Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông chuyên trên địa bàn thành phố vinh tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.49 KB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ VÂN ANH
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ VÂN ANH
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ VINH TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN VIẾT QUANG
NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Trường Đại học Vinh, tôi đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía Nhà trường, Thầy cô và đồng nghiệp.
Nhân dịp luận văn được bảo vệ, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới
TS. Trần Viết Quang, người đã định hướng đề tài và trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn các Thầy giáo, Cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, Phòng


Đào tạo Sau Đại học, Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào -
Trường Đại học Vinh, Trường THPT Chuyên - Đại học Vinh, Trường THPT
Chuyên Phan Bội Châu, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã tận tâm giúp đỡ
tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện song luận văn sẽ không
tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy cô giáo, các
anh chị và các bạn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Lê Thị Vân Anh
2
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN 2
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 5
MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 12
4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu 13
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 13
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn 14
7. Cấu trúc của luận văn 14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN 15
1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức 15
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh các trường Trung học phổ
thông Chuyên 23
1.3. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường Trung học phổ
thông Chuyên ở nước ta hiện nay 31

Kết luận chương 1 47
Chương 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN 49
2.1. Khái quát về các trường Trung học phổ thông Chuyên trên địa
bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An 49
2.2. Tình hình đạo đức của học sinh các trường Trung học phổ thông
Chuyên trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An 55
3
2.3. Tình hình công tác giáo dục đạo đức cho học sinh các trường
Trung học phổ thông Chuyên trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An 62
2.4. Đánh giá chung về đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh các trường Trung học phổ thông Chuyên trên địa bàn thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An 75
Kết luận chương 2 82
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN TP VINH, TỈNH
NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 85
3.1. Phương hướng giáo dục đạo đức cho học sinh các trường Trung
học phổ thông Chuyên trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
An giai đoạn hiện nay 85
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cho học sinh trường Trung học phổ thông Chuyên trên địa bàn
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An giai đoạn hiện nay 90
Kết luận chương 3 123
KẾT LUẬN 125

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 128
PHỤ LỤC 130

4
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- CNXH Chủ nghĩa xã hội
- GDĐĐ Giáo dục đạo đức
- THPT Trung học phổ thông
- TP Thành phố
- TNCS Thanh niên Cộng sản
- XHCN Xã hội chủ nghĩa
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm học phổ thông, học sinh không chỉ được học kiến
thức văn hóa mà còn được rèn dạy về đạo đức. Những giá trị đạo đức căn bản
(tính trung thực, tinh thần trách nhiệm, lòng yêu thương ) sẽ giúp cho con
người sống tốt hơn. Nhưng dường như những giá trị này đang bị xuống cấp,
thể hiện qua những hành vi bạo lực trong nhà trường, những vụ án nghiêm
trọng, những hành vi gian lận ở nhiều cấp độ Đã đến lúc chúng ta cần có cái
nhìn khách quan về việc GDĐĐ trong nhà trường hiện nay.
Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội
dung, phương pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa
chất lượng nền giáo dục Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi
mới ở nước ta gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu hết sức to lớn và
đáng tự hào. Song, chúng ta không thể không thừa nhận những nguy cơ và
thách thức đối với lĩnh vực giáo dục, đào tạo nói chung và giáo dục Phổ thông
nói riêng. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng xấu của văn hóa ngoại
lai đang tác động mạnh mẽ tới nhân cách, đạo đức của thế hệ trẻ. Chúng ta

