân hóa
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ












- 5 -


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC PHÂN HÓA TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4
1.1. Phương pháp dạy học phân hóa
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu phương pháp dạy học phân hóa
Ở phương Đông, dạy học phân hóa có từ rất sớm. Khổng Tử (551-479)
đã đề cao vai trò của dạy học chú ý đến từng cá nhân, ông chủ yếu sử dụng
hình thức dạy học cá nhân.
Ở phương Tây, vào thời Trung cổ, học sinh của các trường Giáo hội
được tổ chức theo nhóm nhưng được dạy học theo từng cá nhân. Từ thế kỉ
XV đến thế kỉ XVII xuất hiện nhiều nhà giáo dục có tư tưởng tiến bộ, đã chú
ý đến dạy học hướng vào khai thác tiềm năng của từng cá nhân học sinh. Tiêu
biểu là:
- J.A.Commenxki (1592-1670) cho rằng dạy học phải phát huy tính tích
cực, tính chủ động của học sinh, dẫn dắt các em suy nghĩ, tìm tòi để tự mình
nắm được bản chất vấn đề học tập.
- J.J.Rutsxô (1712-1778) quan tâm đến sự phát triển tự nhiên ở mỗi con
người. Theo ông, phải lôi cuốn học sinh vào quá trình học tập, làm cho họ tích
cực, tự lực tìm tòi, khám phá, tìm lấy tri thức.
- A.Distesvec chú trọng đến sự phát triển cá biệt của từng học sinh và
cho rằng dạy học cần dựa vào đặc điểm tâm lí của trẻ.
Những năm đầu thế kỉ XX, J.Dewey (1916) cho rằng giáo dục và dạy
học là sự phát triển tiềm năng, năng lực vốn có của học sinh. Do vậy việc học
tập là quá trình xử lí kinh nghiệm mà người học tiến hành với sự giúp đỡ của
nhà giáo dục theo nhu cầu và lợi ích cá nhân.
Cùng với quan điểm trên, phong trào dạy hướng vào người học đã thực
hiện theo quan điểm “dạy học cá nhân” ở gần 200 trường học. Các tác giả

- 6 -


Bori, Rodolflo, Azzi, FradKeller, J.Gilmour,…đã thực hiện chương trình dạy
học cá nhân theo hai cách:
+ Yêu cầu người thầy cố gắng sử dụng các phương pháp dạy học khác
nhau phù hợp với từng học sinh và mỗi học sinh phải có cách học khác nhau
tùy theo khả năng của mình.
+ Để phù hợp với trình độ nhận thức của mỗi học sinh, giáo viên phải
chia nội dung dạy học thành những giai đoạn nhỏ và mỗi phần, mỗi chi tiết có
liên quan đến phần chung.
- Carol Ann Tomlinson cho rằng trẻ em rất khác nhau về mọi phương
diện, họ có nền văn hóa và khả năng khác nhau vì vậy người thầy phải tìm
kiếm những con đường, những phương pháp thích hợp trong lớp đối với họ.
- Ở Liên Xô đã công bố hơn 200 công trình nghiên cứu về những đặc
điểm cá biệt của trẻ em và phương pháp tiếp cận cá biệt hoạt động nhận thức
của học sinh.
- Theo E.X.Rabunxki thì cá biệt hóa là nguyên tắc quan trọng nhất
trong lí luận dạy học.
- Các tác giả I.E.Unt, V.I.Zagvia Zinxki, L.P.Knus, M.N.Nicolaeva có
cùng quan điểm với E.X.Rabunxki. Họ đưa ra hệ thống để phân loại học sinh.
Trong đó nhấn mạnh đến kĩ năng làm việc độc lập và trình độ nhận thức của
học sinh là những tiêu chí cơ bản để giúp giáo viên tổ chức dạy học theo
hướng cá biệt hóa.
- R.R.Sigh (1991) đã đưa ra thuật ngữ “ Quá trình dạy học lấy người
học làm trung tâm” để nhấn mạnh vai trò của người học.
- Trong những năm gần đây, ở Pháp cũng rất coi trọng việc rèn luyện
cho học sinh phương pháp tự tìm lấy kiến thức ngay từ bậc Tiểu học.
- Ở Việt Nam, trong thời kì phong kiến, thầy đồ cùng một lúc dạy nhiều
học sinh ở những độ tuổi khác nhau.

