Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.83 KB, 108 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ THÙY LINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ VƯƠNG TRỌNG
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.01.21
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN VĂN HẠNH
NGHỆ AN, 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Cấu trúc luận văn 11
Chương 1: CON ĐƯỜNG THƠ VƯƠNG TRỌNG 13
1.1. Vài nét về cuộc đời và con người Vương Trọng 13
1.1.1. Về cuộc đời 13
1.1.2. Những phẩm cách cá nhân 14
1.2. Đường thơ Vương Trọng 17
1.2.1. Quan niệm thơ Vương Trọng 17
1.2.2. Các chặng đường thơ 21
1.3. Hai cảm cảm hứng chủ đạo trong thơ Vương Trọng 25
1.3.1. Cảm hứng sử thi 25
1.3.2. Cảm hứng thế sự – dòng mạch chính trong thơ Vương Trọng 30
Chương 2: CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ VƯƠNG TRỌNG
NHÌN TỪ ĐỀ TÀI VÀ GIỌNG ĐIỆU 35


2.1. Cơ sở cho sự xuất hiện cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng 35
2.1.1. Những đổi thay của đất nước sau chiến tranh 35
2.1.2. Yêu cầu đổi mới tư duy nghệ thuật 37
2.1.3. Sự nhạy cảm, tinh tế, nhiều suy tư của một hồn thơ 41
2.2. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng - nhìn từ đề tài 43
2.2.1. Chiến tranh từ góc nhìn thế sự 43
2.2.2. Những nghịch cảnh trong cuộc sống đời thường 50
2.2.3. Đối thoại với những nhân vật văn chương 55
2.2.4. Về những miền quê đã đi qua 59
2.3. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng - nhìn từ giọng điệu 62
2.3.1. Giọng khắc khoải, u hoài 63
2.3.2. Giọng xót xa thương cảm 65
2.3.3. Giọng chiêm nghiệm suy tư 66
2.3.4. Giọng hài hước hóm hỉnh 68
Chương 3: CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ VƯƠNG TRỌNG
NHÌN TỪ HÌNH THỨC THỂ HIỆN 72
3.1. Lựa chọn hình thức thơ linh hoạt 72
3.1.1. Thể thơ tự do 72
3.1.2.Thể thơ lục bát 77
3.2. Xu hướng tự sự hóa trữ tình 82
3.2.1. Kết cấu bài thơ theo “tính chuyện” 82
3.2.2. Mở rộng trường liên tưởng, so sánh trong kiến tạo câu thơ 84
3.3. Ngôn ngữ thơ 87
3.3.1. Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh 87
3.3.2. Sử dụng ngôn ngữ đời thường 91
3.3.3. Sử dụng ngôn ngữ mang tính biểu tượng 94
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Vương Trọng thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ. Với hơn 40 năm
cầm bút, ông đã có một gia tài phong phú ở nhiều thể loại. Trong đó, thơ là
thể loại thành công nhất. Nhiều giải thưởng Văn học, đặc biệt giải thưởng
Nhà nước về Văn học nghệ thuật trao cho Vương Trọng là sự thừa nhận tài
năng, đóng góp của ông cho văn học dân tộc. Tuy nhiên đến nay, nghiên cứu
thơ Vương Trọng chưa có nhiều thành tựu, hầu hết mới dừng lại ở những bài
viết ngắn, nhỏ lẻ. Nghiên cứu thơ Vương Trọng, vì vậy không chỉ để hiểu tài
năng, cá tính sáng tạo của một nhà thơ, mà còn góp phần để hiểu hơn về một
thế hệ nhà thơ tài năng và những đóng góp của họ cho thơ ca dân tộc.
1.2. Thơ Vương Trọng gắn liền với lịch sử và đời sống dân tộc trong gần
bốn thập kỷ qua. Những vấn đề về chiến tranh, về cuộc sống con người, nhân
tình thế thái đã đi vào thơ ông một cách giản dị, tự nhiên, với nhiều suy tư
chiêm nghiệm. Mảng thơ viết về thế sự được xem là mảng thành công nhất trong
thơ Vương Trọng. Ở đó, ông đã thể hiện một cái tâm, cái tài rất riêng của mình.
Tìm hiểu Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng, vì vậy có ý nghĩa như một
sự khởi đầu để tìm hiểu tài năng, cá tính sáng tạo của nhà thơ.
2. Lịch sử vấn đề
Vương Trọng xuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ cuối thập niên 70 của
thế kỷ trước. Ngay từ những bài thơ đầu tiên, Vương Trọng đã thu hút sự chú
ý của giới nghiên cứu phê bình văn học và công chúng yêu thơ, nhất là từ sau
khi ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Kể từ đó đến
nay, đã có nhiều bài giới thiệu, nghiên cứu về thơ Vương Trọng. Dựa vào
nguồn tư liệu bao quát được và trong phạm vi quan tâm của đề tài, chúng tôi
điểm lại một số vấn đề cơ bản.
1
Trong bài viết Đọc tuyển tập thơ Vương trọng, lời bạt cho Tuyển tập
Ngoảnh lại, ( Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001), Trần Đăng Khoa đã có một cái
nhìn khái quát về thơ Vương Trọng. Theo ông, “Từ những năm chiến tranh,
chúng ta đã có một nhà thơ quân đội Vương Trọng. Ở mảng thơ trận mạc này,
Vương Trọng có nhiều bài thơ chân thực nói về nỗi gian nan, vất vả của

người lính Trường Sơn, hay sau này là những người lính lặng lẽ chiến đấu ở
Tà Sanh Căm Pu Chia, ở những cánh rừng của nước bạn Lào, rồi những người
lính biên cương, hải đảo. Bằng mảng thơ này, Vương Trọng đã hoà mình vào
đội ngũ của những nhà thơ khoác áo lính” [ 35 ]. Từ sau thời kì đổi mới,
Vương Trọng đã tìm đúng "mỏ quặng" dồi dào cho chính bản thân mình
khai thác. Ông xoáy sâu hơn vào những vỉa tầng của xã hội qua những số
phận, tính cách và tầng lớp người. Sự thông minh của ông càng làm cho "con
chữ của ông không nhạt" và sự lô gic trong từng câu chữ nhờ kiểu tư duy toán
học. Từ cách nhìn ấy, Trần Đăng Khoa viết: "Với tuyển tập thơ Vương Trọng
đã cho thấy một bút lực vạm vỡ, phong phú trên nhiều mảng đề tài. Hầu như
ở mảng nào Vương Trọng cũng có thơ hay". Bên cạnh việc chú trọng đến nội
dung chuyển tải, Vương Trọng cũng chú ý đến hình thức thể hiện. Thơ ông
"viết theo lối cổ điển, truyền thống với cấu trúc chặt chẽ, vần điệu chỉn chu"
vì thế ông có một lối thơ rất dễ đọc và dễ nhớ. "Tuyển tập này cho ta một cái
nhìn tương đối đầy đủ về một đời thơ của một thi sĩ có tài trong nền thi ca
hiện đại"[ 35 ].
Tháng 3/ 2002, trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, Nguyễn Bùi Vợi đăng
bài viết Ngoảnh lại – tuyển tập thơ chất lượng giới thiệu về thơ Vương Trọng.
Theo ông: “Con đường thơ Vương Trọng là con đường chính thống: thơ phục
vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ chiến đấu và sản xuất. Những bài thơ như thế
chưa in đã được dán nhãn an toàn”. Lý giải cho điều này, ông đã đi từ đặc
điểm con người, tính cách Vương Trọng, một con người mà theo ông là
"không bao giờ bằng lòng với sự bảo lãnh an toàn trong thơ mình, Vương
2
Trọng ngẫm nghĩ việc đời, thu nhận thực tế và tìm cách lí giải, đánh giá lật
ngược, lật xuôi vấn đề" [ 74 ]. Hành trình thơ Vương Trọng là hành trình của
trải nghiệm qua các bước chân và hành trình thực tế trong sáng tác, vì thế thơ
ông thấm đẫm sắc màu hiện thực. Sự thành công trong thơ Vương Trọng "bắt
nguồn từ tài năng và lao động thơ miệt mài của anh trong đất đỏ màu mỡ của
vườn ươm quân đội" [ 76 ].

