Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.88 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN YẾN OANH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG
HỨNG THÚ TẬP VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An, 2014
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN YẾN OANH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG
HỨNG THÚ TẬP VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyênngành: Giáo dục học (cấp Tiểu học)
Mãsố: 60.14.01.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Chu Thị Thủy An
Nghệ An, 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
- Ban giám hiệu trường Đại học Vinh và Đại học Sài Gòn, Khoa Giáo
dục tiểu học, Khoa Đào tạo sau đại học - trường Đại học Vinh, Phòng tổ chức
trường Đại học Sài Gòn.
- Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS
Chu Thị Thủy An - giáo viên hướng dẫn khoa học đã tận tâm bồi dưỡng kiến
thức, phương pháp nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn
này.
- Đồng thời, tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên
và học sinh lớp 1 các trường Tiểu học: Khai Minh; Kết Đoàn; Lương Thế
Vinh; Lê Ngọc Hân; Nguyễn Thái Bình trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ


Chí Minh đã nhiệt tình cộng tác, cung cấp thông tin, số liệu, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Mặc dù bản thân đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong quá trình nghiên
cứu luận văn, nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa học, các bạn
đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Tác giả luận văn
Nguyễn Yến Oanh


3
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 Cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học
sinh lớp 1
5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
1.2. Hứng thú và hứng thú học tập 7
1.2.1. Hứng thú 7
1.2.2. Hứng thú học tập 11
1.3. Đặc điểm chữ viết Tiếng Việt với việc bồi dưỡng hứng thú tập
viết
18
1.3.1. Đặc điểm chữ viết Tiếng Việt 18
1.3.2. Chữ viết ở trường Tiểu học 22
1.4. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 1 với việc duy trì hứng
thú tập viết

33
1.4.1. Đặc điểm sinh lí 33
1.4.2. Đặc điểm tâm lí 34
1.5. Nội dung dạy học tập viết lớp 1 với việc hứng thú tập viết 37
1.5.1. Vai trò và mục tiêu của dạy học tập viết lớp 1 37
1.5.2. Nội dung dạy học tập viết lớp 1 38
1.5.3. Sự cần thiết phải bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học sinh
lớp 1
39
Tiểu kết chương 1 40
Chương 2 Thực trạng của việc bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học
sinh lớp 1
42
2.1. Khái quát về quá trình nghiên cứu thực trạng 42
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng 43
2.2.1. Thực trạng hứng thú tập viết của học sinh 43
2.2.2. Thực trạng nhận thức của giáo viên về vấn đề bồi dưỡng hứng
thú tập viết
49
2.2.3. Thực trạng sử dụng các biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập viết 51
4
Tiểu kết chương 2 52
Chương 3 Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học
sinh lớp 1
53
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp 53
3.2. Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học sinh
lớp 1
54
3.2.1. Các biện pháp bồi dưỡng hứng thú dựa trên nội dung tập viết 54

3.2.1.1.
Bồi dưỡng hứng thú bằng cách giúp học sinh nhận thức
lợi ích của việc tập viết
54
3.2.1.2.
Bồi dưỡng hứng thú bằng cách sử dụng ngữ liệu thiết
thực, hấp dẫn thông qua các chủ đề
55
3.2.2. Các biện pháp bồi dưỡng hứng thú dựa trên phương pháp tập
viết
57
3.2.2.1
Phương pháp trực quan
57
3.2.2.2.
Phương pháp đàm thoại gợi mở
58
3.2.2.3.
Phương pháp trò chơi tập
59
3.2.2.4.
Phương pháp luyện tập thực hành
65
3.2.3. Các biện pháp bồi dưỡng hứng thú khi sử dụng các phương
tiện dạy học
67
3.2.4. Các biện pháp bồi dưỡng hứng thú qua việc đánh giá rèn
luyện chữ viết đối với học sinh lớp 1
68
3.2.4.1.

Nhận xét, đánh giá đảm bảo sự công bằng
68
3.2.4.2.
Nhận xét, đánh giá nhấn mạnh mặt thành công và giảm nhẹ
sai sót
72
3.2.5. Các biện pháp bồi dưỡng hứng thú qua việc phát triển môi
trường chữ viết trong lớp đối với học sinh lớp 1
73
3.3. Thực nghiệm sư phạm 76
Tiểu kết chương 3 80
KẾT LUẬN 82
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chữ viết là một trong những phát minh gây ấn tượng nhất, là thành tựu
đánh dấu sự phát triển của nhân loại. Việc hình thành và xây dựng những thói
quen tốt về chữ viết cho học sinh là một trong những nội dung giáo dục quan
trọng. Mặt khác, chữ viết còn thể hiện nền văn hoá, sự tinh hoa của một dân
tộc. Vì thế, vấn đề chữ viết được người xưa rất coi trọng. Ông cha ta thường
dùng câu thành ngữ: “Văn hay chữ tốt” để khen người viết chữ đẹp, học rộng,
tài cao. Đặc biệt, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng rất quan tâm đến vấn đề
này: “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng,
viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỷ
luật, lòng tự trọng đối với mình”[7].
Có thể khẳng định, từ khi ra đời cho đến nay, vai trò đặc biệt quan
trọng của chữ viết đã được khẳng định, nó là phương tiện không thể thiếu
trong đời sống xã hội. Thông qua chữ viết, con người có thể giao tiếp, trao đổi

