Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số giải pháp nhằm thúc đẩy cổ phần hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.98 KB, 18 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trước những yêu cầu to lớn của CNH, HĐH đất nước và cạnh tranh
trên thị trường ngày càng gay gắt, cần tiếp tục đổi mới các DNNN. Công
việc này gồm hai nội dung lớn: sắp xếp lại các doanh nghiệp và đổi mới cơ
chế quản lý. Trong đó Cổ phần hoá (CPH) một bộ phận DNNN là một trong
4 nội dung đổi mới quản lý DNNN. Hiện nay nó được coi là một chủ trương
quan trọng của Đảng và Nhà nước trong việc huy động vốn của mọi tầng lớp
và nâng cao tính tự, lực tự giác, nâng cao tinh thần trách nhiệm của những
người trực tiếp gắn lợi ích của mình với lợi ích của DN. Thông qua đó từng
bước cải thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự thay đổi của lực lượng sản
xuất trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, từng bước đưa nền kinh tế nước
nhà đi lên tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Chương trình CPH đã được triển khai từ giữa năm 1992, theo tinh
thần của Quyết định 202/CT-HĐBT về “thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp thành Công ty cổ phần” (ngày 08/06/1992). Cho đến nay, những
thành công mà chương trình CPH mang lại không phải là ít nhưng vẫn tồn
tại những bất cập cần kịp thời nhìn nhận và tháo gỡ. Trong khuân khổ bài
viết này chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng cũng như những mặt được và
chưa được của chương trình cổ phần hoá ở nước ta trong thời gian vừa qua,
từ đó đề xuất một số giải pháp cho thời gian sắp tới. Nghiên cứu về cổ phần
hóa DNNN, bài tiểu luận được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận chung về cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam.
Chương II: Thực trạng cổ phần hóa - Những kết quả đạt được và
những khó khăn cần tháo gỡ.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy cổ phần hóa.
Tuy nhiên do mới làm quen với công việc nghiên cứu viết đề án nên
bài viết này không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự góp ý,
hướng dẫn của các thầy cô. Em xin cám ơn !
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA
CÁC DNNN Ở VIỆT NAM
I. Quan niệm về cổ phần hoá DNNN :
Chúng ta có thể hiểu cổ phần hoá là việc chuyển đổi các loại hình doanh
nghiệp không phải là công ty cổ phần sang hoạt động theo quy chế của công
ty cổ phần. Từ quan niệm đó, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta có thể
đưa ra khái niệm cổ phần hoá DNNN là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở
hữu là nhà nước( doanh nghiệp đơn sở hữu ) thành công ty cổ phần( đa sở hữu
), chuyển doanh nghiệp từ nhỏ hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước
sang hoật động theo các quy định về công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp.
Từ nghị quyết của hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành TW Đảng khoá VII
( 6/1992 )
tiếp đó là quyết định số 202/CT ( 6/1992 ) của chủ tịch hội đồng bộ trưởng
( nay là Thủ tướng Chính phủ ), rồi tới các nghị định số 28/CP ( 7/5/1996 ),
25/CP ( 23/7/1997), nghị định HH/CP ( 29/6/1998 ), nghị quyết hội nghị lần
thứ 3 ban chấp hành TW Đảng khoá IX - số 05 – NQTW ( 24/9/2001). Cổ
phần hoá luôn được Đảng và nhà nước xác định là việc chuyển các DNNN
thành các công ty cổ phần nhằm thực hịên các mục tiêu :
- Chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp
- Huy động vốn của toàn xã hội
- Tạo điều kiện để người lao động trở thành người làm chủ thực sự của
doanh nghiệp
- Thay đổi phương thức quản lí trong doanh nghiệp
Sau một thời gian tiến hành thí điểm cổ phần hoá, chính phủ đã có sự
nghiên cứu và sửa đổi nội dung mục tiêu cổ phần hoá cho phù hợp với điều
kiện kinh tế đất nước và xu thế biến đổi chung của thị trường. Theo nghị định
44 CP ngày 29/6/1998 thì mục tiêu cổ phần hoá được rút gọn từ ba mục tiêu
xuống còn hai nhưng nội dung chính vẫn được giữ nguyên. Cụ thể:
2