Vũ Quần Phương trong lời tựa cho tập thơ Vương Trọng – Thơ với tuổi
thơ ( Nxb Kim Đồng, 2002 ), đã đưa ra những cảm nhận tinh tế, sâu sắc về
hồn thơ Vương Trọng. Ông viết: “Vương Trọng tìm chất thơ trong đời thường
khi vui hóm, khi bâng khuâng cả tâm trí nhưng bao giờ cũng thành thật, nó là
chất thơ vốn có trong đời, không đắp điếm, không ngụy tạo, càng không điệu
bộ ngôn từ. Thơ ấy tạo ra những dư luận bùng nổ, nhưng lại có sức thấm,
cũng lặng lẽ xuống lòng người. Sở hữu một bút pháp kiểu ấy không dễ đâu,
không gan không làm được. Ông như người đào giếng vùng đồi, chưa tới
mạch ngầm là giếng không có nước, bài thơ không thành thơ, không thể lấy
nước bề mặt mà làm ra lênh láng như thợ giếng vùng xuôi”[58]. Cũng theo
Vũ Quần Phương, hồn thơ Vương Trọng nhạy bén với tất cả những gì diễn ra
trong cuộc sống, ngôn ngữ thơ ngắn gọn súc tích, không văn hoa, mĩ miều.
Điều đó được xuất phát từ một tâm hồn nhạy cảm, một trí tuệ thông minh.
Trong bài Những Trái tim đồng vọng, in trên Văn nghệ quân đội, (3/
2003), Võ Văn Trực đã có những phân tích, lý giải khá thấu đáo về con đường
thơ Vương Trọng. Cũng như những nhà thơ cùng thế hệ, Vương Trọng đến với
thơ như một lẽ tự nhiên, một sự giải bày cảm xúc trước những vấn đề đang
diễn ra trong hiện thực chiến tranh. Theo Võ Văn Trực, hồn thơ Vương Trọng
trải dài trên những chặng đường ông qua, từ những cảm thương phận "bạc" của
các vĩ nhân, đến cái hoang sơ điêu tàn nơi mười cô gái đã ngã xuống vì lịch sử
cho đến những mảnh đời, số kiếp không may mắn trong chính xã hội đầy nhiễu
nhương, Cái chất suy tư, trằn trọc về thế sự lại là cơ sở cho sự lần tìm về quá
3
khứ, về các bậc tiền nhân, đó như một quy luật của tâm lí. Thơ thế sự là địa hạt
không phải là mới và cũng là đề tài được các nhà thơ, nhà văn quan tâm đi sâu
khai thác mỗi người một góc cạnh nhưng cái nổi trội và biệt lập của Vương
Trọng là ở chỗ "với trách nhiệm của người cầm bút ông tỏ ra có chừng mực" và
để lại những bài thơ gây ấn tượng cho độc giả [ 73 ].
Có cùng cách nhìn ấy, nhưng có phần cụ thể và bao quát hơn, Nguyễn
Thanh Tú trong bài viết Những nghịch cảnh thế sự trong thơ Vương Trọng,

đã khái quát một cách ngắn gọn, súc tích
những nghịch cảnh thế sự diễn ra trong thơ Vương Trọng, đó là nghịch cảnh
của những “vĩ nhân” như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ; nghịch cảnh những
người thân như người mẹ, người chị; nghịch cảnh huyền thoại như nàng Tô
Thị, chàng Trương Chi; cuối cùng là những nghịch cảnh thế sự đời thường.
Ông viết: “Thơ Vương Trọng là thơ về những nghịch cảnh thế sự. Những bài
thơ hay nhất của anh, theo tôi là những bài thơ viết về nghịch cảnh những số
phận, những cảnh đời. Vì thế mà mỗi bài thơ lại mang dáng dấp một câu
chuyện có nhân vật, có tình tiết. Thơ anh là thứ thơ gợi nhiều hơn tả. Bài thơ
đọc xong không trơn tuột mà để lại dư âm trong lòng, thường là nỗi day dứt
hay sự băn khoăn về một câu chuyện trái ngang nào đó”. Suy cho cùng, tất cả
xuất phát từ tấm lòng nhân hậu , biết quan tâm, chia sẻ, biết đau nỗi đau của
những người có cảnh ngộ éo le nên ông như đã hóa thân vào nhân vật để nói
lên nỗi niềm từ tận sâu trong đáy lòng nhân vât. Vì vậy, thơ ông mới để lại sự
day dứt xót xa, ý thức trách nhiệm với cuộc đời và dấu ấn sâu sắc trong lòng
người đọc. Dương Thị Hường trong bài viết Thân phận con người sau chiến
tranh trong thơ Vương Trọng, ĐH KH Xã Hội và Nhân văn, 2004, đã có những
cảm nhận khá thấu đáo về thơ Vương Trọng trên cả hai phương diện nội dung
tư tưởng và phương thức biểu hiện. Tác giả viết: “Có một điều quan trọng
trong quan niệm sáng tác của Vương Trọng là hình tượng thơ có sức khái quát
cao. Nhà thơ nói về con người cụ thể như mẹ, chị dâu, con dâu…mà người đọc
4
ai cũng đồng cảm bởi họ thấy những hình tượng đó có gì rất giống với những
người thân của họ”. Điều này xuất phát từ chính tài năng thơ ca thiên bẩm và từ
tư duy lôgic của toán học. Tất cả đã cộng hưởng với nhau tạo nên sự mạch lạc
và khả năng bao quát lớn trong ngôn từ cũng như hình ảnh thơ. Thông thường,
người viết khi đi từ cái khái quát đến cái cụ thể thì dễ hơn là từ những vấn đề
cụ thể mà khái quát lên được cả một vấn đề rộng lớn. Và Vương Trọng là
người đã làm được điều này, ông viết về những cái rất nhỏ nhặt, đời thường
nhưng khả năng bao quát rộng lớn, chỉ là hình ảnh một ai đó thôi, nhưng người