thông tin, lưu trữ thông tin… Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngay từ đầu,
chữ viết đã được Đảng, Nhà nước và toàn ngành Giáo dục quan tâm. Ngay tại
Điều 1 Chương 1, Luật Phổ cập giáo dục Tiểu học đã xác định: “Nhà nước
thực hiện chính sách phổ cập giáo dục tiểu học bắt buộc từ lớp 1 đến hết lớp 5
đối với tất cả trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi”.
Trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, tuy việc rèn
luyện chữ viết cho học sinh tiểu học vẫn được Phòng Giáo dục, Ban giám
hiệu và giáo viên coi trọng, nhưng theo các thầy cô có nhiều kinh nghiệm
nhận định rằng chữ viết của học sinh ngày càng xấu. Chính vì vậy, khi giáo
viên muốn học sinh viết đẹp thì phải làm cho học sinh thích viết chữ, hứng
thú và có cảm xúc với con chữ mà mình viết, thì nét đẹp ấy mới tồn tại được
lâu dài và thể hiện được tính cách, tâm trạng của người viết. Vì vậy, tạo hứng
6
thú cho học sinh trong quá trình học tập là nhiệm vụ đặt ra cho các nhà giáo
dục nói chung và giáo viên đang làm công tác giảng dạy nói riêng. Nhất là tạo
hứng thú học tập cho học sinh đầu bậc Tiểu học có ý nghĩa rất quan trọng vì
học sinh còn bị ảnh hưởng hoạt động chủ đạo là vui chơi ở bậc mầm non.
Tuy nhiên, thực tế việc dạy và học tập viết đối với học sinh lớp 1 còn
nhiều bất cập, giáo viên chưa thật sự tạo được không khí hào hứng trong
giảng dạy, chỉ thiên về lí thuyết nhồi nhét, các quy trình viết đơn điệu, chủ
yếu là viết giống chữ mẫu, khôngthể hiện được nét đẹp riêng của cá nhân.
Thời gian qua, trên địa bàn Quận 1, các nhà trường, đặc biệt là ở bậc
Tiểu học, việc viết chữ dường như đang tạo áp lực cho giáo viên, học sinh và
cả phụ huynh, cụ thể như qua các phong trào “Vở sạch chữ đẹp”, “Nét chữ
nết người”, ngày hội: “Em viết đúng, viết đẹp”… Tuy nhiên các phong trào
này chưa làm cho việc học tập viết của học sinh trở thành niềm vui, chưa thật
sự là sân chơi để các em thể hiện năng khiếu, thể hiện chữ viết của mình và
điều này chưa thật sự đạt được hiệu quả như mong muốn.
Mặt khác, hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về vấn đề
tạo hứng thú tập viết cho học sinh lớp 1 mà chủ yếu đưa ra các vở chữ mẫu

cho học sinh nhìn vào để viết theo. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Một
số biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học sinh lớp 1 làm đề tài
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng hứng tập viết cho học sinh lớp 1
nhằm nâng cao chất lượng dạy tập viết ở tiểu học
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình tập viết cho học sinh lớp 1.
7
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học sinh lớp 1.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ khảo sát hiện trạng và thử nghiệm kết quả nghiên cứu ở một
số trường Tiểu học trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết khoa học
Chúng tôi giả định rằng nếu đề xuất được các biện pháp bồi dưỡng
hứng thú tập viết cho học sinh lớp 1 thì hiệu quả rèn luyện chữ viết sẽ được
nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
5.2. Nghiên cứu thực trạng bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học sinh
lớp 1 các trường Tiểu học ở Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
5.3. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập
viết cho học sinh lớp 1.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu: Để nghiên cứu lịch sử của
vấn đề nghiên cứu hứng thú tập viết lớp 1, đồng thời nghiên cứu những cơ sở
lý luận của đề tài. Từ đó, nắm vững một số vấn đề liên quan đến hứng thú tập

viết lớp 1.
- Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết: Để giúp giáo viên dễ
dàng lựa chọn các biện pháp thích hợp trong quá trình bồi dưỡng hứng thú tập
viết cho học sinh lớp 1.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Là phương pháp sử dụng hệ
thống câu hỏi để thu thập các số liệu từ giáo viên và học sinh lớp 1 của Quận
8
1 để tìm hiểu về vấn đề bồi dưỡng hứng thú của giáo viên và mức độ hứng thú
của học sinh.
- Phương pháp so sánh, phân tích: Để tìm ra các mối liên hệ tạo nên
hứng thú tập viết mà đề tài đề cập đến.
- Phương pháp quan sát: Để thu thập những thông tin về thực trạng
hứng thú học tập của học sinh lớp 1 đối với tập viết, những biện pháp bồi
dưỡng hứng thú mà giáo viên đã sử dụng.
- Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện, lấy ý kiến chuyên gia: Để những
người có trình độ cao góp ý, hướng cách triển khai một đề tài hoặc đánh giá
kết quả nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm: Để thử nghiệm những biện pháp bồi
dưỡng hứng thú học tập viết cho học sinh mà đề tài đã đề xuất.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Để vận dụng các vấn đề
lí luận giáo dục liên quan đến hứng thú vào phân tích thực tiễn bỗi dưỡng
hứng thú tập viết cho học sinh lớp 1.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng hứng thú tập viết cho
học sinh lớp 1
- Chương 2: Thực trạng của việc bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học
sinh lớp 1