đang phải đối diện với tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự
gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm. Đáng lo ngại nhất là trong lớp trẻ xuất hiện
vấn đề tiêu cực trong học tập và thi cử, vấn đề bạo lực học đường ngày càng
gia tăng, văn hóa học đường đang bị xuống cấp nghiêm trọng.
Ở các nhà trường nói chung, công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối
sống chưa được quan tâm một cách đúng mức. Một bộ phận không nhỏ học
sinh chạy theo lối sống thực dụng, chưa có ý thức trong việc rèn luyện đạo
đức, lối sống mới. Nhiều giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn và xuống cấp.
6
Không ít học sinh thiếu tích cực trong học tập và rèn luyện, không chịu
phấn đấu, thiếu niềm tin, lý tưởng sống. Thực trạng học sinh mắc vào tệ
nạn ma túy, tệ nạn mại dâm, thành lập các nhóm không lành mạnh, đánh
nhau, tổ chức đua xe trái phép, bạo lực học đường, quan hệ tình dục trước
hôn nhân đang là mối lo lớn của toàn xã hội ta, đã tạo ra hình ảnh không
đẹp về học sinh.
Từ thực trạng đó, cả xã hội đang quan tâm tìm cách giải quyết, ngành
giáo dục và đào tạo đang trăn trở tìm giải pháp, Đảng và Nhà nước ta đang chỉ
đạo quyết liệt với tính đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà,
trong đó, vai trò của giáo dục Phổ thông có tầm quan trọng đặc biệt. Giáo dục
Phổ thông là vườn ươm để có những con người hoàn thiện, là khởi đầu cho sự
nghiệp đào tạo con người, hình thành nhân cách. Tất cả điều đó đặt ra yêu cầu
bức thiết đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn vai trò của giáo dục và
GDĐĐ cho học sinh, nhất là học sinh THPT - giai đoạn của sự chuyển tiếp
giữa thiếu niên và thanh niên, là giai đoạn tạo dựng nền móng nhân cách để
trở thành sinh viên, trí thức, người lao động mới cho tương lai.
Nghệ An là một vùng đất có truyền thống hiếu học, nơi sinh ra nhiều
nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, qua khảo sát tình hình
đặc điểm học sinh THPT của Tỉnh Nghệ An, đặc biệt là học sinh các trường
THPT Chuyên TP Vinh (Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu; Trường
THPT Chuyên - Đại học Vinh), bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn những

lo lắng về đạo đức, nhân cách của một bộ phận học sinh như tư tưởng trung
bình chủ nghĩa, lối sống thực dụng, vi phạm văn hóa học đường Thực tế này
có những nguyên nhân khách quan, song cũng có những nguyên nhân chủ
quan do công tác GDĐĐ của các nhà trường chưa đạt hiệu quả như mong đợi,
thậm chí còn có trường xem nhẹ, chưa quan tâm đúng mức đến công tác
GDĐĐ, nhân cách cho học sinh.
7
Là một giáo viên dạy môn Giáo dục công dân trong trường THPT, với
những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề: Giáo dục đạo đức cho học sinh
các trường Trung học phổ thông Chuyên trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay làm đề tài cho luận văn thạc sĩ Chính trị
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung và cho học sinh THPT nói
riêng không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Cái mới là nội dung, phương
pháp giáo dục được thay đổi cho phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh
lịch sử nhất định. Vì vậy, trong thời gian qua, đã có nhiều tác giả, trên các
góc độ triết học, tâm lý học, giáo dục học, công bố các công trình nghiên
cứu của mình.
Về các Nghị quyết, văn bản của Nhà nước liên quan đến công tác
GDĐĐ có: Chỉ thị 06 - CT/TW của Bộ Chính trị Về tổ chức cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ngày 07 tháng 11 năm
2006 [18]; Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị Về tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ngày 14 tháng 4 năm 2011
[19]; Ngày 18 tháng 5 năm 2007, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành Chỉ thị số 2516/CT-BGDĐT Về việc thực hiện cuộc vận động học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành giáo dục và đào
tạo [9]; Ngày 16 tháng 4 năm 2008, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký
Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ban hành Quy định về đạo đức nhà giáo
[10]; Thông báo số 1231/TB-BGDĐT ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Bộ