đọc có thể thấy hình ảnh mình hay người thân mình trong đó”. Cũng theo
hướng đi sâu phân tích, cắt nghĩa sức hấp dẫn của thơ Vương Trọng, Trần Thị
Thu Hường trong: Những tìm tòi đổi mới của Vương Trọng sau 1975, ĐH KH
Xã Hội và Nhân văn, 2005, đã bộc bạch những cảm nhận đầy chất văn và thâu
tóm được hồn thơ Vương Trọng như sau: “Thơ Vương Trọng giống như những
tâm tình mà chúng ta dành cho nhau trong cuộc sống đời thường. Nó mộc mạc,
giản dị mà sâu lắng đến nỗi đôi khi tôi không nghĩ đó là thơ- lãnh địa mà lâu
nay vẫn được xem là nơi ngự trị của trí tưởng tượng và một chút phiêu diêu
khó nắm bắt. Tôi cảm thấy gần gũi tựu như những gì Vương Trọng đã sống,
trải nghiệm giờ muốn chia sẻ với mọi người. Đó là thơ - một lối thơ không chỉ
để cảm mà còn để hiểu, không chỉ để hiểu mà còn để sống. Tôi yêu thơ Vương
Trọng vì thế”. Điều này bắt nguồn từ chính phẩm cách con người ông, một con
người điềm tĩnh, nhân hậu, ý thức công dân cao cùng với việc ông là người “đi
nhiều”, sống chan hòa gần gũi với những người xung quanh, từ đó ông cảm
nhận và quan sát những gì đang diễn ra và chép lại. Thơ ông có những điều
bình thường đến nỗi “tưởng chừng như không thành thơ được” nhưng qua ngời
bút của ông tất cả đều trở nên có ý nghĩa. Nguyễn Trường Văn trong bài viết
Vương Trọng và những vần thơ chuyển tải nỗi lòng, , (9/
2014), nhận xét: “Thơ Vương Trọng thường hướng đến người thực việc thực,
đến những vấn đề cụ thể. Nó nặng về cấu tứ, ít tung tẩy, biến hóa trong cách
5
diễn đạt. Bởi vậy, đọc Vương Trọng ta có cảm nhận đó là một tiếng thơ
nghiêng về sự thông minh hơn là… tài hoa”. Vốn là một con người thông
minh, khả năng liên tưởng nhanh nhạy, hài hước, dí dỏm, đặc biệt, ông là một
người giàu năng lực đồng cảm, chia sẻ vì thế khi đọc thơ của ông, hiện lên
trước mắt độc giả những "cuộc đời, tâm trạng và số phận". Thơ hay trước hết
phải hay ở ý, ở tứ và ngôn ngữ chỉ là phương tiện "giúp tác giả chuyển tải
những suy nghĩ, tình cảm", nó được ví như một "chiếc xe mà cấu trúc câu thơ
như thể con đường. Xe càng chắc chắn bao nhiêu, đường càng bớt gồ ghề
quanh co bao nhiêu, thì những suy nghĩ, tình cảm của tác giả càng được chuyển

tải đến độc giả nhanh bấy nhiêu". Vì thế, đọc thơ Vương Trọng, ta luôn bắt gặp
những kiểu kết hợp từ rất giản dị, những hình ảnh gần gũi không khuếch
trương, phóng đại, cũng không có kiểu "cách tân thơ" để lòe người đọc, cấu
trúc ổn định, hiếm có những cấu trúc câu "đột biến, và có ý tưởng mù mờ,
không rõ nghĩa".
Bên cạnh những bài nghiên cứu theo hướng khám phá dấu ấn phong
cách thơ còn có khá nhiều bài viết bàn về lối sống, con người nhà thơ và cảm
nhận về những bài thơ được xem là độc đáo của Vương Trọng. Xuân Hải trong
bài viết Nhà thơ Vương Trọng: Thơ sinh ra cốt để chuyển tải nỗi
lòng,:, (5/ 2008), đã có những ấn tượng mạnh về con
người Vương Trọng. Ông viết: “Tuổi đã ngoại lục tuần nhưng ông còn rất
phong độ. Da trắng, tóc bồng bềnh, nụ cười hiền mà ý vị, dáng vẻ một thầy đồ
hơn là một đại tá quân đội.” Ông là một người có lòng yêu quê hương tha thiết,
là người có tấm lòng chung và mong muốn đóng góp ý kiến của mình vào công
cuộc cải tạo xã hội. Ông từng nói: “tôi luôn nghĩ về trách nhiệm công dân của
nhà thơ vì thế luôn muốn cho thơ mình có ích. Một bài thơ hay để cho người
đời ngẫm ngợi cũng là có ích, nhưng nếu ý tưởng trong bài thơ làm thay đổi
được những sự bất hợp lý của cuộc đời thì thơ càng có ích hơn”. Lý giải cho sự
nổi trội của chất trí tuệ, suy tư trong thơ Vương Trọng, Quỳnh Lâm trong bài
6
Nhà thơ Vương Trọng – Thổn thức nhịp quê, ,
(9/2014), viết: “Vương Trọng thi đậu đại học Tổng hợp Hà Nội, khoa toán.
Chính tư duy toán học đã giúp ông có được khả năng khá nổi trội về mặt diễn
thuyết với cách nói rành mạch, bố cục rõ ràng khúc chiết. Song thơ ca như đã
ngấm vào trong máu, Vương Trọng mặc dù không chọn nó nhưng có thể nó đã
chọn ông, hay điều gì đấy như là “trời định” vậy”. Sinh ra vốn mang trong
mình chất tư duy toán học nhưng cái nghiệp văn chương quấn lấy ông như một
cái nợ "tiền định", như một sự hợp tác "cơ duyên" của đất trời đã đưa ông đến
với nhân duyên một nhà thơ chuyên nghiệp. Chính cái tư duy toán học đã ảnh
hưởng sâu sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông và "khả năng nổi trội về mặt

diễn thuyết với cách nói rành mạch, bố cục rõ ràng, khúc chiết". Thơ gắn với
nỗi lòng, thơ đi ra từ chính trái tim vì thế thơ ông như chính con người ông vậy
"vừa mạch lạc khúc chiết vừa đằm thắm sâu sắc, vừa hóm hỉnh dí dỏm, vừa
lắng đọng thiết tha". Phan Quế sau khi đọc bài thơ Nhớ mẹ và nghe Vương
Trọng tâm sự về mẹ của mình cũng những tình cảm ông dành cho người mẹ
kính yêu, đã có sự đồng cảm sâu sắc. Trong bài viết Nhà thơ Vương Trọng với
bài thơ Nhớ mẹ, , ( 3/2009), Phan Quế viết: “Nhà thơ
Vương Trọng đã cho tôi sự đồng cảm hiếu đễ khi đọc bài Khóc mẹ giữa chiêm
bao của ông. Bài thơ về nước mắt nhưng thấm đẫm nghĩa tình. Giọt nước mắt
ấy không thể làm chúng ta mộng mị mà chỉ có khắc sâu thêm nỗi thương nhớ
mẹ một đời vất vả nuôi ta để được sống tốt hơn như những điều mẹ mong
muốn”. Đối với mẹ, con luôn là điều tuyệt vời nhất, đối với con mẹ như là biển
cả mênh mông. Vì thế, không phải chỉ đến Vương Trọng, trong lịch sử văn học,
đã nhiều nhà thơ viết và có những trang thơ hay về mẹ như Tố Hữu, Nguyễn
Khoa Điềm, Chế Lan Viên…Và hẳn rằng không chỉ Phan Quế mà tất cả chúng
ta, những người con, ai cũng có tình cảm yêu mến và trân trọng người mẹ của
mình. Do đó, khi đọc bài thơ ắt hẳn sự đồng cảm sẽ lan tỏa đến cộng đồng trên
một diện rộng. Bàn về trường ca Hà Nội của tôi của Vương Trọng, Bích
7
Hường trong bài viết Nhà thơ Vương Trọng và “Hà Nội của tôi”,
, nhận xét: “ Trường ca Hà Nội của tôi đã khái quát
một thời kỳ lịch sử từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở thủ đô
(1946) cho đến lúc kết thúc chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” của thời kỳ
chống Mỹ. Hai mươi bảy năm so với hàng ngàn năm của lịch sử Thăng Long –
Hà Nội thì quả là ngắn ngủi, nhưng đây lại là những năm tháng của một thời kỳ
lịch sử đầy đau thương nhưng rất dỗi anh hùng”. Viết về Hà Nội, tác giả viết
bằng chính lòng yêu bao la và muốn nhắc đến cái kí ức về một thời "oai hùng
nhưng cũng nhiều nước mắt của thủ đô, thành phố vì hòa bình". Với Hà Nội
của tôi, tác giả đã khái quát được cả chặng đường dài lịch sử Hà Nội, trải qua
bao khó khăn gian khổ chiến đấu vì nền độc lập, Hà Nội vẫn luôn đẹp, gần gũi