- 7 -


- Một số tác giả như: Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Văn Tảo, Trần Bá Hoành,
Nguyễn Kì… đã có những nghiên cứu về những vấn đề chung như: Mối quan
hệ giữa dạy và học, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học.
- Hà Thế Ngữ, Nguyễn Ngọc Quang, Đặng Vũ Hoạt, …và một số các
tác giả khác đã đề cập tới biện pháp khơi dậy và phát huy tính cá biệt của mỗi
học sinh. Phạm Viết Phượng đã khẳng định: “Dạy học cá biệt hóa cần chú ý
tới từng học sinh, giao cho họ những nhiệm vụ, tác động đến họ theo những
đặc điểm cá biệt, theo trình độ mà họ đang có”.
- Tác giả Nguyễn Hữu Châu đã đề cập đến dạy học phân hóa trong
cuốn “Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy học”
- Tiến sĩ Nguyễn Hữu Thiên – Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cũng có
bài viết: “Các giải pháp chỉ đạo thực hiện dạy học phân hóa đối tượng học
sinh trong trường Tiểu học” đăng trên báo “Dạy và học ngày nay”.
- Như vậy phương pháp dạy học phân hóa không phải là một phương
pháp hoàn toàn xa lạ. Nó đã có từ lâu, tuy nhiên trải qua những năm thăng
trầm của lịch sử, của sự biến đổi về các quan điểm về giáo dục, sự mới cũ của
phương pháp dạy học phân hóa là khác nhau. Hiện nay trong nền giáo dục
Việt Nam, phương pháp dạy học phân hóa là một phương pháp mới, đã và
đang nhận được sự quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu của các nhà giáo dục và
các giáo viên đứng lớp.
1.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học phân hóa
Theo từ điển Tiếng Việt thì : “Phân hóa là phân chia và làm biến đổi
thực chất.”
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim thì hình thức dạy học phân hóa có thể
thực hiện theo hai hướng đó là phân hóa nội tại và phân hóa tổ chức.

- 8 -

- Phân hóa nội tại hay còn gọi là phân hóa trong: Là dùng những biện

pháp phân hóa thích hợp trong một lớp học thống nhất, cùng với một kế
hoạch học tập, chương trình và sách giáo khoa.
- Phân hóa về tổ chức hay còn gọi là phân hóa ngoài: Là hình thức dạy
học phân hóa thành các nhóm ngoại khóa, lớp chuyên…
Theo tác giả Nguyễn Hữu Châu, dạy học phân hóa bao gồm những hình
thức chủ yếu sau đây:
- Hình thức dạy học phân ban: Là hình thức dạy học mà mỗi trường tổ
chức dạy học theo một số ban đã được qui định trên phạm vi toàn quốc và học
sinh được phân chia vào các lớp học tùy theo năng lực, hứng thú và nhu cầu.
- Hình thức dạy học tự chọn: Là hình thức dạy học theo “nhu cầu” (học
sinh cần gì thì học đấy, học sinh phải được quyết định cả về số lượng và chất
lượng nội dung học tập của mình).
- Hình thức dạy học phân ban kết hợp với dạy học tự chọn: Đây là hình
thức dạy học mà học sinh vừa được phân chia theo các ban khác nhau, đồng
thời học sinh được chọn một số môn học và giáo trình tự chọn ngoài nội dung
học tập bắt buộc chung cho mỗi ban.
Từ những quan điểm về phân hóa, dạy học phân hóa trên đây có thể đi
đến kết luận về phương pháp dạy học phân hóa như sau: Dạy học phân hóa là
phương pháp dạy học đi sâu về cá thể hóa, đối tượng hóa, đối xử cá biệt theo
năng lực nhận thức của học sinh. Giáo viên lựa chọn nội dung, áp dụng các
phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng đối tượng
học sinh trong điều kiện toàn lớp, trên cơ sở nghiên cứu từng đặc điểm của
từng học sinh về mọi phương diện như trình độ nhận thức, nhu cầu, động cơ,
hứng thú, thói quen hoạt động, …để xây dựng một quy trình dạy học tích cực,
phù hợp với từng cá nhân trên cơ sở đảm bảo mục tiêu chung.


- 9 -

1.1.3. Bản chất của phương pháp dạy học phân hóa

- Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp học làm nền tảng.
Đảm bảo tính cá nhân, vừa sức cho từng cá nhân người học, gây được hứng
thú học tập cho mọi đối tượng học sinh.
- Sử dụng biện pháp phân hóa đưa học sinh yếu kém lên trình độ chung.
- Có những nội dung bổ sung và những biện pháp phân hóa giúp học
sinh khá giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những
yêu cầu cơ bản.
Như vậy bản chất của biện pháp dạy học phân hóa không phải là sự
phân biệt đối xử trong dạy học một cách thuần túy, mà là sự phân biệt đi sâu
vào cá thể hóa, đối tượng hóa, coi trọng năng lực của học sinh để tổ chức các
hoạt động, thiết kế nội dung dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh trên
cơ sở đạt được yêu cầu về trình độ chung và trình độ riêng
1.1.4. Ưu, nhược điểm của phương pháp dạy học phân hóa
a) Ưu điểm của phương pháp dạy học phân hóa
- Cá biệt hóa từng đối tượng nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu chung của
bài học.
- Tất cả mọi học sinh đều được lĩnh hội những kiến thức cơ bản nhất.
- Đảm bảo được tính vừa sức cho người học.
- Khắc phục được những lỗ hổng về kiến thức cho học sinh.
- Phát huy được tính tự giác, tích cực, khả năng tư duy của học sinh,
khuyến khích phát triển trí tuệ của những học sinh khá giỏi.
- Giáo viên nắm được khả năng nhận thức của học sinh và kiểm soát
được quá trình suy nghĩ của các em.
- Chất lượng hiệu quả dạy học cao hơn nhờ việc đối sử cá biệt đến từng
học sinh.