Giáo dục và Đào tạo về kết quả Hội thảo Quốc gia về GDĐĐ - công dân trong
giáo dục Phổ thông Việt Nam [11]… Đây là những văn bản, tài liệu mang
tính định hướng quá trình GDĐĐ cho học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo
dục quốc dân nói chung và trong các trường THPT nói riêng.
8
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và khối các trường Đại học Sư
phạm (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Vinh, Đại học Sư
phạm Huế, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh ) đã có những đóng
góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu này với các tác giả: Hà Thế Ngữ,
Nguyễn Đức Minh, Phạm Minh Hạc [22], [23], [24], [25], [26], Phạm Tất
Dong, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hùng, Nguyễn Lương Bằng [4], [5], [6],
[7] và nhiều tác giả khác. Để đi đến các quan niệm và giải pháp về GDĐĐ,
các tác giả đã lựa chọn cho mình những cách tiếp cận khác nhau, tạo ra sự đa
dạng, phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu. Cụ thể như: tác giả
Phạm Minh Hạc xuất phát từ đặc trưng tâm lý học để khảo sát hành vi và hoạt
động, nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc của nhân cách, thực hiện quá trình
GDĐĐ trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu quan trọng
nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục; tác giả Nguyễn Đức Minh nghiên
cứu và trình bày cơ sở tâm lý - giáo dục học của GDĐĐ; tác giả Hà Thế Ngữ
chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình GDĐĐ thông qua dạy học các môn
khoa học, nhất là các môn khoa học xã hội và nhân văn, rèn luyện phương
pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan,
bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho học
sinh; tác giả Phạm Tất Dong đã đi sâu nghiên cứu cơ sở tâm lý của hoạt động
giáo dục lao động, giáo dục hướng nghiệp, gắn kết hoạt động này với GDĐĐ
nhằm đạt mục tiêu GDĐĐ nghề nghiệp và lý tưởng nghề nghiệp cho thế hệ
trẻ; tác giả Nguyễn Lương Bằng đã có một loạt bài viết: Giáo dục đạo đức
cho học sinh (dưới góc độ triết học và đạo đức) [4]; Truyền thống đạo đức
trọng nhân nghĩa và ảnh hưởng của nó đối với sinh viên hiện nay [5]; Sinh
viên với việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế [6];

Tiêu chí đánh giá, xếp loại đạo đức học sinh Phổ thông - một số vấn đề đặt ra
trong bối cảnh hiện nay [7] Tác giả đã đề cập đến vấn đề đạo đức và GDĐĐ
9
trên các phương diện khác nhau, đưa ra được các tiêu chí đánh giá, xếp loại
đạo đức học sinh Phổ thông - vấn đề đang được ngành giáo dục và đào tạo
quan tâm trong tình hình hiện nay
Một số tác giả, trong các công trình nghiên cứu chuyên sâu cũng đã đề
cập đến vấn đề đạo đức và GDĐĐ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Tiêu biểu như: Giáo sư Vũ Khiêu (1974) chủ biên cuốn Đạo
đức mới [34]. Trong tác phẩm này, vấn đề đạo đức mới được làm sáng tỏ trên
những nét cơ bản. Giáo sư Hoàng Chí Bảo (1998) trong công trình Sự biến
đổi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh
tế thị trường, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội [2] đã bàn về những thay đổi văn
hóa, xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở một số nước
trong khu vực, từ đó có sự nhận định, đánh giá liên hệ ở Việt Nam hiện nay.
Đỗ Tuyết Bảo (2001) trong luận án Giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường Phổ thông cơ sở ở TP Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay
(Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội)
[3] đã phân tích ảnh hưởng của cơ chế thị trường đối với công tác GDĐĐ, lối
sống cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh THCS ở TP Hồ Chí Minh nói riêng.
Tác giả Lê Thị Hoài Thanh trong luận án Tiến sĩ Quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay (2002) [52] đã đi sâu làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong sự phát triển đạo đức và trong GDĐĐ; phân
tích đặc điểm và xu hướng biến đổi về đạo đức của thế hệ thanh niên Việt
Nam hiện nay và thực trạng công tác GDĐĐ cho thanh niên; đề xuất một số
giải pháp chủ yếu trong GDĐĐ cho thanh niên theo hướng kết hợp truyền
thống và hiện đại.
Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn, Phó Giáo sư Nguyễn Văn Phúc (2003)
đồng chủ biên cuốn Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường

10
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội [14]. Các tác giả đã bàn về những
nội hàm của đạo đức, GDĐĐ trong nền kinh tế thị trường, những giải pháp
khắc phục sự tha hóa, xuống cấp trên một số mặt của đạo đức trong xã hội
hiện tại.
Cùng hướng nghiên cứu, tác giả Trịnh Huy Duy (2009) trong công
trình Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội [16] đã khẳng định trong nền kinh
tế thị trường có sự thay đổi về một số hệ giá trị, sự hội nhập với các nền kinh
tế bên ngoài, vì vậy, vấn đề xây dựng đạo đức mới cần được quan tâm một
cách đúng mực, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong tình
hình hiện nay.
Ngoài ra, chúng tôi còn tiếp cận với một số công trình nghiên cứu khác
như: công trình “Một số vấn đề thời đại và đạo đức” của nhà giáo Mai Văn
Bính (1991), Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội [8]; công trình Giáo dục lý
tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới của
Phạm Đình Nghiệp (1996), Nxb Giáo dục [43]; công trình Giáo dục đạo đức,
hệ thống giá trị tư tưởng nhân văn của Hà Nhật Thăng (1998), Nxb Giáo dục
[53]; công trình Phương pháp dạy học đạo đức của Lưu Thu Thúy (2001),
Nxb Giáo dục [55]; công trình Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của
Đặng Vũ Hoạt (2003), Nxb Giáo dục [29]…
Vấn đề GDĐĐ cho thế hệ trẻ hiện nay cũng được các nhà nghiên cứu
đề cập qua các bài viết trên một số báo như: “Mấy ý về giáo dục, rèn luyện
đạo đức Hồ Chí Minh” của Lê Xuân Vũ, Tạp chí Cộng sản, số 4 năm 1994
[63]; “Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ
chế thị trường” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 10 năm 1996
[44]; “Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT”
của Phạm Khắc Chương, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2 năm 1997 [15];
11
“Công tác giáo dục đạo đức, chính trị cho học sinh, sinh viên” của Nguyễn