và cũng rất oai hùng, con người Hà Thành không chỉ có ở vẻ đẹp thanh lịch mà
còn đẹp ở cả tâm hồn. Chính vì yêu cuộc sống thanh bình mà các cảm tử quân
đã phải "dạng chân ngồi lau bom ba càng", "cầm chắc hi sinh sau khi bom nổ
nhưng vẫn ngời lên nét mặt lạc quan vì sự bình yên của thủ đô, vì nền văn hóa
nước nhà. Cũng đi vào một bài thơ cụ thể, từ đó cảm nhận về tài năng, phong
cách một hồn thơ, Phạm Tuấn Vũ trong bài Bài thơ “Chị dâu” của Vương
Trọng, , đã có những cảm nhận tinh tế, sâu sắc về bài thơ.
Theo ông, cái làm nên sức hấp dẫn của bài thơ trước hết là sự giản dị. Giản dị
trong cấu tứ, qua cách diễn tả cảm xúc chân thành của nhà thơ đối với người
chị dâu của mình. Ông viết: “Từ đầu bài thơ, nhân vật trữ tình em chỉ đứng ra
kể và tả, đến đây mới trực tiếp dãi bày cảm xúc thương lắm chị dâu và cầu cho
hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về! Đó là sự diễn tiến cảm xúc hợp lôgic.
Hình bóng chị dâu tần tảo, chịu biết bao khó nhọc vì gia đình chồng, trong đó
có cả nhân vật đang hồi tưởng, khiến không chỉ người trong cuộc mà cả người
đọc cũng xót xa thương cảm”. Có cùng cách nhìn ấy, Văn Khoa trong bài Hai
chị em của Vương Trọng, www.phunudanang.org.vn, đã phân tích, lí giải cái
hay của bài thơ một cách cặn kẽ. Ông viết: “Cái thâm hậu của “Hai chị em” là
8
ở phía sau câu chuyện tưởng như rất đời thường, nhưng không ai mong ước.
Càng đọc bài thơ ta càng nhận ra cái sự bẽ bàng, xót đắng của việc “xẻ ngang
tình đoàn tụ” – mà thủ phạm chính là những bậc làm cha, làm mẹ.” Với Vương
Trọng, việc sử dụng tiếng khóc con trẻ trong bài thơ nhằm tăng thêm tính "tình
thân" trong mỗi con người, nhằm "đánh thức lương tâm và trách nhiệm của các
bậc cha mẹ đối với con cái". Xuất phát từ một người lính trong chiến trường,
tay cầm chắc cây súng bảo vệ biên cương ít ai hiểu được những suy tư đời
thường đến vậy. Vậy mà, với Vương Trọng những suy tư về người lính, về
chiến trường, về đồng đội dường như không còn chỗ mà thay vào đó là tiếng
khóc trẻ con, tình đời, tình người, rồi những cảnh đời, những số phận bất hạnh
kém may mắn. Tiếng khóc con trẻ xuất hiện trong thơ ông chính là "điềm báo
nỗi bất hạnh lớn lao" mà Văn Khoa đã viết: "Phải chăng hồn thơ người lính

Vương Trọng muốn phát tín hiệu" với mọi người rằng: "Nỗi đau này không của
riêng ai?". Đó mới chính là chất thơ Vương Trọng, len lỏi trong mọi vỉa tầng
của xã hội hiện đại.
Vũ Bình Lục trong bài viết Sợi tóc hai màu của Vương Trọng,
, (6/ 2010), sau những phân tích, lý giải bài thơ, tác giả
nhận xét: “Vương Trọng có điệu thơ riêng, không ồn ào to tát mà đằm thắm
nhân tình, giàu chất suy tư chiêm nghiệm”. Đúng vậy, với Vương Trọng, sau
những tháng ngày trải nghiệm, hiện thực cuộc sống va đập vào tầng sâu ý
thức cộng hưởng với lối tư duy lôgic mà toán học đưa lại, thơ của ông càng
thêm tĩnh lặng đối diện với đời làm tăng thêm tính triết luận cho những câu
thơ, bài thơ. Giữa hai miền "thực và ảo cùng với xôn xao bồng bềnh những
suy tư về cái hữu hạn mỏng manh bất lực trước biển trời số phận con người"
càng gợi lên nỗi buồn thẳm sâu trong chính bản thân tác giả. Phạm Hoài An
trong lời bình bài thơ Với đứa con ngoài giá thú,www.baobinhdinh.com,
viết: “Vương Trọng viết chân thực như anh đang kể lại câu chuyện của
“người trong cuộc”. Sự đồng cảm ấy đã mang đến cho người đọc một ấn
9
tượng đẹp về bài thơ", "đẹp về tình mẫu tử". Là con người có tấm lòng bao
dung cao cả, đau nỗi đau chung của con người, khóc tiếng khóc của đồng loại,
Vương Trọng không thể làm ngơ trước cảnh tượng Ngoài giá thú, sao ngoài
lòng thương cảm/ Để người đời ghét bỏ mẹ con tôi. Tác giả đồng cảm với cái
bản năng khao khát được làm mẹ dù cho chưa từng được làm vợ bao giờ. Ca
ngợi tình thương của người mẹ, cảm thấu nỗi lòng người mẹ, Vương Trọng
không khỏi bàng hoàng trước cảnh tượng mẹ ngồi dậy vuốt ve con khi đêm đã
khuya, phòng lặng ngắt, thèm trái chua mẹ phải trùm kín chăn khỏi "mắt đời"
nhìn thấy Chính những điều đó càng làm tăng tình mẫu tử trong bài thơ và
thẩm thấu được nỗi lòng người mẹ, nỗi lòng tác giả. Trần Xuân Toàn trong lời
bình bài thơ Về thôi nàng Vọng Phu, đã viết:
"Chuyện nàng Vọng Phu cuối cùng vẫn là chuyện về khát vọng muôn đời hòa
bình, xua bóng chiến tranh "để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ

mong", là sự trân trọng và tin tưởng ở phẩm giá của con người - mà người
phụ nữ Việt Nam là tiêu biểu. Phải chăng đó là ý nghĩa nhân văn sâu xa, là
minh triết và tình thương của dân tộc trong một câu chuyện cổ, là tâm thức
của con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, mong muốn hạnh phúc". Quả
thật, chuyện nàng Vọng phu đã ăn thấm vào tâm thức của bao lớp người, là
cảm hứng cho bao thi sĩ, nhạc sĩ, là niềm cảm phục trước vẻ đẹp thủy chung,
son sắt của người vợ chờ chồng ra trận. Đây là đức tính cần thiết cho mọi
thời, mọi người. Về thôi nàng Vọng phu, tác giả nhằm ca ngợi vẻ đẹp đôn hậu
thủy chung của người phụ nữ, đồng thời nói lên tiếng nói khát vọng hòa bình
và mong muốn sống hạnh phúc của dân tộc ta.
Nhìn lại quá trình nghiên cứu, phê bình thơ Vương Trọng, có thể thấy,
hầu hết các bài viết mới dừng lại ở việc cảm nhận, phê bình. Điểm gặp gỡ dễ
nhận thấy là các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao tài năng, cá tính sáng tạo của
Vương Trọng trong mảng thơ thế sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công
trình nào nghiên cứu quy mô về cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng.
10
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Như tên đề tài đã xác định, mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra
những đặc điểm nổi bật của cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng trên hai
phương diện nội dung và nghệ thuật.
3.2. Với mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ:
Thứ nhất, chỉ ra được con đường thơ Vương Trọng.
Thứ hai, chỉ ra được những biểu hiện của cảm hứng thế sự trên phương
diện nội dung trong thơ Vương Trọng.
Thứ ba, chỉ ra được những biểu hiện của cảm hứng thế sự trên phương
diện nghệ thuật thể hiện trong thơ Vương Trọng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thế giới nghệ thuật thơ viết về
thế sự của Vương Trọng.
4.2. Phạm vi khảo sát của đề tài Tuyển tập thơ Vương Trọng, Nhà xuất

bản Hội nhà văn, 2011.
Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát thêm một số tập thơ của Vương Trọng
như: Về thôi Nàng Vọng Phu; Đảo chìm; Ngoảnh lại và sáng tác của một số
nhà thơ khác trong thơ Việt Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một
số phương pháp sau:
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống
- Phương pháp thống kê - phân loại
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Con đường thơ Vương Trọng
11
Chương 2. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng nhìn từ đề tài,
giọng điệu
Chương 3. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng nhìn từ hình thức
thể hiện
12
Chương 1
CON ĐƯỜNG THƠ VƯƠNG TRỌNG
1.1. Vài nét về cuộc đời và con người Vương Trọng
1.1.1. Về cuộc đời
Vương Trọng tên thật là Vương Đình Trọng, sinh ngày 01/08/1943, ở
làng Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Đây là một
vùng quê nghèo có truyền thống hiếu học, yêu văn chương. Trong kháng
chiến chống pháp, làng Đông Bích được chọn làm nơi đặt trụ sở của Hội Văn
nghệ cứu quốc Liên khu bốn. Nhiều nhà văn nổi tiếng bấy giờ như Thanh
Tịnh, Hoài Thanh, Chế Lan Viên… đã từng về đây đọc và bình thơ. Trong trí

nhớ Vương Trọng, ngày ấy các văn nghệ sỹ dựng sân khấu trên những ruộng
mạ đầu làng để tổ chức đọc thơ, bình thơ. Đó chính là một trong những mạch
nguồn nuôi dưỡng cho nhiều người trong làng biết làm thơ. Trong số đó, nổi
lên hai nhà thơ lớn là Thạch Quỳ và Vương Trọng. Họ đều đi ra từ miền quê
Trung Sơn, trưởng thành từ dân học toán.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống hiếu học, từ rất sớm
Vương Trọng đã được thụ hưởng lối giáo dục của một gia đình có nề nếp gia
phong. Bố và các anh trai Vương Trọng đều có thiên hướng văn chương. Hai
người anh của nhà thơ trở thành giáo viên văn ở trường trung học phổ thông
và đã có nhiều thơ đăng báo. Điều này đã ảnh hưởng một cách tự nhiên vào
tâm hồn, tình cảm Vương Trọng. Ông học giỏi văn từ nhỏ và thuộc nhiều thơ,
thích làm thơ. Năm lớp bốn, Vương Trọng đã làm bài thơ Vịnh khe bò đái. Tứ
thơ phảng phất thơ cổ điển. Lên lớp sáu Vương Trọng đã thuộc lòng Chinh
phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, và đặc biệt là Truyện Kiều. Ông mê Kiều từ
nhỏ, và Truyện Kiều đã theo ông đi suốt cuộc đời.
Từ những năm tiểu học, Vương Trọng đã học giỏi đều các môn, có
năng khiếu văn chương và cũng học toán rất giỏi. Ông đã từng được cử đi thi
13
quốc gia môn văn. Tuy nhiên, do gia đình đã có hai anh trai dạy văn cấp 3 nên
ông muốn chọn con đường khác. Năm 1962, Vương Trọng thi đỗ vào khoa
Toán, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ( nay là trường Đại học Khoa học tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội ). Điều này có ảnh hưởng lớn đến thơ Vương
Trọng. Năm 1966, tốt nghiệp đại học, Vương Trọng được điều về làm thám
mã ở Cục Quân báo ở vùng núi Ba Vì với nhiệm vụ là thám dịch mật mã của
địch. Năm 1970, ông được chuyển về dạy Toán ở trường Văn hóa Bộ quốc
phòng, đóng tại thị xã Lạng Sơn. Năm 1972, ông được cử đi thực tế chiến
trường. Năm 1974, Vương Trọng được điều về làm phóng viên tại tạp chí Văn
nghệ quân đội. Vương Trọng đến với thơ ca như một cái duyên trời định. Ông
không chọn thơ mà chính thơ ca đã chọn ông. Mặc dù đã đi theo con đường
toán học nhưng cái nghiệp văn chương cứ vận vào ông. Học Toán rồi dạy