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục tiêu 1: Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm các cá nhân, các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo
thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ
cấu DNNN.
Mục tiêu 2: Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần
và những người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý
tạo động lực thúc đẩy cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản
Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh
tế đất nước.
Như vậy có thể thấy so với các nước đã và đang tiến hành cổ phần hoá
trên thế giới, ở nước ta chủ trương cổ phần hoá DNNN lại xuất phát từ đường
lối kinh tế và đặc điểm KT – XH trong giai đoạn hiện nay: Chúng ta đang bố
trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lí cho phù hợp với nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước. Đó là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích, nội dung và
phương thức cổ phần hoá DNNN. Vì vậy thực chất cổ phần hoá ở nước ta là
nhằm sắp xếp lại DNNN cho hợp lí và hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu
của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện
quan trọng để thực hiện mục đích trên.
II. Nội dung cổ phần hoá :
Với mục tiêu như trên, tiến trình cổ phần hoá đã dành được quan tâm
đặc biệt của Đảng, Chính phủ và các ban nghành, chính quyền địa phương.
Tong suốt gần 22 năm thực hiện nhiều văn bản pháp quy, quy định chi tiết
nội dung cổ phần hoá DNNN đã được ban hành nhằm đưa công tác cổ phần
hoá phù hợp với từng giai đoạn. Đặc biệt nghị định HH/CP ( 29/6/1998 ) và
nghị định 64/2002/NĐ – CP ( 19/6/2002 ) của Chính phủ quy định chi tiết
nội dung cổ phần hoá bao gồm: Đối tượng cổ phần hoá, hình thức cổ phần
hoá, xác định giá trị doanh nghiệp, đối tượng mua cổ phần và phân tích đánh
giá thực trạng doanh nghiệp.

a. Về đối tượng cổ phần hoá :
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh và
điều kiện kinh tế nước ta. Đối tượng thực hiện cổ phần hoá là những DNNN
hội tụ đủ 3 điều kiện:
- Có quy mô vừa và nhỏ
- Không thuộc diện nhà nước giữ 100% vốn đầu tư
- Có phương án kinh doanh hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn
nhưng triển vọng tốt.
Trong 3 điều kiện này, điều kiện thứ 2 ( DN không thuộc diện nhà nước
giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, là đòn bẩy kinh
tế, đảm bảo cho nền kinh tế hát triển ổn định, theo đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa.
b. Về lựa chọn hình thức tiến hành :
Theo quy định thì có 4 hình thức cổ phần hoá, ban cổ phần hoá sẽ lựa
chọn một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của người lao động. Các
hình thức đó là :
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
- Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn.
c. Trên cơ sở đã lựa chọn hình thức cổ phần hoá, khâu tiếp theo đó là
xác định giá trị doanh nghiệp :
Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian, công sức
nhất trong quá trình cổ phần hóa. Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh
nghiệp được đưa ra đó là :
- Giá trị thực tế là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời

điểm cổ phần hóa mà người mua người bán cổ phần đều chấp nhận
được.Người mua và người bán cổ phần sẽ thoả thuận theo nguyên tắc tự
nguyện, đôi bên cùng có lợi. Tại các nước có nền kinh tế phát triển, thoả
thuận này diễn ra trên thị trường chứng khoán, còn ở nước ta thoả thuận có
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể diễn ra thông qua các công ty môi giới, kiểm toán (đã diễn ra trên thị
trường chứng khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác định được giá trị
thực tế của doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ là
phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả và số dư
quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.
- Căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ
sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá và giá trị thực tế của
tài sản tại doanh nghiệp được xác dịnh trên cơ sơ hiện trạng về số lượng, chất
lượng, tính năng kĩ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại
thời điểm cổ phần hóa. Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh, tính chất
độc quyền về sản phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp.
Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo tính khách quan trong việc xác
định giá trị doanh nghiệp.Thực tế việc cổ phần hoá các doanh nghiệp cho thấy
rằng các doanh nghiệp dăng kí cổ phần hoá thường có xu hướng định thấp giá
trị doanh nghiệp, thông qua việc khai báo không chính xác như khai thấp giá
trị tài sản cố định của doanh nghiệp, khai không đúng lượng vốn … Từ đó
ảnh hưởng tiêu cực đến việc xác định giá trị doanh nghiệp và gây thiệt hại cho
nhà nước. Ngược lại hiện tượng cơ quan kiểm toán định giá cao hơn giá trị
thực của doanh nghiệp lại có thể làm thiệt hại cho người mua cổ phần.
d. Xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần :
Các đối tượng được phép mua cổ phần: Đó là các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư ở Việt Nam trong
đó cán bộ công nhân viên tại các DNNN là đối tượng được ưu tiên mua cổ
phần.