Quốc Anh, Tạp chí Cộng sản, tháng 2/1997 [1]; “Xây dựng đạo đức, lối sống
và chuẩn mực giá trị xã hội để phát triển toàn diện con người” của Nguyễn
Khắc Vinh, Tạp chí Thông tin lý luận, số 3, năm 1999 [62]…
Một số luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Triết học, Chính trị học ở
các học viện, trường Đại học, Viện nghiên cứu cũng đã bàn đến vấn đề đạo đức
và GDĐĐ cho học sinh THPT như: Một số giải pháp quản lý công tác giáo
dục đạo đức ở các trường THPT TP Thanh Hóa của tác giả Chu Hồng Văn
[61]; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong quá trình giáo dục đạo
đức cho học sinh THCS - Qua khảo sát tại Trường THCS Collette, Quận 3, TP
Hồ Chí Minh của tác giả Đoàn Hữu Khánh [33]; Biện pháp quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh ở trường THPT Bình Sơn, Tỉnh Vĩnh Phúc của tác giả Lê
Gia Thanh [51]; Nâng cao chất lượng dạy học phần Công dân với đạo đức
trong chương trình Giáo dục công dân 10 tại Trường THPT Phan Thanh Giản,
Huyện Ba Tri, Tỉnh Bến Tre của tác giả Nguyễn Bảo Ngọc [42]…
Từ nhiều góc độ khác nhau, tác giả đã nghiên cứu về đạo đức và
GDĐĐ cho thanh thiếu niên nói chung, học sinh THPT nói riêng trong giai
đoạn hiện nay, thể hiện rõ ý nghĩa sâu sắc của vấn đề trên các phương diện lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đề cập một cách trực
tiếp, toàn diện vấn đề GDĐĐ cho học sinh các trường THPT Chuyên trên địa
bàn TP Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đề tài nghiên
cứu của tác giả không trùng lặp với các công trình khác đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận, khảo sát thực trạng, mục đích
nghiên cứu của luận văn nhằm nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho học sinh các
trường THPT Chuyên trên địa bàn TP Vinh, tỉnh Nghệ An.
12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề GDĐĐ cho học sinh
THPT trong giai đoạn hiện nay.

- Khảo sát thực trạng của việc GDĐĐ cho học sinh các trường THPT
Chuyên trên địa bàn TP Vinh, tỉnh Nghệ An trong thời gian qua.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về GDĐĐ cho học sinh các trường
THPT Chuyên trên địa bàn TP Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tiếp cận từ góc độ chính trị - đạo đức, nghiên cứu lý luận đạo
đức và GDĐĐ, đánh giá thực trạng công tác GDĐĐ cho học sinh các trường
THPT Chuyên trên địa bàn TP Vinh, tỉnh Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng đạo đức và GDĐĐ cho học sinh THPT ở các trường THPT
Chuyên (Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu; Trường THPT Chuyên - Đại
học Vinh) trên địa bàn TP Vinh, tỉnh Nghệ An từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và GDĐĐ,
lối sống cho học sinh; đồng thời dựa trên các Nghị quyết, các văn bản của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nghệ An, Trường Đại
học Vinh về công tác GDĐĐ cho học sinh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dung phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê;
phương pháp so sánh; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp;
phương pháp lịch sử - lôgich; phương pháp điều tra xã hội học
13
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề GDĐĐ cho
học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn đã khảo sát thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả về GDĐĐ cho học sinh các trường THPT Chuyên trên địa
bàn TP Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn đã được công bố trong một công
trình đồng tác giả: Tăng cường hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường THPT Chuyên trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay, Tạp chí Giáo dục, Số Đặc biệt, tháng 9/2014.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác GDĐĐ
cho học sinh THPT nói chung và học sinh các trường THPT Chuyên của tỉnh
Nghệ An nói riêng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ luc,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường Trung học phổ thông Chuyên
Chương 2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh các trường Trung
học phổ thông Chuyên trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho học sinh các trường Trung học phổ thông Chuyên trên địa bàn thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN
1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là khái niệm rất phổ biến, quen thuộc. Tuy nhiên, cho đến nay,
định nghĩa về nó vẫn chưa thống nhất. Nguyên nhân cơ bản là do các nhà
nghiên cứu đứng từ các góc độ, các cách tiếp cận khác nhau. Trong tiếng
Anh, có hai từ tương đương với từ đạo đức trong tiếng Việt là ethics và