- Chương 3: Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú tập viết cho học
sinh lớp 1
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG HỨNG THÚ
TẬP VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 1
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1.Những công trình nghiên cứu về bồi dưỡng hứng thú học tập
Từ những năm 20 của thế kỷ trước, nhà tâm lý học nổi tiếng
X.L.Rubinstein (1902-1960) trong các công trình nghiên cứu tâm lý học đại
cương đã đưa ra các khái niệm về hứng thú, con đường hình thành hứng thú
và cho rằng hứng thú là biểu hiện của ý chí, tình cảm.
I.F.Kha-la-mốp nghiên cứu hứng thú học tập của học sinh trong cuốn
“Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào”, tác giả đã bàn nhiều về
những đặc điểm, nguyên nhân cũng như biện pháp để hình thành hứng thú
học tập cho học sinh, nêu rõ tầm quan trọng của hứng thú trong hoạt động
nhận thức của con người.
Nhà tâm lý học Xô Viết Liu-bli-xcai-a cùng các cộng sự của bà đã đề
cập tới những khía cạnh khác nhau của hứng thú nói chung và hứng thú học
tập của học sinh nói riêng. Họ cho rằng hứng thú học tập là một trong những
tiền đề quan trọng để đưa đến kết quả học tập cao của học sinh. Ba-phô-vich –
một nhà tâm lý học Xô Viết nổi tiếng khác, quan niệm rằng, hứng thú học tập
với tư cách là một động cơ học tập, nó quyết định trực tiếp đến thành tích học
tập tương ứng. Hứng thú học tập là cái “tự điều chỉnh tâm lý cao nhất” trong
hệ thống các thứ bậc, các động cơ học tập của học sinh.
Vấn đề hứng thú học tập đối với các môn học, ở Việt Nam, cũng đã có
khá nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Từ những năm 1960, các tác giả Đức
10
Minh, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân trong cuốn Tâm lý học giảng dạy đã đề cập
đến những vấn đề lí luận chung về hứng thú.

Tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh sinh viên khoa Giáo dục Tiểu học trường
Đại học Sư phạm Hà Nội I nghiên cứu hứng thú học môn Toán của học sinh
trường Tiểu học Xuân Hoà đã đưa ra một số biện pháp phát triển hứng thú
học tập môn Toán cho học sinh.
Đối với môn Tiếng Việt có tác giả Vũ Thị Lan nghiên cứu Các biện
pháp tạo sự hứng thú học tập Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học, tác giả
Phạm Thị Bích Liễu với đề tài Một số biện pháp bồi dưỡng hứng thú học
tập môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5 các trường Tiểu học huyện Châu
Thành tỉnh Đồng Tháp…
Ngoài ra, còn một số nhà tâm lý học như: Lê Khanh, Phạm Minh Hạc,
Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành, Trần Hữu Luyến…. đã nghiên cứu
vấn đề hứng thú học tập của học sinh [18, 35, 9].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về dạy học tập viết cho học
sinh tiểu học
Đối với việc dạy tập viết ở Tiểu học đã có một số tác giả quan tâm
nghiên cứu. Có nhiều ý kiến cho rằng, học sinh Tiểu học hiện nay ít hứng thú
với việc tập viết, tuy nhiên, các tác giả chưa nghiên cứu cụ thể thực trạng mức
độ hứng thú của học sinh như thế nào.
1936-1939 Hoàng Xuân Hãn trở về nước. hoàn thành các lớp học. Ông
tham gia hội Truyền Bá Quốc Ngữ, chống nạn thất học, đưa ra phương pháp
mới để dậy chữ quốc ngữ, đặt các bài vè để học vần quốc ngữ giúp ta nhớ một
số đặc diểm của con chữ thuận lởi cho việc tập viết [8].
Tâm huyết với nghề, sự thầm lặng, kiên trì, vượt qua mọi khó khăn để
chuyên tâm dạy chữ viết, rèn nết người cho các thế hệ học sinh và giáo viên.
11
thầy giáo trẻ Nguyễn Đương Ánh lần lượt viết 29 chữ thường và chữ hoa vào
những mảnh bìa nhỏ, cắt rời từng nét rồi ghép lại, sau đó dùng phương pháp
thống kê theo cột, đưa các con chữ thường có nét khuyết, nét móc tương tự
giống nhau thành 3 nhóm, chữ hoa thành 5 nhóm, nghiên cứu phương pháp
dạy tập viết với mục đích tìm cách viết dễ nhất giúp học sinh viết đúng, viết

đẹp, viết nhanh qua bộ giáo án Luyện chữ đẹp [5].
Nhìn chung đã có tác giả đã quan tâm đến vấn đề tập viết như thế nào
để đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu cụ thể về
thực trạng và các biện pháp bồi dưỡng, duy trì hứng thú tập viết nói chung
cũng như hứng thú tập viết lớp 1 nói riêng.
1.2. HỨNG THÚ VÀ HỨNG THÚ HỌC TẬP
1.2.1. Hứng thú
a. Khái niệm hứng thú
Thuật ngữ hứng thú có nhiều cách hiểu với nhiều khía cạnh khác nhau:
- Theo từ điển Tiếng Việt thì “Hứng thú là sự ham thích”[33, tr 457];
“hứng thú biểu hiện một nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo
khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố gắng thực hiện” [34, tr861].
Theo định nghĩa của Từ điển tâm lí học: “Hứng thú là sự biến đổi có tính
giả định của trạng thái tinh thần tích cực hoặc yếu, hoặc mạnh mẽ của các cá
nhân đối với đối tượng khác nhau hoặc môi trường cũng như đối với các hiện
tượng, các ngành nghề và các lĩnh vực kiến thức khác nhau” [21, tr4].
Những định nghĩa trên ít nhiều đã đi sâu vào tìm hiểu bản chất tâm lí của
hứng thú, tuy nhiên vẫn mang tính chất phiến diện. Xét cho cùng, hứng thú
không phải là một nhu cầu, cũng không phải là một thái độ nhận thức hoặc xu
hướng, chú ý.
12
Hứng thú và nhu cầu là hai thuộc tính khác nhau của xu hướng cá nhân.
Hai thuộc tính này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hứng thú nảy sinh trên
cơ sở nhu cầu hay nhu cầu là cơ sở hình thành hứng thú. Tuy nhiên, hứng thú
và nhu cầu không thể đồng nhất. Có khi hứng thú dừng lại ở nhu cầu, có khi
có nhu cầu nhưng không hứng thú. Nhu cầu có thể không có yếu tố hấp dẫn.
Chẳng hạn có nhu cầu học ngoại ngữ nhưng môn ngoại ngữ khó cũng không
làm cho ta hứng thú (vì không có yếu tố khoái cảm).
Hứng thú đi liền với chú ý, nhất là chú ý không chủ định. Hứng thú
mang màu sắc cảm xúc. Đó là dấu hiệu không thể thiếu của hứng thú. Nhưng