- 10 -

b) Hạn chế của phương pháp dạy học phân hóa

- Đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian hơn để quan tâm, theo sát
đối tượng học sinh để nắm bắt được năng lực cũng như trình độ nhận thức của
các em một cách chính xác và kịp thời.
- Nội dung dạy học phải phù hợp với đa dạng đối tượng học sinh cho
nên giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian vào công việc soạn giáo án.
- Tổ chức lớp học của nước ta hiện nay hầu hết có số lượng đông cho
nên chênh lệch về trình độ cao, có thể gây khó khăn cho giáo viên trong việc
nắm bắt và phân biệt trình độ nhận thức của từng đối tượng học sinh để đối xử
cá biệt.
Nhìn chung ưu điểm mà phương pháp dạy học phân hóa mang đến
phục vụ hiệu quả cho việc triển khai chương trình dạy và học hiện nay, góp
phần thiết thực để đạt được mục tiêu ở các bậc học, lớp học và môn học. Tuy
còn một số hạn chế nhưng với trình độ và tâm huyết nghề nghiệp, người dạy
có thể khắc phục hoàn toàn những hạn chế đó để có thể vận dụng phương
pháp dạy học phân hóa vào quá trình dạy học sao cho đạt hiệu quả cao.
1.1.5 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình sử dụng phương
pháp dạy học phân hóa
a. Thuận lợi
Trong phương pháp dạy học phân hóa, những kiến thức mà học sinh
thu được thỏa mãn nhu cầu, động cơ học tập của bản thân học sinh. Học sinh
được chú ý tới năng lực cá nhân của mình trong học tập, khai thác được
những kinh nghiệm vốn có của mình về thế giới tự nhiên, con người và xã
hội, từ đó khơi dậy ở học sinh sự yêu thích, hứng thú học tập, chủ động chiếm
lĩnh kiến thức, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế của học sinh.
Học sinh cùng một độ tuổi, cùng một lớp học vừa có sự giống nhau lại
vừa có sự khác nhau về khả năng tư duy, nhân cách và hoàn cảnh gia đình,

- 11 -

khả năng kinh tế…Vì vậy việc vận dụng phương pháp dạy học phân hóa là

hoàn toàn hợp lí và nhất định sẽ mang lại hiệu quả cao.
Trong điều kiện nền kinh tế đang ngày càng phát triển, cùng với sự tiến
bộ của khoa học kĩ thuật, sự bùng nổ của các phương tiện thông tin thì khả
năng nhận thức của học sinh sẽ ngày một phát triển theo. Bên cạnh đó kinh
nghiệm và sự hiểu biết của mỗi học sinh là khác nhau, vì vậy cần phải bám sát
tính cá thể của mỗi học sinh trong quá trình dạy học. Đây là một vấn đề hết
sức cần thiết để phát triển tối đa năng lực của học sinh.
Dạy học phân hóa giúp giáo viên nhận biết chính xác năng lực học tập
của từng học sinh. Từ đó giúp giáo viên triển khai kế hoạch giảng dạy môn
Khoa học 4 một cách phù hợp.
Mặc dù dạy học phân hóa không phụ thuộc quá nhiều vào phương tiện,
cơ sở vật chất dạy học nhưng phương tiện, cơ sở vật chất dạy học vẫn tạo điều
kiện cho giáo viên tổ chức việc dạy học một cách dễ dàng trong dạy học nói
chung và dạy học phân hóa nói riêng. Hiện nay đất nước ta đang chú trọng
đầu tư rất nhiều cho các trang thiết bị và phương tiện dạy học. Đó cũng là
thuận lợi để nâng cao hiệu quả của dạy học phân hóa.
b. Khó khăn:
Chưa có sự hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về bản chất của phương pháp
dạy học phân hóa, thường thì giáo viên mới chỉ có những hiểu biết đơn giản
đó là sự dạy học phân biệt: Học sinh khá, giỏi và học sinh yếu kém, trung
bình.
Để soạn giảng theo phương pháp dạy học phân hóa đòi hỏi giáo viên
phải suy xét rất nhiều do đó tốn rất nhiều thời gian và công sức. Việc dạy học
phân hóa dễ gây tự ti đối với học sinh yếu kém hoặc tự cao tự đại đối với học
sinh khá giỏi. Thực trạng giáo dục ở Việt Nam ta thì tổ chức lớp học hầu hết
có số lượng học sinh đông, cơ sở dạy học một số nơi còn nghèo nàn, lớp ghép