moral. Ethics có gốc ở chữ Hy Lạp là ethicos, nghĩa là lề thói, tập tục. Moral
có gốc là moris - lề thói trong tiếng Latinh. Theo người phương Tây cổ đại,
khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói, tập tục đã được định hình
trong một cộng đồng dân tộc. Tuân theo những tập tục, lề thói chuẩn mực ấy
được xem là người có đạo đức và ngược lại. Theo quan niệm của Socrates,
con người có thể tìm hiểu những điều thuộc đời sống thực tiễn, để tìm thấy
những chân lý khách quan về một nền đạo đức thực tiễn. Ông tin vào nhân
đức, công lý và coi đó là cách sống hợp với ý muốn thần thánh. Theo ý tưởng
của Platon, con người phải khôn ngoan và biết sống điều độ, nghĩa là phải biết
làm chủ được bản thân mình để đạt được hạnh phúc. Với Platon, đạo đức là
những yếu tố như: hạnh phúc, sự chính trực
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo có nghĩa là con đường.
Về sau, khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ “con đường của
tự nhiên”. Đạo còn có nghĩa là “con đường sống” của con người trong xã hội.
Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung, đức là biểu hiện của
15
đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của
người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc
sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo. Điều này cũng phù hợp với cách
hiểu về đạo đức của người phương Tây xa xưa.
Trong thời trung đại, những quan niệm về đạo đức của người Việt Nam
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng triết học Trung Quốc (các học thuyết
Nho, Phật, Đạo). Đến thời hiện đại, tuy nhiều học giả đã cố gắng xác lập khái
niệm đạo đức nhưng về cơ bản, các cách hiểu này đều tương đối thống nhất
với quan niệm của cổ nhân. Trong cuốn Hán - Việt từ điển, trên cơ sở phân
tách 2 yếu tố đạo và đức, học giả Đào Duy Anh đã cho rằng: “Nguyên lý tự
nhiên là đạo, được vào trong lòng người là đức - Cái lý pháp người ta nên noi
theo”. Theo Từ điển tiếng Việt do GS Hoàng Phê (Chủ biên), đạo đức là
“những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành

vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, đạo
đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn
đạo đức mà có” [46, 116]. Trong Từ điển Phật học Huệ Quang, đạo đức là
khái niệm để chỉ nguyên lý thiện ác, chánh tà có liên quan đến hành vi của
con người. Hữu Ngọc - Dương Phú Hiệp - Lê Hữu Tầng thì quan niệm “Đạo
đức hay luân lý là một trong những hình thái sớm nhất của xã hội, bao gồm
những nguyên lý (đạo lý), quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người
trong quan hệ với người khác và với cộng đồng” [41, 145].
Theo quan điểm của đạo đức học Mác - Lênin, đạo đức là “một hình
thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội,
nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [28, 8]. Định
nghĩa chỉ ra ba đặc trưng cơ bản của đạo đức là:
16
- Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.
- Đạo đức là một hệ thống các giá trị.
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Đây có thể được xem là định nghĩa hoàn thiện nhất về khái niệm đạo
đức bởi nó vừa có tính khái quát và cụ thể, đã chỉ rõ nội dung cũng như tác
dụng của đạo đức trong việc định hướng, điều chỉnh cách ứng xử của con
người hiện nay.
1.1.1.2. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội
Giá trị đạo đức tuy “vô hình” nhưng nó lại hiện diện trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong quan hệ với giới tự nhiên, trong lao động sản xuất,
trong mối quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… Có thể hình dung nếu
pháp luật là khuôn thước “bên ngoài” thì đạo đức lại là “sợi dây bên trong”,
ràng buộc, chi phối cách hành xử của con người trong chuẩn mực. Chính vì lẽ
đó, ở bất cứ nơi đâu, dưới thể chế nào, đạo đức vẫn luôn có vai trò thiết yếu,