không phải bất kì thái độ cảm xúc nào cũng gây nên hứng thú mà đó phải là
những cảm xúc sâu sắc, tích cực của cá nhân đối với đối tượng.
A.G.Cô-va-li-ôp sau khi phê phán những định nghĩa trên đã đưa ra định
nghĩa: “Hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó do ý
nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về mặt tình cảm của nó” [12,
tr228].
Tâm lí học hiện đại có khuynh hướng nghiên cứu hứng thú trong mối
quan hệ với toàn bộ cấu trúc tâm lí cá nhân. Sau này, các nhà tâm lí học đã
đưa ra khái niệm về hứng thú theo chúng tôi thấy tương đối hoàn chỉnh:
“Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân
trong quá trình hoạt động”[35, tr142]. Ở đây, hứng thú thể hiện mối quan hệ
giữa chủ thể với thế giới khách quan, giữa đối tượng với nhu cầu cảm xúc,
tình cảm của chủ thể hoạt động.
Hứng thú thể hiện nhu cầu nhận thức, nhằm đảm bảo cho nhân cách ý
thức được mục đích hoạt động và tạo điều hiện cho việc định hướng làm quen
với sự việc mới cho việc phản ánh hiện thực một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.
13
Hứng thú được thể hiện thông qua cảm xúc gắn với quá trình nhận thức, qua
sự chú ý của chủ thề đến đối tượng hứng thú.
b. Cấu trúc của hứng thú
Cấu trúc của hứng thú bao gồm 3 yếu tố: nhận thức, thái độ và hành vi.
Cá nhân hứng thú với một đối tượng nào đó thì các yếu tố trên được biểu hiện
rõ nhất. Thái độ cảm xúc này phản ánh nhận thức của chủ thể về đối tượng,
nhận thức luôn là tiền đề là cơ sở cho việc hình thành thái độ. Khi cá nhân
nhận thức được ý nghĩa của đối tượng thì cá nhân đó sẽ thích thú và say mê
trong quá trình hoạt động. Vì vậy, cả hai mặt nhận thức và thái độ được hình
thành và phát triển trong hoạt động của cá nhân với đối tượng.
Ba thành tố nhận thức, thái độ, hành vi có mối quan hệ mật thiết với
nhau, tương tác lẫn nhau trong cấu trúc của hứng thú, sự tồn tại của từng mặt

riêng lẻ không có ý nghĩa với hứng thú, không nói lên mức độ của hứng thú.
Có những đối tượng ta biết là rất cần, rất có ý nghĩa nhưng ta không thấy
thích, không thấy hứng thú, ngược lại có những đối tượng ta thích nhưng chỉ
là thoáng qua không có nhu cầu đi sâu tìm hiểu hoạt động với đối tượng nghĩa
là không có hứng thú. Chỉ những đối tượng nào chủ thể nhận thức được ý
nghĩa của nó và ý nghĩa đó lại phù hợp với nhu cầu của chính chủ thể mới tạo
ra được hứng thú. Sự tương ứng giữa đặc điểm của đối tượng với phẩm chất
của chủ thể tạo ra hứng thú, hay mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể có
mức độ tương ứng giữa yêu cầu của đối tượng với yêu cầu của chủ thể có ý
nghĩa quan trọng đối với việc hình thành hứng thú của cá nhân. Điều này thể
hiện quan điểm quyết định đi đến kết luận khi xem xét hứng thú: cái bên
ngoài quyết định cái bên trong, sự tương tác giữa các tác động khách quan và
các điều kiện chủ quan của chủ thể tạo ra hứng thú. Sự tương tác này chỉ diễn
ra trong hoạt động của chính chủ thể.
14
c. Vai trò của hứng thú trong hoạt động của cá nhân
Hứng thú được coi là thái độ tích cực của cá nhân đối với hiện thực
khách quan. Thái độ tích cực đó được biểu hiện ở chỗ nó có vai trò rất lớn đối
với hoạt động của con người.
Hứng thú tạo cho cá nhân một trạng thái tình cảm dễ chịu. Như phần
định nghĩa đã nói, đối tượng của hứng thú không chỉ có ý nghĩa về mặt đời
sống mà còn có khả năng đưa lại cho cá nhân những khoái cảm. Do đó, khi có
hứng thú đối với lĩnh vực hoạt động nào đó thì cá nhân luôn cảm thấy sung
sướng thoải mái trong hoạt động đó.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động một cách
sáng tạo. Thái độ sáng tạo đối với lao động là luôn luôn tìm tòi cách hoàn
thành hoạt động ấy một cách hoàn hảo nhất. Những tìm tòi như vậy có thể
không đưa đến kết quả nếu như bản thân phạm vi các hiện tượng mà mình
đang tìm tòi bị bó hẹp trong khuôn khổ của những điều kiện hoạt động quen
thuôc có sẵn. Vai trò của hứng thú ở đây cũng là mở rộng khuôn khổ ấy.