- 12 -

nhiều trình độ còn tồn tại ở rất nhiều khu vực đặc biệt là các khu vực miền

núi, chính vì vậy mà việc vận dụng phương pháp dạy học phân hóa tương đối
phức tạp và khó khăn.
1.1.6. Vai trò của giáo viên và học sinh trong việc dạy học bằng
phương pháp phân hóa
Đối với giáo viên, những người “cầm cân nảy mực” trong quá trình dạy
học đặc biệt là trong phương pháp dạy học phân hóa thì đòi hỏi người dạy
phải nắm vững hiểu sâu bản chất của việc dạy học phân hóa: Dạy học phân
hóa đối tượng học sinh trong mỗi giờ học, ngoài việc yêu cầu học sinh nắm
được các đơn vị kiến thức cơ bản trong bài thì giáo viên phải khơi dậy và phát
huy những năng lực vốn có của tất cả học sinh. Dạy học phân hóa đối tượng
học sinh khác với dạy học lớp ghép nhiều trình độ. Các đơn vị kiến thức cơ
bản được tất cả học sinh trong lớp chiếm lĩnh, tiếp thu. Học sinh khá giỏi
được mở rộng, nâng cao kiến thức trên nền kiến thức cơ bản mà mục tiêu bài
học đặt ra, còn học sinh yếu kém cần phải đạt được cái đích “ hiểu và vận
dụng” được những kiến thức cơ bản của bài học. Để làm được điều đó giáo
viên cần phải có những phương pháp riêng biệt với hệ thống câu hỏi gợi mở,
dẫn dắt các em đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Giáo viên phải là
người biết động viên, khích lệ các em trong mỗi sự cố gắng để các em không
nản chí, để các em có niềm tin vào khả năng của mình. Giáo viên phải có
chiến lược xây dựng bài học, soạn giáo án phù hợp theo hướng phân hóa học
sinh. Đồng thời trong quá trình giảng dạy giáo viên cần phải phối hợp với các
phương pháp dạy học khác để đạt được mục tiêu bài học đúng với bản chất
của phương pháp dạy học phân hóa.
Đối với học sinh, để đạt được mục đích của phương pháp dạy học phân
hóa học sinh phải tham gia một cách tự giác, tích cực các hoạt động học tập
do giáo viên tổ chức. Đồng thời phải luôn có ý chí vươn lên, nâng cao năng

- 13 -

lực bản thân, học sinh yếu kém thì vươn lên thành học sinh khá giỏi, học sinh

khá giỏi thì khá giỏi hơn nữa, giúp học sinh không quá tự tin hoặc tự ti vào
bản thân mình, không có thái độ ỷ lại, lười biếng trong học tập mà phải luôn
luôn cố gắng vươn lên hoàn thiện bản thân mình.
1.2. Một số vấn đề về môn Khoa học 4
1.2.1. Cấu trúc chương trình môn Khoa học lớp 4
Sách giáo khoa Khoa học lớp 4 gồm 3 chủ đề chính với nội dung cụ thể
như sau:
 Chủ đề 1: Con người và sức khỏe
- Con người:
+ Con người cần gì để sống?
+ Trao đổi chất ở người.
- Các chất dinh dưỡng:
+ Chất bột, đường, chất đạm, chất béo.
+ Vitamin, chất khoáng, chất xơ.
- Ăn uống hợp lí:
+ Cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn.
+ Cần ăn phối hợp đạm động vật và đạm thực vật.
+ Sử dụng hợp lí các chất béo và muối ăn.
+ Ăn nhiều rau quả chín. Sử dụng thực phẩm an toàn.
+ Một số cách bảo quản thức ăn.
- Phòng tránh bệnh tật:
+ Phòng bệnh do thiếu chất dinh dưỡng, bệnh béo phì và một số bệnh
lây qua đường tiêu hóa.
+ Ăn uống khi bị bệnh.
+ Phòng tránh tai nạn đuối nước.
 Chủ đề 2: Vật chất và năng lượng.

- 14 -

- Nước:

+ Tính chất của nước, các thể của nước.
+ Quá trình hình thành mây, mưa.
+ Sơ đồ vòng tuần hoàn của nước.
+ Vai trò của nước, nguyên nhân làm nước bị ô nhiễm.
+ Một số cách làm sạch và bảo vệ nguồn nước, tiết kiệm nước.
- Không khí:
+ Làm thế nào để biết có không khí.
+ Tính chất, thành phần, vai trò của của không khí.
+ Gió, bão.
+ Bảo vệ bầu không khí trong sạch.
- Âm thanh:
+ Sự lan truyền âm thanh.
+ Những âm thanh trong cuộc sống.
- Ánh sáng, nóng, lạnh và nhiệt độ.
- Các nguồn nhiệt:
+ Vật dẫn nhiệt, vật cách nhiệt.
+ Các nguồn nhiệt.
+ Nhiệt cần cho sự sống.
 Chủ đề 3: Thực vật và động vật.
- Thực vật:
+ Thực vật cần gì để sống?
+ Nhu cầu nước, chất khoáng, không khí của thực vật.
+ Trao đổi chất ở thực vật.
- Động vật:
+ Động vật cần gì để sống?
+ Trao đổi chất ở động vật.

- 15 -

+ Chuỗi thức ăn trong tự nhiên và mối quan hệ cuả chúng.