không thể thay thế.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội. Các hình thái ý thức xã hội
khác nhau tuỳ vào phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt
đối với đời sống khác nhau. Do chỗ đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
nên nó phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống. Nói cách khác,
đạo đức cho thấy thực tiễn đời sống, cung cách ứng xử của con người với con
người, con người với xã hội. Đạo đức cũng vận động trên cơ sở sự vận động,
phát triển của tồn tại xã hội, của phương thức sản xuất. Sự phát sinh và phát
triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển của phương
thức sản xuất quyết định.
Đạo đức còn có vai trò là một phương thức điều chỉnh hành vi của con
người. Bên cạnh đạo đức, phương thức điều chỉnh hành vi con người còn có
17
phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật… Đối với đạo đức, sự đánh giá hành
vi con người theo khuôn khép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu hiện thành
những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Những khuôn khép (chuẩn mực) và qui tắc đạo đức là yêu cầu của xã hội
hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Cá nhân phải
chuyển hóa những đòi hỏi của xã hội và những biểu hiện của chúng thành nhu
cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Từ đây có thể thấy, vai
trò quan trọng của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội là hình thành trong
mỗi người ý thức đúng, từ đó điều chỉnh hành vi đúng với quan niệm, cách
ứng xử của cộng đồng, với chuẩn mực đạo đức xã hội. Một xã hội nếu các
thành viên ý thức đúng và hành động đúng với quan niệm của cộng đồng thì
xã hội đó sẽ ổn định, phát triển bền vững, ngược lại sẽ tạo ra tình trạng bất ổn,
rối loạn.
Vì liên quan đến nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân và của cả cộng
đồng, đạo đức có vai trò duy trì trật tự, sự bình ổn và phát triển của xã hội.
Đạo đức, về mặt nào đó mà nói, chính là bộ mặt của một xã hội phát triển bền
vững. Cùng với pháp luật, đạo đức góp phần điều chỉnh ý thức, hành vi, qua

đó điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là tính hợp hiến, được quy định
bằng điều, khoản ràng buộc, gắn với hình phạt. Đạo đức là ý niệm, là sự phân
biệt giữa thiện - ác, tốt - xấu, hướng vào con người chủ yếu bằng tính lương
tri, lương tâm. Dĩ nhiên, pháp luật hiện đại cũng đã căn cứ trên cơ sở đạo đức
để quy định những điều được làm và không được làm, gắn với các hình phạt.
Tuy nhiên, đạo đức vẫn là phạm trù ở bên ngoài văn bản, không thể cụ thể
hóa hết bằng các điều, bởi vậy, bên cạnh tòa án pháp lý, chúng ta thường nói
đến tòa án lương tâm.
Đạo đức có vai trò cảm hóa con người, giúp con người nhận thức và
hành động theo lẽ phải, theo lương tâm, qua đó duy trì các mối quan hệ tốt
18
đẹp giữa con người với con người. Nhiều vụ án, chính nhờ sức mạnh đạo đức
mà nhiều người gây án đã tự thú nhận, giúp các cơ quan chức năng xử lí dứt
điểm các chuyên án. Cùng với chức năng cảm hóa, đạo đức góp phần duy trì
các mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, giúp
con người tạo dựng hạnh phúc, giữ gìn phẩm giá, đánh thức những tình cảm
tốt đẹp, hướng thiện, phát huy lòng nhân ái, bao dung, trung thực ở mỗi
người. Trong nhiều trường hợp, đạo đức chính là sức mạnh giúp con người
chiến thắng nỗi sợ hãi, đấu tranh chống cái xấu, phản tiến bộ để hướng tới cái
chân, thiện, mỹ, cái tích cực trong một xã hội phát triển.
Đạo đức là một hệ thống các giá trị và nó có sự bổ sung, phát triển
theo thời gian. Do đó, đạo đức cũng không phải là phạm trù đứng yên mà
luôn vận động, phát triển trong các điều kiện mới. Sự hình thành, phát triển
và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn
thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo
đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy có tính tích cực, mang
tính nhân đạo. Ngược lại, hệ thống ấy sẽ mang tính tiêu cực, phản động,
phản nhân đạo. Từ đây, có thể thấy, vai trò của đạo đức đối với sự phát triển
của xã hội còn ở chỗ, tạo ra giá trị mới, chuẩn mực mới để phù hợp với tính
chất mới của thời đại.