Hứng thú kích thích người ta chuẩn bị tích cực về mọi mặt để có thể bắt
tay trực tiếp vào hành động sau này. Khi hứng thú phát triển sâu sắc đến mức
độ biến thành một nhu cầu gay gắt của mình thì cá nhân thấy cần phải hành
động để thỏa mãn hứng thú đó. Thường thường khi hứng thú đã phát triển đến
mức độ như vậy thì cá nhân bắt tay vào hành động thật sự, nhằm thỏa mãn
hứng thú của mình. Những hành động phù hợp với hứng thú như vậy thường
được tiến hành một cách tự giác, đầy tính sáng tạo và mang lại hiệu quả cao.
Hứng thú tăng cường sức làm việc. Tình cảm dễ chịu do hứng thú đem
lại đã làm cho cá nhân làm việc một cách say sưa, đôi lúc quên cả mệt mỏi.
Do vậy, cá nhân làm việc với một sức mạnh dẻo dai. Làm việc được lâu dài
với tinh thần hăng say tích cực.
15
Hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức.Tình cảm tích
cực do hứng thú gây nên đã có ảnh hưởng rất tốt đến quá trình nhận thức.
Khi cá nhân đã có hứng thú với đối tượng nào đó thì cá nhân hướng toàn bộ
quá trình nhận thức của mình vào đó. Do đó, những kết quả hoạt động đó sẽ
mang lại hiệu quả rất cao.
Nói tóm lại, hứng thú có vai trò rất quan trọng trong đới sống và trong
hoạt động của con người cảm thấy sống đầy đủ và hạnh phúc khi có những
hứng thú. Cùng với nhu cầu, hứng thú kích thích hoạt động làm cho con
người trở nên tích cực. Công việc nào phù hợp với hứng thú thì được thực
hiện một cách dễ dàng và có hiệu quả. Lúc đó, con người cảm thấy khoái
cảm khi lao động vì thấy nó là trò chơi về thể lực và trí tuệ.
1.2.2. Hứng thú học tập
a. Khái niệm hứng thú học tập
Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của
hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của
nó. Hứng thú học tập bao gồm hứng thú học tập bộ môn, hứng thú đọc sách
báo, hứng thú tìm tòi, áp dụng tri thức khoa học… Song hứng thú học tập bộ
môn là điều kiện tiên quyết, là yếu tố quyết định chi phối các biểu hiện của

hứng thú khác. Vì vậy, hứng thú học tập chính là thái độ lựa chọn đặc biệt
của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt
tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong quá trình nhận thức và trong đời
sống cá nhân.
b. Sự hình thành và phát triển hứng thú học tập
“Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó,
do có ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về tình cảm của nó”
[12, tr128].
16
Hứng thú học tập được hình thành, biểu hiện và phát triển trong hoạt
động học tập. Cũng như các thuộc tính tâm lý khác của cá nhân, hứng thú học
tập được phát triển cùng với sự phát triển của nhân cách, thông qua hoạt động
học tập, trong đó chủ thể luôn tích cực tự giác hành động (A. N. Leonchiep,
N. G. Marôzôva, A. A. Lublinxkaia )
Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên xô trước đây
cũng đã khẳng định, sự hình thành hứng thú học tập, không phải là một quá
trình tự nhiên, khép kín, mà nó được qui định bởi môi trường, phạm vi và tính
chất hoạt động nhận thức của bản thân mỗi chủ thể và bởi mối quan hệ của
chủ thể với những người khác xung quanh, nhờ quá trình dạy học và giáo dục
trong nhà trường, bởi vị trí và vai trò của họ trong hoạt động tập thể, sự ảnh
hưởng giáo dục của tập thể đối với họ Mặt khác sự phát triển của hứng thú
học tập còn gắn liền với sự phát triển của lứa tuổi.
Do các quan niệm khác nhau về bản chất của hứng thú học tập, một số
tác giả đã không đi đến thống nhất trong việc phân tích con đường hình thành
và phát triển của loại hứng thú này. Như Okôn, Machuskin coi việc dạy học
nêu vấn đề là biện pháp cơ bản để hình thành và phát triển hứng thú học tập.
Còn G. I. Sukina cho rằng, nguồn gốc cơ bản của hứng thú này nằm trong
hoạt động học tập, đặc biệt là trong nội dung tài liệu của học sinh. Từ đó tác
giả khẳng định, để hình thành và phát triển hứng thú học tập cho các em phải
chú ý đến việc lựa chọn, đổi mới tài liệu học tập và tổ chức hoạt động học của

học sinh.
Theo N. G. Marôzôva, trong quá trình phát triển cá thể, hứng thú học
tập được hình thành và phát triển qua 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Thái độ nhận thức có xúc cảm đối với hiện tượng, được
xuất hiện dưới dạng rung động định kỳ. ở giai đoạn này trẻ chưa có hứng thú
17
thật sự, do bị cuốn hút bởi nội dung vấn đề được giáo viên trình bày, học sinh
chú ý lắng nghe, trực tiếp thể hiện niềm vui khi nhận ra cái mới. Sự rung động
định kỳ là giai đoạn đầu tiên của hứng thú. Những rung động đó có thể mất
đi, khi giờ học kết thúc, nhưng cũng có thể, trên cơ sở rung động đó hứng thú
được phát triển. Hứng thú chỉ xuất hiện, khi học sinh mong muốn hiểu biết
nhiều hơn, các em đặt ra câu hỏi và vui mừng khi được trả lời.
- Giai đoạn 2: ở giai đoạn này những rung động định kỳ được lặp đi lặp
lại nhiều lần và được khái quát trở thành thái độ nhận thức có xúc cảm tích
cực với đối tượng tức là hứng thú được duy trì. Thái độ nhận thức xúc cảm
với đối tượng sẽ thúc đẩy học sinh quan tâm tới những vấn đề đặt ra ở cả
trong giờ học, lẫn sau khi giờ học đã kết thúc. Nói cách khác, ở các em đã có
sự nảy sinh nhu cầu nhận thức, tìm tòi và phát hiện.
- Giai đoạn 3: Nếu thái độ tích cực đó được duy trì củng cố, khả năng
tìm tòi độc lập ở các em thường xuyên được khơi dậy thì hứng thú có thể trở
thành xu hướng cá nhân. ở mức độ này, hứng thú học tập khiến cho toàn bộ
lối sống của học sinh được thay đổi: các em dành nhiều thời gian rảnh rỗi của
mình vào việc tìm tòi thêm những kiến thức có liên quan đến vấn đề mình yêu
thích, tham gia hoạt động ngoại khóa, đọc thêm sách, tìm gặp những người
cùng quan tâm tới những vấn đề của mình. Hứng thú bền vững là giai đoạn
cao nhất của sự phát triển hứng thú học tập.
Việc nắm được các giai đoạn hình thành và phát triển của hứng thú học
tập, sẽ giúp người giáo viên đưa ra những biện pháp hợp lý nhằm hình thành
và phát triển hứng thú học tập ở học sinh từ thấp đến cao.
Khi phân tích các mức độ phát triển của hứng thú nhận thức trong hoạt