toán không được bao lâu, Vương Trọng được cử đi học lớp bồi dưỡng viết
văn Nguyễn Du, sau đó công tác tại Tạp chí văn nghệ quân đội và sáng tác, kể
từ đó, ông trở thành nhà báo và là một nhà thơ nổi tiếng. Từ một biên tập
viên, ông đã trở thành phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội và công
tác ở đó cho đến khi về hưu, mang quân hàm Đại tá.
1.1.2. Những phẩm cách cá nhân
Vương Trọng nổi tiếng là người thông minh, nhạy cảm, có trí nhớ tuyệt
vời. Những phẩm chất ấy bộc lộ từ rất sớm, khi ông còn là một cậu bé. Nhận
xét về con người Vương Trọng, Nguyễn Hòa trong bài Khẩu khí trào lộng
của đồ Nghệ Vương Trọng (An ninh thế giới, 2005) viết: “Ở Văn nghệ quân
đội, Đồ Nghệ – Vương Trọng nổi tiếng là người hóm hỉnh, thông minh và có
trí nhớ tuyệt vời. Nếu ông không phải là người yêu thơ và thật sự có tài thơ thì
quân đội đã có một chuyên gia cơ yếu vào hàng “cao thủ”. Vương Trọng
thuộc lòng Truyện Kiều từ câu đầu đến câu cuối, hỏi câu nào anh trả lời câu
đó, hỏi đoạn nào anh đọc đoạn đó. Anh em cần sưu tầm sử liệu của tạp chí từ
quãng đầu những năm 70 đến nay chỉ cần hỏi Vương Trọng là ra. Anh có thể
14
kế chính xác thời gian, địa điểm, số lượng và tên tuổi những người tham dự
từng chuyến đi công tác, từng sự kiện đã diễn ra trong cơ quan cách đây hàng
chục năm. Chẳng thế mà mới đây, trong số các nhà văn của Văn nghệ quân
đội vừa đi công tác ở Mường Lò trở về chỉ riêng Vương Trọng là nhớ chính
xác giai điệu và lời bài hát mời rượu của các cô gái Thái”. Tài năng, trí tuệ
của Vương Trọng càng ngày càng rõ nét. Ông sáng tạo ở nhiều thể loại, như:
thơ, trường ca, câu đối, truyện thiếu nhi, truyện ngắn, ký, dịch các tác phẩm
nước ngoài… Và dường như ở lĩnh vực nào ông cũng thành công. Tuy nhiên,
cho đến nay, dấu ấn Vương Trọng rõ nhất là ở thơ.
Là người chịu khó đi, ưa quan sát, Vương Trọng đã tự làm giàu vốn
sống, vốn văn hóa của mình qua những chuyến đi. Trong những ngày ác liệt
của chiến tranh chống Mỹ, Vương Trọng đã có mặt ở Quảng Trị, ở biên giới
Tây Nam. Sau chiến tranh, ông lại ngược lên biên giới phía Bắc, đến với

những người lính biên phòng đang ngày đêm bảo vệ biên cương. Sự tỉ mỉ sâu
sát của một nhà báo kết hợp với sự nhạy cảm, tinh tế của một nhà thơ đã giúp
Vương Trọng có được cái nhìn mới về cuộc sống con người. Viết về Vương
Trọng, Nguyễn Bùi Vợi nhận xét: “Vương Trọng là người chịu khó đi. Anh
có mặt ở mọi chiến trường nóng bỏng, mọi miền biên giới và hải đảo xa xôi.
Đi, đọc, viết là ba khâu được tiến hành nhịp nhàng. Trong anh, sôi nổi và
thâm trầm một nhà thơ, mẫn cán và cần cù một nhà báo” [ 74 ], “Sự thành
công của nhà thơ Vương Trọng bắt nguồn từ tài năng và lao động thơ miệt
mài của anh trong đất đỏ mỡ màu của vườn ươm quân đội” [ 74 ].
Vương Trọng được biết đến là một con người điềm tĩnh, nhân hậu. Ông
sống hướng nội nhiều hơn là hướng ngoại. Thâm trầm, kín đáo. Thủa thiếu
thời Vương Trọng sống chan hòa, gần gũi với bà con lối xóm, được bà con lối
xóm tin yêu. Trưởng thành, tham gia học tập, chiến đấu, sáng tác, Vương
Trọng được bạn bè đồng nghiệp yêu mến bởi tính cách điềm đạm, khiêm
nhường và giàu lòng nhân hậu. Trong bài Vương Trọng như tôi cảm nhận,
15
nhân dịp Vương Trọng nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật
năm 2007, nhà thơ Hoàng Cát viết: “Tôi có thể kể ra đây hàng chục việc làm
cụ thể của Vương Trọng, mà tôi biết, để khẳng định rằng-thiên bẩm, anh là
người hết sức nhân hậu, tử tế. Tuy nhiên, điều đáng mừng hơn hết cho Vương
Trọng là, với tư cách và thiên chức của một nhà thơ, anh đã thể hiện được rất
đậm nét tính nhân hậu, lòng bao dung đối với con người, đối với cuộc đời
rộng lớn-thông qua mọi sáng tác thơ của mình”. Từ một trái tim biết đau nỗi
đau của người khác, với nỗi lòng của con người đa cảm, nhân hậu, những số
phận hẩm hiu, những cảnh đời bất hạnh, những cảnh ngộ éo le đã được
Vương Trọng thấu hiểu,cảm thông trong những bài thơ chan chứa tình người.
Ông sống chừng mực, không ham hố, bon chen. Ông quan niệm rằng, bất
hạnh của cuộc sống tỷ lệ thuận khoảng cách giữa điều mình được hưởng với
điều mình muốn hưởng. Có lẽ vì thế mà ông không bao giờ coi mình là người
thiếu thốn, mặc dù ông không phải là người giàu có. Quan niệm sống ấy đã

được ông kín đáo gửi vào thơ, mà bài Nói với Trương Chi là một ví dụ. Ông
viết: “Buồn thì ngủ để quên đi / Giọng hay dành để hát khi tối trời / Ai nghe,
ai cảm mặc người / Dại gì mơ tưởng đến nơi lầu vàng? / Sông một giải, trời
một gian / Chui vào trong chén bạch đàn làm chi?”. Nói với Trương Chi hay
ông nói với chính mình? Lòng dặn lòng hãy sống với những gì mình có, thành
thực với người, thành thực với mình.
Sống nghĩa tình, nhân hậu, Vương Trọng rất nặng tình quê hương. Phần
lớn cuộc đời Vương Trọng gắn liền với thủ đô Hà Nội, nhưng hình ảnh vùng
đất Trung Sơn – Đô Lương luôn hiện hữu trong tâm trí ông. Xa quê đã 40
năm, ông vẫn nhận mình là nông dân, là người con của quê mùa, đồng nội.
Lòng canh cánh lo âu khi quê nhà nắng hạn, bão giông: “Là nông dân? -
Vâng, ta vẫn nông dân/ Nhìn trăng quầng lo mùa nắng hạn/ Nghe tin bão,
hướng quê nhà phấp phỏng/ Gặp ăn mày, lo giáp hạt quê xa” (Nông dân,
2000). Có dịp rảnh rỗi ông lại tranh thủ bắt xe về quê để được nhìn ngắm
16
quê hương và tận hưởng không khí yên bình, thân thuộc, nơi ông đã gửi trọn
hồn mình ở đó. Biền biệt xa quê, rong ruổi trên nhiều con đường, đến với
nhiều miền quê trong Nam ngoài Bắc, song Vương Trọng vẫn nhớ đến từng
khúc hát dân ca, từng món ăn quê mùa dân dã của quê hương. Hai mươi lăm
năm trước, vào tuổi 46, Vương Trọng đã nghĩ đến ngày từ giã cuộc đời. Ông
ước muốn được trở về với quê hương, được đùm bọc, chở che trong lòng đất
mẹ: “Nếu đời tôi dừng lại chốn tha hương / Tang lễ xin đừng làm với lễ nghi
cấp tá và Thi hài tôi sẽ trở lại với làng / Trên sức lực bạn bè, xóm mạc. Bởi
với ông: Những vòng hoa thành phố chóng tàn/ So sao được với tình thương
gốc rễ?” (Lời dặn, 1989). Điều này góp phần lý giải vì sao, thơ Vương Trọng
lại mang đậm dấu ấn văn hóa xứ Nghệ đến vậy.
1.2. Đường thơ Vương Trọng
1.2.1. Quan niệm thơ Vương Trọng
Trong sáng tạo thơ ca, các nhà thơ, nhất là nhà thơ tài năng, giàu cá
tính, luôn có quan niệm sáng tạo của riêng mình. Họ có thể phát biểu thành