1.2.2. Đặc điểm của môn Khoa học lớp 4
Bước sang lớp 4 chương trình môn Tự nhiên - Xã hội có sự thay đổi rõ
rệt so với ở các lớp 1, lớp 2, lớp 3. Cụ thể là nó được tách thành hai môn riêng
rẽ, một là môn Khoa học, hai là môn Lịch sử và Địa lí. Lúc này quá trình
nhận thức và khả năng tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn bởi
lẽ các em đã bước qua giai đoạn đầu của lứa tuổi Tiểu học. Để giúp các em
tiếp thu được kiến thức một cách tốt nhất thì đòi hỏi người giáo viên phải tổ
chức các hoạt động học tập sao cho tất cả mọi học sinh đều được tham gia,
được hoạt động trực tiếp, sử dụng tất cả các giác quan của mình để trực tiếp
nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ, mó… Hay nói cách khác chính là giúp học sinh
được phát triển, được bộc lộ tất cả các năng lực cá nhân của mình, tuy nhiên
muốn đạt được hiệu quả cao thì các em phải hoạt động dưới sự chỉ đạo, giám
sát, giúp đỡ của giáo viên. Đối với từng vấn đề, cá nhân mỗi học sinh sẽ có
những cách nhìn nhận, cách phát hiện và giải quyết vấn đề đó theo cách riêng
của mình. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh cho nên sẽ có
những em học khá, giỏi không những hiểu đúng vấn đề mà còn có khả năng
hiểu sâu, rộng, bên cạnh đó cũng có những em hiểu nông, thậm chí chưa đúng
nội dung của bài, qua đó giáo viên có thể vận dụng tức thì phương pháp dạy
học phân hóa để giúp học sinh nắm nội dung bài học một cách tốt nhất.
Các kiến thức trong môn Khoa học lớp 4 rất phong phú, đa dạng và có
tính chất phân tầng. Sự phong phú và đa dạng thể hiện ở chỗ các kiến thức
trong chương trình là kết quả tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học
như Sinh học, Vật lí, Hóa học…mà trong mỗi lĩnh vực khác nhau học sinh sẽ
có những thế mạnh và hạn chế khác nhau. Tính chất phân tầng thể hiện ở chỗ
các kiến thức trong chương trình được trình bày đi từ gần đến xa, từ đơn giản
đến phức tạp, ngoài những kiến thức cơ bản còn có những kiến thức mở rộng

- 16 -

và nâng cao. Đây cũng chính là điều kiện để giáo viên vận dụng phương pháp

phân hóa vào dạy học môn Khoa học lớp 4.
Bên cạnh đó, nội dung của môn Khoa học lớp 4 chủ yếu là những bài
học giúp các em có những hiểu biết về cơ thể, sức khỏe con người, những
hiểu biết về thế giới tự nhiên xung quanh cụ thể là các loài thực vật và động
vật, những hiểu biết về một số vật chất và năng lượng gần gũi với các em
trong cuộc sống hàng ngày như: Nước, không khí, mây, mưa, gió, bão, âm
thanh, ánh sáng, nhiệt độ và các nguồn nhiệt. Đối với mỗi nội dung này thì ở
mỗi học sinh đều đã có những hiểu biết nhất định (khác nhau ở mỗi học sinh).
Vì vậy dạy học môn Khoa học lớp 4 bằng phương pháp dạy học phân hóa
đảm bảo cho việc dạy sát đối tượng, phát huy và bồi dưỡng năng lực, những
hiểu biết mà học sinh đã có.
1.3. Vai trò của phương pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn
Khoa học lớp 4
Có thể khẳng định rằng phương pháp dạy học phân hóa là rất cần thiết,
mang lại hiệu quả cao và được vận dụng rộng rãi trong tất cả các bậc học,
môn học và các bài học. Do đó môn Khoa học lớp 4 cũng không nằm ngoài
điều đó. Dạy học bằng phương pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn
Khoa học lớp 4 giúp giáo viên thực hiện tốt mục tiêu dạy học nói chung và
mục tiêu của môn Khoa học nói riêng.
Trước hết vai trò của phương pháp dạy học phân hóa trong môn Khoa
học lớp 4 thể hiện ở chỗ nó đảm bảo cho giáo viên dạy học theo nguyên tắc
“phát triển vùng gần nhất”, hay nói cách khác là trên cơ sở những kiến thức,
kĩ năng, hiểu biết về tự nhiên xã hội, về khoa học và con người mà học sinh
đã có từ trước. Dạy học phân hóa giúp phát triển và nuôi dưỡng những kiến
thức, kĩ năng đó.

- 17 -

Dạy học môn Khoa học lớp 4 cần có sự phối hợp của nhiều phương
pháp dạy học khác nhau như: Phương pháp quan sát, phương pháp thảo luận

nhóm, phương pháp trò chơi, phương pháp điều tra, phương pháp dự án,
phương pháp đóng vai… Ngay trong quá trình học sinh quan sát, thảo luận
nhóm, trò chơi học tập, đóng vai sử lí tình huống… Giáo viên đều phải sử
dụng phương pháp phân hóa. Ví dụ khi tổ chức một trò chơi học tập, để đảm
bảo trò chơi thực hiện thành công và đạt được mục đích học tập trước hết giáo
viên cần phải biết năng lực của học sinh như thế nào, có tham gia và hoàn
thành trò chơi được không, bài học rút ra sau trò chơi đó là gì Do đó, giáo
viên cần phải phân hóa trò chơi, xác định trò chơi dành cho những đối tượng
học sinh nào, từ đó mới xây dựng được trò chơi phù hợp với mỗi đối tượng
học sinh của mình.
Nội dung của môn Khoa học lớp 4 bao gồm: Con người và sức khỏe,
Vật chất và năng lượng, Động vật và thực vật. Để học sinh có hiểu biết về bản
thân và tự chăm lo cho sức khỏe của mình, có hiểu biết về thế giới tự nhiên
xung quanh, các loài động và thực vật, có ý thức bảo vệ thiên nhiên thì học
sinh cần được quan sát, hoạt động, cần tạo cho học sinh hứng thú học tập,
kích thích khả năng tư duy, sáng tạo của mỗi học sinh. Để làm được những
điều trên thì giáo viên cần phải sử dụng phương pháp phân hóa học sinh nhằm
tác động vào năng lực, nhu cầu của mỗi em, có như vậy học sinh mới được
học tập phù hợp với khả năng của mình (Trên cơ sở kiến thức cơ bản để xây
dựng nội dung phân hóa).
Ở Tiểu học sự phát triển của các cơ quan trong cơ thể diễn ra một cách
tích cực, thể hiện ở sự phát triển chiều cao, cân nặng, sự cốt hóa của bộ
xương, khả năng tư duy, trí tưởng tượng… Tuy nhiên sự phát triển này ở mỗi
học sinh là khác nhau. Trong môn Khoa học lớp 4 có những hoạt động trò
chơi, những khám phá và trải nghiệm… Thông qua đó học sinh sẽ thu được