động học tập, G. I. Sukina và N. G. Marôzôva đều thống nhất rằng, hứng học
tập có 4 mức độ sau:
18
- Có thể xem sự tò mò, tính ham hiểu biết, sự xúc cảm với đối tượng,
với hoạt động mà chủ thể lựa chọn (ở mức độ ban đầu còn rất cảm tính) là
những dấu hiệu ban đầu của hứng thú học tập. Những biểu hiện này nảy sinh
từ tuổi nhà trẻ và phát triển mạnh ở tuổi mẫu giáo (khi trẻ được tiếp xúc khá
rộng rãi với môi trường xung quanh. Đây chưa phải là hứng thú nhận thức
thực sự, nhưng là những tiền đề quan trọng để hứng thú học tập nảy sinh và
phát triển.
- Rung động nhận thức có tình huống được tạo ra do những điều kiện
cụ thể, trực tiếp của tình huống hoạt động. Đây là mức độ đầu của hứng thú
học tập. Nó thường dễ dàng bị dập tắt nếu không được củng cố, hệ thống hóa,
nhờ việc tổ chức những hoạt động nhận thức phong phú, sinh động.
- Hứng thú học tập mang tính xúc cảm - nhận thức: Mức độ này đặc
trưng bởi sự bền vững và khái quát hơn, nhờ những xúc cảm - nhận thức tình
huống đã được củng cố và phát triển, nhưng nó vẫn chưa phải là hứng thú học
tập thực sự. Mức độ này thường được biểu hiện rõ rệt và chủ yếu ở học sinh
tiểu học và đầu trung học cơ sở. ở giai đoạn này chủ yếu chủ thể hoạt động đã
biểu lộ rõ những xúc cảm bắt nguồn từ hoạt động nhận thức, những niềm vui
nhận thức do hoạt động học tập mang lại. Hứng thú nhận thức ở lứa tuổi này
liên quan chặt chẽ với thành tích học tập.
- Hứng thú học tập thực sự được hình thành và trở nên bền vững. ở
giai đoạn này hứng thú học tập trở nên sâu sắc hơn. Nó hướng toàn bộ hoạt
động nhận thức của con người theo một dòng nhất định và thường quyết
định việc chọn nghề nghiệp, cuộc sống tương lai của cá nhân. ở mức độ
này, chủ thể không chỉ có những xúc cảm, niềm vui, sự thỏa mãn do hoạt
động nhận thức mang lại, mà còn có cả ý chí bền vững, được biểu lộ rõ khi
chủ thể gặp khó khăn trong quá trình nhận thức, tìm tòi cách thức hoàn
19

thành nhiệm vụ và hiểu sâu sắc đối tượng. Đây là mức độ phát triển cao
của hứng thú học tập và học sinh thường đạt tới nó ở cuối tuổi học phổ
thông hoặc đầu tuổi học đại học.
Để hình thành hứng thú học tập, việc tổ chức hoạt động nhận thức phải
thường xuyên chủ động, gắn liền với các mức độ phát triển của nó. Do đó các
nhà sư phạm phải hiểu rõ các giai đoạn phát triển của loại hứng thú này.
Hứng thú được hình thành theo con đường tự phát, không ý thức (do sự
hấp dẫn về tình cảm, sau đó, mới dẫn đến nhận thức ý nghĩa của đối tượng) và
con đường tự giác (từ chỗ ý thức về ý nghĩa của đối tượng với cuộc sống đến
chỗ bị đối tượng hấp dẫn). Hứng thú hình thành theo con đường tự gíác được
xem là bền vững hơn. Do vậy, chúng ta cần có biện pháp phù hợp giúp học
sinh lớp 1 nhận thức được lợi ích của việc tập viết. Cùng với việc gia tăng
tính thiết thực của nội dung bài học là sự gia tăng yếu tố hấp dẫn của nó trong
đời sống cá nhân.
Như vậy, chúng ta muốn học sinh lớp 1 có hứng thú học tập viết thì
phải tích cực hóa các hoạt động sao cho thiết thực và hấp dẫn nhằm nâng cao
hiệu quả học tập của học sinh.
c. Biểu hiện của hứng trong học tập
Sự biểu hiện của hứng thú học tập chính là sự cụ thể hoá các giai đoạn
phát triển của hứng thú, các dấu hiệu được biểu hiện ở mức độ phát triển cao
dần của hứng thú tương ứng với mỗi giai đoạn. Khi học sinh có hứng thú với
môn học ta có thể thấy những biểu hiện cụ thể sau:
- Tập trung chú ý cao độ và tích cực phát biểu trong giờ học: Chú ý của
học sinh không phải là quá trình nhận thức nhưng nó tham gia vào các quá
trình nhận thức, là điều kiện đảm bảo cho các quá trình này diễn ra một cách
có hiệu quả. Khi học sinh hứng thú học tập, trong giờ học, các em thường
20
chăm chú nghe thầy cô giáo giảng, chú ý có chủ định đạt ở mức độ cao. Sự
chú ý nghe giảng giúp học sinh nắm được nội dung, hiểu được bài càng có
nhu cầu hiểu biết sâu hơn về bài học nên trong giờ học thường tích cực phát