lời như một tuyên ngôn, hoặc thể hiện trong thơ. Vương Trọng là một nhà thơ
như thế.
Nói tới quan niệm thơ là nói đến cái ý niệm thẩm mĩ riêng biệt mang
tính cá nhân, cá thể của mỗi nhà thơ. Với Vương Trọng, thơ là tiếng nói tình
cảm, cảm xúc, thơ đến với người, người đến với người bằng tình cảm. Nói về
thơ của mình, ông tâm sự: “Thơ tôi đến với người đọc bằng tình cảm của
chính mình và của bạn đọc”. Theo ông, thơ hay trước hết là ở ý, ở tứ. Và bài
thơ giá trị là bài thơ mà khi đọc lên, “nhiều khi người ta không còn thấy thơ
đâu mà chỉ thấy cuộc đời, tâm trạng và số phận” [ 76 ]. Ngôn từ chỉ là phương
tiện giúp nhà thơ chuyển tải những suy nghĩ tình cảm của mình về những vấn
đề liên quan đến cuộc sống con người. Đọc thơ Vương Trọng, không khó để
nhận ra lối diễn đạt giản dị, được sắp xếp theo một cấu trúc ổn định, rất hiếm
những câu có cấu trúc đột biến hay ý tưởng mù mờ không rõ nghĩa. Ông
17
không dị ứng với cách tân, song theo ông, đổi mới trong thơ trước hết là đổi
mới ý, tứ; đổi mới cách nhìn, cách cảm. Nói cách khác, đổi mới nội dung thơ
mới là điều quan trọng nhất. Theo ông, tính hiện đại trong thơ bao gồm hai
phương diện. Thứ nhất là “mới, trước đấy chưa có”, hai là “hiệu quả hơn cái
đã có”. Và với ông, đổi mới thơ là cần thiết qua từng thời kỳ nhưng phải giữ
được phần cốt lõi của thơ vì nó vốn đã ổn định còn loại đổi mới với mục đích
phủ nhận cái nền thơ đã có thì ông không chấp nhận và coi đó là kẻ thù của
thơ. Ông nói “đổi mới hình thức thì dễ và dễ học theo, đổi mới về nội dung
mới khó” [ 68 ]. Với quan niệm “người làm thơ bao giờ cũng muốn truyền
xúc động đến người đọc”, Vương Trọng coi trọng cấu tứ của bài thơ chứ
không tung tẩy câu chữ, không “làm dáng” và cũng không bao giờ đánh đố
người đọc bằng câu chữ khó hiểu. Thơ Vương Trọng giản dị mà tinh tế - sự
tinh tế chỉ có được ở những người nhạy cảm và thông minh. Ông là người
thích nói thẳng cảm xúc và suy ngẫm của mình để thơ có cơ hội đi thẳng từ
trái tim đến trái tim.
Quan niệm về ngôn ngữ thơ, Vương Trọng cho rằng, thơ là nghệ thuật

của ngôn từ , vì vậy không thể dùng từ nôm na, nhưng ông thích ngôn từ thơ
giản dị. Trong một lần tâm sự, Vương Trọng bày tỏ quan điểm: “Tôi không
đồng tình với quan niệm xem nhà thơ là “phu chữ” của Lê Đạt, tất nhiên lao
động ngôn từ là phải có chọn lọc nhưng không phải là cứ dồn hết tâm sức vào
chọn chữ là chính mà chữ trong thơ phải đặt đúng chỗ, chọn được từ mới
cũng hay nhưng từ đó phải đặt đúng chỗ bởi vì cái chính của thơ vẫn là cái ý.
Cái này tuy cũ nhưng vẫn luôn luôn đúng: “nói cái gì?” và “nói như thế
nào?”. Vương Trọng có xu hướng đặt nôi dung cao hơn hình thức. Thơ chỉ
cần chuyển tải được nỗi lòng thi sỹ thế là đủ. Ông bày tỏ: “Tôi không thích
tìm tòi hình thức biểu hiện thơ. Đối với tôi, các thể thơ truyền thống là hết sức
quan trọng. Nếu gạt bỏ các thể thơ truyền thống, thơ Việt Nam còn là thơ nữa
không”. Trong cái chọn lọc, chọn như thế nào cho nó đúng từng chỗ trong
18
từng hoàn cảnh của bài thơ là điều quan trọng hơn việc cứ đi tìm một từ thật
mới vì tìm một từ mới rất là khó. Vương Trọng rất khiêm tốn khi tự nhận
mình là người “tài hèn, sức mọn” nên chỉ tìm được từ cho đúng chỗ vì có
những từ thành công ở bài này nhưng không thành công ở bài khác, hay ở chỗ
này nhưng không hay ở chỗ khác và ông không tìm được chữ như nhiều
người nói “quỷ khóc, thần sầu”, chỉ hướng đến ngôn ngữ giản dị, nói đúng
tình cảm của mình. Quan niệm này được Vương Trọng thể hiện trong bài
Nghĩ về thơ:
Là rượu, không phải cơm, ai nói đó về thơ
Muốn là rượu phải có gạo, ngô và men cây, men lá
Không có rượu cất lên từ nước lã
Chẳng có thứ thơ nào từ trống rỗng nhà thơ

Nông, sâu là ý, tứ
Trong đục ấy ngôn từ.
Trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại do Hội nhà văn Việt Nam biên
soạn và xuất bản, nhân dịp kỷ niệm Hội nhà văn tròn 50 năm tuổi, Vương

Trọng đã nêu rõ quan niệm về thơ của mình: “Tôi yêu Đỗ Phủ hơn Lý Bạch,
yêu Nguyễn Du hơn Hồ Xuân Hương; bởi Đỗ Phủ, Nguyễn Du ngoài tài thơ
ra còn có trái tim lớn, đau nỗi đau những cuộc đời bất hạnh. Thơ sinh ra
không phải cho người đời chơi chữ, mà cốt để chuyển tải nỗi lòng”. Và “Bài
thơ hay nhiều khi không còn thấy thơ đâu mà chỉ thấy cuộc đời, tâm trạng và
số phận Thơ hay là thơ được nhiều người yêu thích. Nói thơ mình chỉ cần ít
bạn đọc hoặc viết cho người đời sau thì chẳng qua thú nhận sự bất lực, bất
tài”. Với quan niệm “thơ sinh ra không phải cho người đời chơi chữ, mà cốt
để chuyển tải nỗi lòng” cho nên Vương Trọng luôn thể hiện sự dị ứng của
mình trước loại thơ mà ông cho là “hũ nút”, là “đánh đố” người đọc. Với ông,
thể loại thơ “chơi chữ” là loại thơ của những người lười biếng, lạm dụng chữ
19
nghĩa để khoa trương với người đọc. Người làm thơ thực sự, là người chịu
khó lăn lộn tìm tòi cái mới, cái hay, cái lạ để chuyển đến người đọc.
Cũng như các nhà thơ cùng thế hệ, khi nói đến quan niệm thơ, Vương
Trọng tâm sự: “phải luôn luôn nghĩ đến ý thức, trách nhiệm công dân của nhà
thơ. Trên đời cái gì có ích thì nó tồn tại lâu dài. Thơ cũng thế, muốn tồn tại
lâu dài thì phải có ích, nếu ý tưởng trong bài thơ có thể thay thế những điều
chưa hợp lý trong xã hội làm cho xã hội tốt đẹp hơn thì càng có ích”. Các bài
thơ nổi tiếng của Vương Trọng, như: Bên mộ cụ Nguyễn Du, Lời thỉnh cầu ở
nghĩa trang Đồng Lộc, Với đứa con ngoài giá thú , được ra đời từ ý thức
trách nhiệm ấy. Ngay sau khi ra đời, bài thơ đã nhận được sự đồng cảm sâu
sắc của đông đảo bạn đọc và có hiệu ứng xã hội tích cực. Là người dạy toán
làm thơ, Vương Trọng có sự kết hợp hài hòa giữa khả năng phân tích của lý
trí và rung cảm của tâm hồn. Theo ông, "làm thơ cũng giống như làm nhà,
đầu tiên là tập kết nguyên vật liệu, song khác nhau ở chỗ, “nguyên vật liệu”
để làm thơ phải tự mình tìm ra chứ không thể mua hay mượn của người khác.
Đi thực tế là một hình thức chủ động để “tập kết nguyên vật liệu”, bởi thực tế
đời sống rất quan trọng để gợi lên thực tế trong thơ. Tuy nhiên, thực tế trong
đời sống và trong thơ không đồng nhất. Thực tế trong đời sống là A, thực tế