Về số lượng cổ phần được mua có quy định như sau :
- Loại doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt: một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không
quá 5% tổng số cổ phần doanh nghiệp.
- Loại doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ
phần đặc biệt: một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân không
được mua quá 10% tổng số cổ phần doanh nghiệp.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Loại doanh nghiệp mà nhà nước không tham gia cổ phần: không hạn
chế số lượng cổ phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng
phải đảm bảo số cổ đông tối thiểu theo đúng quy định của luật doanh nghiệp.
Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như mức mua
cổ phần, tuy nhiên nghị định HH/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích
việc mua cổ phần. Cụ thể là mọi người mua cổ phần sẽ được vay một cổ
phiếu khi mua một cổ phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động, họ sẽ được
nhà nước bán cổ phần với mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối
tượng khác. Mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần.
Đối với người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc
được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoãn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm
đầu mà vẫn được hưởng lợi tức. Số tiền này sẽ trả dần trong 10 năm không
phải trả lãi.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ - NHỮNG KẾT
QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN CẦN THÁO GỠ
I. Tiến trình cổ phần hoá trong những năm qua :
1. Giai đoạn thí điểm ( 1992 – 5/1996 )
- Ngày 08/06/1992, chủ tịch HĐBT đã ra quyết định 202/CT cho phép
lựa chọn và triển khai thí điểm cổ phần hoá ở một số DNNN. Mốc quan trọng

này mở ra một hướng đi mới cho việc cải cách DNNN ở Việt Nam.
- Ngày 04/03/1993, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị 84/TTg về việc xúc
tiến cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối
với các DNNN.
+ Về mục tiêu của giai đoạn này là thí điểm cổ phần hoá để từ đó rút ra
kinh nghiệm và mở rộng việc cổ phần hoá sau này.
+ Về đối tượng cổ phần hoá ở giai đoạn này là các DNNN kinh doanh
trong các nghành thông dụng, không có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế
quốc dân ( như dịch vụ và công nghiệp ).
Trong giai đoạn này, Nhà nước áp dụng hình thức chuyển một phần sở
hữu Nhà nước dưới dạng bán cổ phần DNNN sang sở hữu tư nhân. Sau khi cổ
phần hoá, DNNN chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Đối với công nhân
viên chức trong doanh nghiệp, người lao động được mua cổ phiếu trả chậm
với thời gian không quá 12 tháng.
Ở giai đoạn thí điểm này, các bộ, nghành địa phương đã hướng dẫn
DNNN đăng kí thực hiện cổ phần hoá. Trên cơ sở số lượng DNNN dăng kí,
chủ tịch HĐBT ( nay là Thủ tướng chính phủ ) đã ra quyết định số 203/CT thí
điểm chọn 7 DNNN do HĐBT chỉ đạo trực tiếp.
Tuy nhiên trong 4 năm mới thực hiện cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp,
bao gồm 3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa phương. Tất cả
các doanh nghiệp cổ phần đều có quy mô nhỏ và có lợi thế nhất định trong
hoạt động kinh doanh. Trong giai đoạn này, Việt Nam chưa bán cổ phần cho
thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.
7

×