biểu ý kiến, xây dựng, nhận xét bài cho giờ học trở nên sôi nổi, việc tiếp thu
tri thức sẽ trở nên nhẹ nhàng và thường mang lại hiệu quả cao.
- Khi có hứng thú, học sinh thường thích viết bài: Hứng thú học tập
không chỉ dừng lại ở sự chú ý nghe giảng trên lớp mà các em còn tự giác viết
bài đầy đủ và sạch đẹp. Học sinh có khả năng nhận diện tốt và viết bài tốt thì
mới chăm chỉ học bài, ngược lại sự thành công khi viết đẹp sẽ tạo ra niềm vui
trí tuệ, kích thích sự phát triển của hứng thú, học sinh tin vào khả năng của
bản thân, thấy được cái hay cái đẹp của môn học, khi đó hứng thú với môn
học ngày càng được nâng cao.
- Hứng thú thể hiện nhu cầu nhận thức đã phát triển cao: Cũng như
hứng thú, hứng thú học tập có mối quan hệ mật thiết với nhu cầu nhận thức.
Học tập không chỉ có ý nghĩa về mặt đời sống mà còn có khả năng mang lại
cho học sinh những khoái cảm đặc biệt. Khi học sinh có hứng thú với môn
học các em thường có nhu cầu hiểu biết nhiều hơn, luôn cảm thấy cần thiết để
thoả mãn nhu cầu đó thì học sinh thấy cần phải hành động học tập, cần phải
tích luỹ tri thức và tất cả những gì liên quan tới môn học.
- Hứng thú biểu hiện ở tính tích cực hành động, tích cực suy nghĩ tìm
tòi: Hứng thú học tập không chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức hay thái độ, mà
tất yếu phải dẫn đến tính tích cực hành động, tích cực suy nghĩ tìm tòi để ứng
dụng tri thức vào thực tiễn. Các em không thoả mãn với viết đúng mà còn
muốn viết đẹp, viết chữ nghiêng, tìm hiểu cách trình bày đối với đoạn văn,
đoạn thơ, sự kết hợp giữa chữ hoa và chữ thường, chữ cỡ lớn- cỡ nhỡ- cỡ
nhỏ Tính tích cực hành động và suy nghĩ mang tính chủ quan của học sinh
21
phụ thuộc vào nhận thức và khả năng của các em. Hành động và suy nghĩ tìm
tòi trở thành nhu cầu cần thiết, nguyện vọng chính đáng của bản thân, các
em tích cực tự giác hoạt động với sức mạnh và sự say mê bên trong mà không
cần đến sự khuyến khích động viên của người khác.
- Hứng thú học tập biẻu hiện rõ nhất ở kết quả học tập: Kết quả học tập
là sản phẩm của cả một quá trình học tập và rèn luyện. Nó vừa phản ánh khả

năng nhận thức của học sinh vừa đánh giá trình độ và phương pháp giảng dạy
của giáo viên, nên nó là thước đo quan trọng để đánh giá chất lượng giáo dục.
Mỗi dấu hiệu trên đây đều có sự kết hợp giữa ba yếu tố nhận thức, thái
độ, hành vi. Điều đó một lần nữa khẳng định thành phần cấu trúc của hứng
thú, hứng thú học tập phải bao gồm 3 mặt là nhận thức, thái độ và hành vi.
Các mặt này có mối quan hệ mật thiết với nhau, sự biểu hiện của các dấu hiệu
tương ứng với các giai đoạn hình thành và phát triển của hứng thú. Mức độ
chú ý nghe giảng và thích thú viết bài tương ứng với giai đoạn hình thành của
hứng thú, mức độ học và viết bài đầy đủ với giai đoạn hình thành thái độ nhận
thức. Dấu hiệu nêu thắc mắc, nhận xét và tìm câu hỏi có liên quan đến môn
học, vận dụng vào thực tiễn và luôn đạt kết quả cao chứng tỏ hứng thú đã bền
vững và hướng toàn bộ hoạt động của cá nhân theo hướng tích cực. Dấu hiệu
này tương ứng với sự hình thành hành vi của hứng thú. Như vậy, hứng thú
học tập biểu hiện thông qua những yếu tố bên trong và bên ngoài, tạo nên tính
tích cực hoá rộng rãi trong hoạt động trí tuệ, tiếp thu trí tuệ để hình thành kỹ
năng, phát triển nhân cách cho học sinh.
- Dấu hiệu đặc trưng của hứng thú học tập của sự thích thú với môn học
và tính tích cực trong hoạt động học tập bộ môn. Hứng thú học tập bao gồm
ba mặt biểu hiện: nhận thức, thái độ, hành vi đối với môn học.
22
+ Nhận thức: Tức là học sinh phải nhận thức được ý nghĩa của môn học.
Hiểu được nội dung môn học, lĩnh hội được những kiến thức của môn học.
+ Thái độ: Bao gồm những xúc cảm tích cực của học sinh đối với môn
học và hoạt động học bộ môn. Cụ thể là:
* Tâm trạng háo hức chờ đón giờ học;
* Có niềm vui nhận thức cùng sự thích thú khi tiếp nhận bài học;
* Thích thú thực hiện các nhiệm vụ học tập;
* Vui sướng với thành công trong học tập.
+ Hành vi: Là hình thức biểu hiện ra ngoài của hứng thú học tập, là sự
nỗ lực vượt khó và tính tích cực tiến hành các hoạt động để đạt được kết quả