- 18 -

những kiến thức, phát hiện ra những kiến thức mới cho bản thân mình. Nhưng
sự phát triển ở mỗi học sinh là khác nhau cho nên không phải tất cả học sinh

đều có thể tham gia các trò chơi, khám phá, trải nghiệm… do giáo viên tổ
chức. Vì vậy, việc vận dụng phương pháp dạy học phân hóa vào dạy học là rất
cần thiết.
Mặt khác từ những những nghiên cứu về giáo dục cho thấy: Dựa vào
các phương pháp dạy học truyền thống thì khả năng ghi nhớ của học sinh là
dưới 20%, còn học tập bằng phương pháp thực hành (bám sát tính cá thể của
học sinh) sẽ đem lại kết quả giáo dục rất cao, khả năng ghi nhớ của học sinh
lên tới 75%. Phương pháp dạy học phân hóa là phương pháp dạy học đi sâu
vào cá thể hóa, đối tượng hóa, đối xử cá biệt theo năng lực nhận thức của học
sinh. Giáo viên lựa chọn nội dung, hình thức dạy học phù hợp với từng đối
tượng học sinh trong điều kiện toàn lớp học, trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm
của từng học sinh về mọi phương diện như trình độ nhận thức, nhu cầu, động
cơ, hứng thú học tập… Từ đó giúp giáo viên xây dựng quy trình dạy học tích
cực, phù hợp với từng đối tượng học sinh trên cơ sở xây dựng mục tiêu
chung.











- 19 -

Chương 2: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA
TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4

2.1 Các nguyên tắc khi vận dụng phương pháp dạy học phân hóa
trong dạy học môn Khoa học 4
Để vận dụng thành công PPDH phân hóa trong dạy học môn Khoa học
lớp 4 thì ngoài việc đảm bảo các nguyên tắc Giáo dục nói chung cần đảm bảo
một số nguyên tắc riêng của PPDH phân hóa.
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo mục tiêu bài học
PPDH là cách thức, con đường nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Như vậy:
Tùy từng nội dung bài học, trình độ nhận thức của học sinh cũng như cơ sở
vật chất của nhà trường, giáo viên trong một giờ lên lớp có thể sử dụng nhiều
phương pháp dạy học khác nhau để đạt được mục tiêu bài học.
PPDH phân hóa là phương pháp dạy học đi sâu vào cá thể hóa, đối
tượng hóa, đối sử cá biệt theo năng lực nhận thức của học sinh. Nhưng không
vì thế mà giáo viên có thể soạn giáo án theo kiểu câu hỏi khó dành cho học
sinh khá giỏi, câu hỏi dễ dành cho học sinh yếu kém mà những câu hỏi này
chưa sát với mục tiêu kiến thức, kĩ năng mà bài học, môn học đề ra. Vì vậy
lựa chọn phương pháp dạy học phân hóa vào dạy học nói chung và môn Khoa
học 4 nói riêng phải bám sát mục tiêu, nội dung bài học để xây dựng kế hoạch
dạy học nhằm tạo điều kiện phát triển theo năng lực của cá nhân học sinh.
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức chung và
tính vừa sức riêng
Dạy học vừa sức có nghĩa là những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra
cho tất cả học sinh trong lớp đều có thể thực hiện được với sự nỗ lực cao nhất
về mặt trí tuệ và thể lực. Nguyên tắc này yêu cầu khi vận dụng phương pháp
dạy học phân hóa vào dạy học môn Khoa học lớp 4, giáo viên phải chú ý đến
trình độ chung của tất cả học sinh và trình độ riêng của mỗi đối tượng học

- 20 -

sinh. Trình độ chung là trình độ của cả lớp (tiếp thu được tất cả các đơn vị
kiến thức cơ bản của bài); Trình độ riêng bao gồm trình độ khá, giỏi (có khả