Như vậy, có thể thấy, đạo đức có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, cần thấy rằng, sự tác động của đạo đức đối với xã
hội cũng có hai mặt. Nếu công tác quản lý yếu kém, hệ thống các quy tắc,
nguyên tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức không phù hợp với xã hội hoặc lệch
lạc so với xu thế phát triển thì đạo đức trở thành lực cản, cản trở sự phát triển
xã hội, tạo ra sự bất ổn. Vì vậy, việc giáo dục, hình thành những chuẩn mực
đạo đức tích cực, có lợi cho sự phát triển của cá nhân và xã hội là nhiệm vụ
chung của tất cả mọi người, của cả gia đình, nhà trường và xã hội.
19
1.1.2. Giáo dục đạo đức và các thiết chế của nó
1.1.2.1. Giáo dục đạo đức
Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của con người là quá trình
tác động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hóa những nguyên tắc, yêu
cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức của cộng đồng thành những phẩm chất đạo
đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức đáp ứng yêu
cầu của xã hội. Dưới tác động của giáo dục, quá trình đó diễn ra chủ động, có
định hướng, mục đích và đem lại hiệu quả cao hơn nhiều lần so với để nó diễn
ra tự nhiên, không có tổ chức.
GDĐĐ là quá trình chuyển hóa những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức
của xã hội thành đạo đức và nhân cách của mỗi cá nhân, được thể hiện trong
giao tiếp, ý thức tự giác và các hoạt động thực tiễn diễn ra hằng ngày trong xã
hội. GDĐĐ được tiến hành thường xuyên trong các môi trường gia đình, nhà
trường và xã hội với những phương pháp, hình thức khác nhau.
Trong nhà trường, GDĐĐ là “bộ phận hợp thành nền tảng của nội dung
giáo dục toàn diện nhằm giúp thế hệ trẻ hình thành lí tưởng, ý thức và tình
cảm đạo đức, tạo nên những thói quen và hành vi đạo đức của con người mới,
xã hội chủ nghĩa thể hiện ở các phẩm chất đạo đức như lòng nhân ái, yêu Tổ
quốc, yêu lao động, đức hi sinh, dũng cảm, tính liêm khiết, trung thực, vô tư,
khiêm tốn, tự tin, tự trọng…” [30, 124]. Nó là một bộ phận của quá trình giáo
dục tổng thể, có quan hệ biện chứng với các quá trình bộ phận khác nhau như

giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và
giáo dục hướng nghiệp giúp cho học sinh hình thành và phát triển nhân cách
toàn diện.
Như vậy, có thể thấy, GDĐĐ phải bắt nguồn từ việc tác động về mặt
nhận thức, xây dựng những rung cảm đạo đức, hình thành nhu cầu và niềm tin
hướng đến các chuẩn mực đạo đức chứ không đơn thuần là việc áp dụng
20
chính xác các phương pháp, kỹ thuật dạy học. Thực chất của việc định hướng
hành vi, cách thức ứng xử có đạo đức, nhất là trong các mối quan hệ khác
nhau là căn cứ trên thang giá trị chuẩn mực của văn hóa ứng xử trong cộng
đồng. Đối với học sinh, đó là văn hóa ứng xử, giao tiếp chủ yếu trong môi
trường học đường. Ngoài ra, định hướng ý thức, hành vi đạo đức còn là việc
huấn luyện, bồi dưỡng những kỹ năng ứng xử, giao tiếp hướng đến việc xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực.
Hiện nay, tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã làm một số
giá trị đạo đức truyền thống bị băng hoại, đạo đức con người xuống cấp
nghiêm trọng. Trong đó, học sinh cũng là đối tượng chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ bởi những tác động xấu này. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, công tác
GDĐĐ cho học sinh cần phải được xem trọng, đề cao như là nhiệm vụ
trung tâm, hàng đầu của quá trình giáo dục. Có như vậy, các em mới có
những nền tảng vững chắc để phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu mới của
xã hội.
1.1.2.2. Các thiết chế của giáo dục đạo đức
Thông thường, thiết chế được hiểu là mọi quy định, ràng buộc đối
tượng vào khuôn khổ, luật lệ. Hiểu rộng hơn, thiết chế là khái niệm chỉ toàn
bộ hệ thống tổ chức và chỉ đạo, giám sát một hoạt động nào đó. Có nhiều loại
thiết chế khác nhau: Thiết chế kinh tế bao gồm những thiết chế liên quan đến
việc sản xuất và phân phối của cải, điều chỉnh sự lưu thông tiền tệ, tổ chức và
phân công lao động xã hội. Thiết chế chính trị là những thiết chế như chính
phủ, quốc hội, các Đảng phái và tổ chức chính trị Thiết chế tinh thần là