trong học tập. Cụ thể là:
* Trong lớp chú ý nghe giảng.
* Tích cực phát biểu ý kiến, tích cực thể hiện khả năng của mình với
bạn bè thông qua những bài viết…
Chú ý nghe giảng và tích cực phát biểu trong giờ học là dấu hiệu đầu
tiên của hứng thú học tập, hoạt động học là hoạt động căng thẳng nên nếu chỉ
có ý thức nghĩa vụ và ý thức tổ chức kỉ luật thì không đủ để bắt học sinh chú
ý thường xuyên, lâu dài. Chỉ có hứng thú thì học sinh mới tập trung, chú ý lâu
vào bài học. Khi có hứng thú, học sinh thường hoàn thành các nhiệm vụ học
tập mà giáo viên giao. Có nhu cầu hiểu biết nhiều hơn nên thường tìm tòi sưu
tầm và học hỏi từ bạn bè, người thân. Khi đã có hứng thú học tập, không chỉ
dừng ở mức độ nhận thức hay cảm xúc mà tất yếu phải tiến tới tích cực hành
động. Một học sinh chăm chú nghe giảng, tích cực phát biểu, chăm chỉ học và
viết bài, đọc thêm những tài liệu, biết ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc
sống thì chắc chắn phải đạt kết quả cao trong học tập.
23
1.3. ĐẶC ĐIỂM CHỮ VIẾT TIẾNG VIỆT VỚI VIỆC BỒI DƯỠNG
HỨNG THÚ TẬP VIẾT
1.3.1. Đặc điểm chữ viết Tiếng Việt
a. Chữ viết ghi âm vị
Âm thanh ngôn ngữ ra đời trước, chữ viết ra đời sau với mục đích là
khắc phục những hạn chế của âm thanh ngôn ngữ trong giao tiếp. Vì thế vào
khoảng thế kỉ XVII, môt số giáo sĩ phương Tây đã dựa vào bộ chữ cái la tinh
để xây dựng một thứ chữ mới ghi âm tiếng Việt nhằm phục vụ cho việc
truyền giảng đạo Thiên chúa. Đó là “chữ quốc ngữ”.
Chữ Quốc ngữ ở thời buổi đầu chưa phản ánh một cách khoa học cơ
cấu ngữ âm tiếng Việt, còn chịu nhiều ảnh hưởng cách ghi âm theo tiếng nước
ngoài. Trong vòng hai thế kỉ tiếp theo, chữ Quốc ngữ được cải tiến, từng bước
ổn định. Điều này thể hiện rõ giữa chữ và âm, giữa cách viết và cách đọc có
mức độ phù hợp khá cao.

Chữ viết không phải là ngữ âm mà là “chữ viết ghi âm”. Nó chỉ là
phương tiện để biểu thị ngữ âm. Vai trò của chữ viết là cố định hoá lời nói âm
thanh, lưu giữ lời nói âm thanh và mở rộng phạm vi giao tiếp, tức là khắc
phục các hạn chế của ngôn ngữ âm thanh về cả mặt thời gian và lẫn mặt
không gian.
Chữ viết ghi âm vị gồm các con chữ ghi từng đơn vị ngữ âm nhỏ nhất.
Thứ chữ này thường dùng nhất hiện nay và được gọi là chữ viết a, b, c vì a, b, c
là các chữ cái đầu tiên theo trật tự đã quen từ lâu. Đây cũng là loại chữ hiện đại
hơn chữ viết ghi ý và ghi âm tiết. Số lượng kí hiệu ít, dễ nhớ và dễ sử dụng.
b. Sử dụng chữ cái La tinh
Chữ viết tiếng Việt sử dụng chữ cái La tinh. Trong thực tiễn cho thấy,
chữ quốc ngữ thuận lợi cho tư duy ký hiệu như nghiên cứu đại số hay ngôn
24
ngữ học, sự trình bày lôgic, cho tư duy phân tích (như việc chia chương mục,
xác lập trật tự văn bản), tạo tiền đề tốt đi vào khoa học tự nhiên hay kỹ thuật,
chắc không có cản trở gì lớn. Đậy là loại chữ cái tiến bộ và được sử dụng phổ
biến nhất hiện nay. Những ngôn ngữ phát triển trên thế giới (tiếng Anh, tiếng
Pháp….) đều sử dụng chữ cái La tinh. Vì vậy, nó góp phần không nhỏ trong
công cuộc đưa nước ta dễ dàng hòa nhập vào khối cộng đồng lớn của những
nước dùng chữ La Tinh thông qua sách báo, giấy tờ và biển hiệu…
Chữ quốc ngữ – một thứ kí hiệu mà học sinh được học ở lớp 1 và nâng
cao dần ở các lớp trên. Hằng ngày, học sinh đều sử dụng chữ quốc ngữ để viết
và có thể cảm nhận được sự tiện lợi cũng như sự phức tạp, chưa hợp lí của nó.
- Ưu điểm:
+ Cấu tạo đơn giản: Chỉ bao gồm 2 nét cơ bản là nét cong và nét thẳng,
những nét còn lại đều phối hợp từ nét cong và nét thẳng mà ra. Chúng kết hợp
với nhau theo những quy tắc nhất định để tạo ra các chữ cái khác nhau. Biết
được các nét cơ bản, giúp giáo viên phân tích cấu tạo chữ viết từ đó hướng
dẫn học sinh viết các con chữ khác nhau. Về phía học sinh, nếu biết và viết
được các nét cơ bản, các em sẽ có kĩ năng phân tích cấu tạo chữ viết và thực

hiện viết chữ theo một quy trình hợp lí.
+ Kĩ thuật sử dụng thuận tiện như: Rê bút, lia bút, viết liền mạch… dạy
cho học sinh đều xuất phát từ đặc điểm của bộ chữ cái La tinh nhằm đạt tốc
độ viết sẽ nhanh, chữ viết đẹp và mềm mại. Đối với chữ cái La tinh, kĩ thuật
cầm bút, vận động đúng của cổ tay, bàn tay là rất quan trọng. nếu cầm bút sai,
đưa nét bút sai sẽ ảnh hưởng đến tốc độ viết, ảnh hưởng đến tính thẩm mĩ của
chữ. Đối với chữ cái Latinh viết đúng, viết đẹp và viết nhanh đi liền với nhau,
không tách rời nhau. Nếu viết sai, sẽ không đẹp và chậm.
25

×