năng tiếp thu kiến thức cơ bản một cách nhanh chóng, mở rộng kiến thức vượt
ra ngoài bài học) và trình độ trung bình, yếu, kém (khả năng tiếp thu bài chậm
hơn). Trên cơ sở đó giáo viên thiết kế giáo án dạy học giúp cho mỗi đối tượng
học sinh thỏa mãn được nhu cầu học tập.
Việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần phát triển trí tuệ và nhân
cách của học sinh nói chung. Ngược lại, nếu không tuân thủ nguyên tắc này
(nội dung phân hóa quá dễ hoặc quá khó) thì sẽ không phát huy được khả
năng tích cực, chủ động của người học, kìm hãm sự phát triển trí tuệ của học
sinh. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng cần tuân thủ khi vận
dụng phương pháp dạy học phân hóa.
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự giác, tích
cực, độc lập của học sinh và vai trò chủ đạo của giáo viên
Muốn đổi mới phương pháp dạy học, hình thức dạy học đòi hỏi phải
phát huy được tính tích cực, chủ động, độc lập tư duy, khả năng nhận thức của
học sinh cũng như vai trò chủ đạo của giáo viên. Quá trình sử dụng phương
pháp dạy học phân hóa trong dạy học môn Khoa học 4 cũng yêu cầu đảm bảo
nguyên tắc trên.
Trong dạy học phân hóa tính tích cực thể hiện ở chỗ học sinh ý thức
được đầy đủ mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ mà giáo viên đề ra để lĩnh hội kiến
thức (bao gồm các kiến thức cơ bản và kiến thức nâng cao), kĩ năng, phát huy
được cá tính trong học tập của mình, có ý thức tự kiểm tra đánh giá toàn bộ
quá trình học tập của bản thân.
Tính tích cực thể hiện ở chỗ học sinh thể hiện các yêu cầu học tập theo
nội dung phân hóa của giáo viên một cách tích cực, nghiêm túc và có hiệu
quả.

- 21 -

Tính độc lập nhận thức của học sinh đặc trưng ở chỗ các em tự mình
phát hiện các vấn đề và tự mình giải quyết chúng. Hay nói cách khác là năng

lực tự tổ chức, tự điều khiển các hoạt động của học sinh trong trong quá trình
hoạt động phân hóa nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
Ba phẩm chất ấy rất cần thiết và có liên quan chặt chẽ với nhau. Các
phẩm chất ấy của học sinh được hình thành và phát triển dưới vai trò chủ đạo
của giáo viên. Chính vì vậy khi tổ chức các hoạt động phân hóa cho học sinh,
giáo viên cần tiến hành một cách rõ ràng, khoa học…Có như vậy thì mới kích
thích được hứng thú học tập của học sinh, tạo điều kiện để ba phẩm chất trên
được bộc lộ và phát huy một cách có hiệu quả.
2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo trong dạy học: Con người phát triển trong
hoạt động và học tập trong hoạt động
Trong dạy học phân hóa giáo viên phải là người xây dựng và tổ chức
các hoạt động học tập phân hóa cho học sinh. Học sinh tham gia các hoạt
động học tập dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của giáo viên để có thể phát huy
được hết năng lực vốn có của mình. Trong quá trình sử dụng phương pháp
phân hóa giáo viên phải thiết kế các hoạt động dạy học phân hóa phù hợp với
khả năng của từng đối tượng học sinh nên học sinh sẽ tìm thấy sự hứng thú
của mình trong các hoạt động học tập đó. Từ đó học sinh sẽ giải quyết các
nhiệm vụ học tập qua các hoạt động học tập mà giáo viên đề ra để tiếp thu tri
thức tương ứng với khả năng của mình.
Nguyên tắc này yêu cầu trong dạy học phải đảm bảo cho học sinh được
khám phá, tìm tòi, chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng thông qua các hoạt
động học tập mà giáo viên đưa ra. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học giáo
viên là người hướng dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều phải hoạt
động học tập để phát triển năng lực của bản thân mình.

- 22 -

2.1.5. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
vừa sức:
Đảm bảo nguyên tắc vừa sức trong dạy học tức là: Đảm bảo những tri

thức khoa học mà chúng ta cần giúp học sinh nắm vững phải phù hợp với
trình độ và khả năng của học sinh.
Dạy học môn Khoa học lớp 4 bằng phương pháp phân hóa phải đảm
bảo nguyên tắc này có nghĩa là mọi yêu cầu, mọi nội dung dạy học nhằm mục
đích phân hóa phải phù hợp với học sinh, không quá khó với học sinh khá,
giỏi, không quá dễ với học sinh trung bình, yếu, kém. Có như vậy mới đạt
được mục tiêu phân hóa mà giáo viên đã định.
2.2. Quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 bằng phương pháp dạy
học phân hóa
Từ những nghiên cứu cơ sở lí luận và dựa trên các tài liệu đã tham
khảo, có thể đưa ra quy trình dạy học phân hóa trong dạy học môn Khoa học
lớp 4 như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu, nội dung của bài học
Trên cơ sở xác định mục tiêu, nội dung bài học giúp cho giáo viên nắm
được những yêu cầu cơ bản về kiền thức, kĩ năng và thái độ mà tất cả học sinh
cần có. Từ đó đưa ra các phương án (có thể là câu hỏi, bài tập…) sao cho phù
hợp với năng lực của mỗi đối tượng học sinh mà vẫn đạt được mục tiêu chung
của bài học.
Bước 2: Phân loại học sinh
Giáo viên dựa trên kinh nghiệm đứng lớp để phân loại học sinh theo
các trình độ. Đồng thời, cần xác định việc dạy học theo phương pháp phân
hóa mỗi đối tượng học sinh cần đạt tới một mục tiêu:
- Trình độ chung: Nắm được những kiến thức cơ bản của bài học
- Trình độ riêng:

- 23 -

+ HS yếu, kém, trung bình: Nắm và ghi nhớ được nội dung cơ bản
của bài học
+ HS khá, giỏi: Nắm được, hiểu được bản chất, ghi nhớ sâu và mở

rộng phạm vi kiến thức của bài học.
Bước 3: Thiết kế các nội dung dạy học phù hợp với từng đối tượng
học sinh
Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập, yêu cầu học tập phù hợp với từng
đối tượng học sinh trên cơ sở đảm bảo mục tiêu và nội dung của bài học.
- Học sinh yếu, kém, trung bình: GV xây dựng những câu hỏi, những
bài tập vừa sức với học sinh sao cho bám sát nội dung bài học, đồng thời giáo
viên chuẩn bị các câu hỏi gợi mở, trợ giúp để học sinh tìm ra tri thức của bài
học.
- Học sinh khá, giỏi: GV xây dựng những câu hỏi, bài tập khó hơn,
phức tạp và mở rộng hơn phạm vi bài học nhưng có liên quan đến nội dung
bài học mà vẫn phải đảm bảo được mục tiêu chung của bài.
Bước 4: Tiến hành các hoạt động dạy học phân hóa bằng nhiều hình
thức khác nhau
- Đối xử cá biệt ngay trong những pha dạy học đồng loạt.
- Giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Tổ chức các hoạt động ngoại khóa như: tham quan, tìm hiểu, điều tra
… sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Đây là bước thực hiện nội dung phân hóa đã thiết kế thành các bước lên
lớp (quy trình dạy học).
Bước 5: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
GV có thể đưa ra nội dung câu hỏi chung cho tất cả các đối tượng học
sinh hoặc giao bài tập về nhà phù hợp với năng lực của từng đối tượng học
sinh.

- 24 -

Thông qua kết quả trả lời câu hỏi, việc làm bài tập ở nhà của học sinh
giáo viên đánh giá được mục tiêu phân hóa đề ra có đạt được hay không.
2.3. Một số giáo án minh họa cho quy trình dạy học môn Khoa học

lớp 4 bằng phương pháp dạy học phân hóa
2.3.1. Bài 10: Ăn nhiều rau và quả chín.
Sử dụng thực phẩm sạch và an toàn.
Bước 1: Xác định mục tiêu, nội dung bài học để lựa chọn phương pháp
dạy học phân hóa
- HS nêu được ích lợi của việc ăn nhiều rau, quả chín hàng ngày.
- HS nêu được tiêu chuẩn của thực phẩm sạch và an toàn.
- HS biết các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm.
- HS có ý thức thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm và ăn nhiều rau quả
chín hàng ngày.
Bước 2: Phân loại học sinh
- GV có thể dễ dàng phân loại HS dựa trên kinh nghiệm đứng lớp.
- Yêu cầu cụ thể đối với từng loại đối tượng HS là:
+ Trình độ chung: Tất cả HS nắm được các kiến thức cơ bản của
toàn bài.
+ Trình độ riêng:
 HS yếu, kém: Nắm được các kiến thức cơ bản của toàn bài.
 HS khá, giỏi: Nhanh chóng nắm được kiến thức cơ bản của
bài học và mở rộng phạm vi kiến thức. Cụ thể: Biết tuyên truyền cho mọi
người cần phải ăn nhiều rau và hoa quả chín, biết sử dụng thực phẩm sạch và
an toàn…
Bước 3: Thiết kế nội dung bài học phù hợp với từng loại đối tượng học
sinh
 Nội dung 1: Ích lợi của việc ăn rau và quả chín hàng ngày:

- 25 -

- Cả lớp cùng quan sát tranh trong sách giáo khoa và trả lời câu hỏi ( vì
đây là kiến thức cơ bản của toàn bài cho nên giáo viên cần chú ý đưa ra các
câu hỏi hướng nhiều đến học sinh yếu, kém và trung bình).

+ Em hãy kể tên các loại rau, quả được dùng hàng ngày trong gia đình
nhà em?
- GV có thể gợi ý để HS trả lời bằng các câu hỏi như:
+ Em cảm thấy thế nào nếu vài ngày không ăn rau?
+ Ăn rau và quả chín hàng ngày sẽ đem lại cho chúng ta những lợi ích
gì?
- GV sẽ gọi những HS yếu, kém trả lời trước, sau đó những HS khá,
giỏi trả lời sau để bổ sung và khắc sâu kiến thức cho tất cả mọi đối tượng.
(Ngoài các câu trả lời trong sách giáo khoa, GV có thể gợi ý để HS khá trả lời
thêm: Ngon miệng, cơ thể khỏe mạnh, đẹp da )
- Gọi 1 vài HS kém nhắc lại lợi ích của việc ăn rau và quả chín hàng
ngày.
 Nội dung 2: Trò chơi: Đi chợ mua hàng
- Tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm.
- GV chia cả lớp thành 4 nhóm: Dựa trên kinh nghiệm đứng lớp của
mình để chia nhóm theo đối tượng học sinh (xếp những HS có trình độ và
năng lực tương đương nhau vào cùng một nhóm) sau đó giao cho mỗi nhóm
một nhiệm vụ với yêu cầu tăng dần đối với những nhóm khá, giỏi.
- Yêu cầu:
+ Sử dụng các loại rau, đồ hộp mà mình đã chuẩn bị theo yêu cầu của
cô giáo ở giờ trước để tiến hành trò chơi.
+ Các đội hãy cùng đi chợ mua những thứ thực phẩm mà mình cho là
sạch và an toàn.

×