trong thơ là A’. Từ A đến A’ là vốn sống, là trải nghiệm, là sự biến đổi bằng
liên tưởng, tư duy ” [ 38 ]. Từ trải nghiệm bản thân, Vương Trọng quan niệm
người làm thơ rất cần yếu tố bẩm sinh, nếu không có nó thì không thể trở
thành một nhà thơ trên trung bình chứ đừng nói nhà thơ lớn. Tuy nhiên nếu
chỉ dựa vào phần bẩm sinh thì mau hết vốn và dễ lặp lại chính mình. Ông cho
rằng tác giả của truyện thơ Thạch Sanh là nhà thơ bẩm sinh còn Nguyễn Du là
sự kết hợp cả phần bẩm sinh với công sức lao động nghệ thuật. Và theo ông,
trong sáng tác thơ, học phương Tây hay Phương Đông là tùy vào “tạng thơ”
của từng người, riêng ông gần với Phương Đông hơn. “Học gì cũng được, học
ai cũng được, nhưng khi viết thì đừng quên mình viết cho người Việt Nam,
20
làm sao để nhiều người đồng cảm với mình” [ 68 ].
Với những quan niệm đó, Vương Trọng đã đi trên con đường thơ của
mình và tỏ ra quyết liệt đối với con đường mình lựa chọn. Chính điều này đã
góp phần làm nên một phong cách thơ Vương Trọng độc đáo, hấp dẫn trong
sự bộn bề đa thanh, đa giọng của thơ Việt nam hiện đại.
1.2.2. Các chặng đường thơ
Vương Trọng bắt đầu làm thơ từ năm học lớp bốn, với bài thơ đầu tiên
là Vịnh khe Bò Đái, một bài thơ mang phong vị cổ điển. Tuy nhiên, tài năng
thơ Vương Trọng được nảy nở trong thời gian ông vào trường Đại học và trở
thành người lính. Năm 1969, ông đã có giải thưởng thơ đầu tiên. Ông trở
thành nhà thơ từ những ngày trong quận ngũ, với tập thơ đầu tay Thơ người
ra trận (1972). Về cơ bản, con đường thơ Vương Trọng có thể chia thành hai
giai đoạn trước 1986 và sau 1986.
1.2.2.1. Thời kỳ trước 1986
Năm 1969, với chùm ba bài thơ Bài thơ nằm võng, Hội vật quê tôi và
Hoa trẩu Vương Trọng được trao giải ba trong cuộc thi thơ của Báo Văn
nghệ cùng với Phạm Tiến Duật, Vương Anh, Phan Thị Thanh Nhàn. Đây có
thể xem là sự khởi đầu ấn tượng, là cú hích tinh thần để Vương Trọng tự tin
hơn trên con đường sáng tạo thơ ca. Sau khi đoạt giải thưởng cuộc thi thơ,

Vương Trọng được cử đi học lớp sáng tác của Hội nhà văn Việt Nam. Con
đường thơ thực sự đã mở rộng với ông. Chỉ ba năm sau ngày đoạt giải thưởng
của Báo Văn nghệ, Vương Trọng cho xuất bản tập thơ đầu tay, với tên gọi
Thơ người ra trận (1972).
Chiếm số lượng lớn bài thơ trong tập Thơ người ra trận là thơ viết về
người lính, về những gì Vương Trọng đã quan sát và cảm nhận được trên
những nẻo đường chiến đấu, như: Bài thơ nằm võng, Chiến hào ra trận, Du
kích đất Mũi, Tiếng đất, Tà Sanh Những năm chiến đấu ở chiến trường cũng
là thời gian Vương Trọng được hòa mình vào cuộc sống, mở rộng tầm mắt,
21
đón nhận những sắc, mầu, hương thơm, mật ngọt và cả những vất vả hi sinh
của cuộc sống chiến đấu ngoài chiến trường khốc liệt. Chất lãng mạn, sử thi
trong thơ Vương Trọng thời kỳ này là khá rõ nét. Nó được thể hiện rõ qua
giọng điệu ngợi ca, đặc biệt là hình ảnh thơ được thi vị hóa, đến mức lý
tưởng. Bài thơ Nằm võng (1969) là một ví dụ:
Ôi tuổi thơ ta nằm trên võng gai
Đi đánh Mỹ giờ ta nằm võng bạt
Xưa tiếng mẹ ru trùm lên luồng gió mát
Nay Trường Sơn toả bóng chở che ta.
Viết về người lính, Vương Trọng ca ngợi các chiến sỹ vượt qua muôn
vàn gian khổ, hi sinh trên mọi nẻo đường hành quân, trên chốt đánh
thắng giặc. Sức chịu đựng phi thường của người lính được Vương
Trọng khắc họa bằng những hình ảnh độc đáo:
Bạn tôi khát đến khi không đi được
Nằm nhìn trời mà tưởng nhớ dòng sông
Ước một cây chuối rừng
Bập răng vào nhai cho thỏa thích
Nhắc đến khế chua miệng không sinh nước bọt

Con voi trụi lông quay đầu đi hướng khác

Nhưng bạn tôi ở lại chẳng đi đâu
(Tà Sanh)
Viết về người lính ở giai đoạn này, ngôn ngữ thơ Vương Trọng trong
sáng, câu thơ mộc mạc, giản dị với giọng điệu ngợi ca, hào hùng. Có thể thấy,
âm hưởng của thời đại đã thấm một cách tự nhiên vào hồn thơ Vương Trọng.
Bảy năm sau ngày ra đời của tập Thơ người ra trận, Vương Trọng xuất
bản tập Khoảng trời quê hương (1979). Đây có thể xem là tập thơ đánh dấu
sự chuyển biến trên con đường thơ Vương Trọng. Các bài thơ trong tập chủ
22

×