những thiết chế liên quan đến các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, giáo dục,
khoa học, tôn giáo. Thiết chế giao tiếp công cộng bao gồm tất cả các khuôn
mẫu và phương thức hành vi trong sự giao tiếp công cộng. Các mối quan hệ
xã hội giữa người với người đều kinh qua những thiết chế.
21
Theo đó, thiết chế GDĐĐ là khái niệm chỉ toàn bộ hệ thống tổ chức và
hệ thống giám sát mọi hoạt động GDĐĐ (ở đây, chúng ta đang bàn đến GDĐĐ
trong nhà trường). Nhờ các thiết chế này mà các bộ phận giáo dục kết hợp lại
với nhau, đảm bảo hoạt động nhịp nhàng và trong khuôn khổ. Các thiết chế
GDĐĐ đều có nhiệm vụ đáp ứng các nhu cầu GDĐĐ, điều chỉnh hoạt động
của các bộ phận trong nhà trường và của các thành viên, kết hợp hài hoà các bộ
phận, đảm bảo sự ổn định, đúng hướng của các hoạt động GDĐĐ.
Thiết chế của GDĐĐ trong nhà trường trước hết là thiết chế chính trị,
biểu hiện trực tiếp qua chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; Luật Giáo dục; Nghị quyết Đại hội các cấp về các vấn đề liên quan đến
giáo dục nói chung, GDĐĐ nói riêng; các văn bản, chỉ thị, đường lối GDĐĐ
của Bộ Giáo dục và Đào tạo (như Luật Giáo dục; các thông tư, quy định, kế
hoạch triển khai công tác GDĐĐ); nội quy, quy chế trường THPT Tất cả
những quy định này hợp lại thành thiết chế chính trị, định hướng chỉ đạo công
tác GDĐĐ cho học sinh. Nói cách khác, thiết chế chính trị buộc công tác
GDĐĐ phải hướng tới phù hợp với thể chế chính trị (ví như phải giáo dục cho
học sinh đạo đức xã hội chủ nghĩa), thống nhất và hướng tới phục vụ nhiệm
vụ chính trị chung của toàn Đảng, toàn dân tộc.
Bên cạnh thiết chế chính trị, công tác GDĐĐ còn phải phụ thuộc vào
thiết chế tinh thần, cụ thể đó chính là đặc điểm văn hóa, tinh thần của người
Việt. Việc truyền tải những giá trị đạo đức cho học sinh tuy vẫn phải đảm bảo
tính hiện đại nhưng nó có liên quan mật thiết với các giá trị văn hóa truyền
thống như: lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lòng thương người, lòng biết ơn, ý
thức cộng đồng, tôn sư trọng đạo, kính trên nhường dưới… Chỉ khi phù hợp
với cách cảm, cách nghĩ, lối sống của người Việt thì các giá trị đạo đức nhà

trường truyền dạy mới được cộng đồng đồng thuận, ủng hộ. Nếu không, nó sẽ
trở thành lai căng, xa lạ.
22
Ngoài ra, công tác GDĐĐ cho học sinh còn phải tuân thủ thiết chế giao
tiếp công cộng, cụ thể đó là những quy định, ràng buộc trong các mối quan hệ
xã hội. Ví như, GDĐĐ cho học sinh phải dựa vào mối quan hệ truyền thống
trong gia đình để hình thành cho các em những chuẩn mực trong giao tiếp,
ứng xử với người ruột thịt (như kính trên nhường dưới, biết ơn ông bà, cha
mẹ, yêu thương anh em ruột thịt); ở nhà trường thì phải định hướng cho các
em cách thức giao tiếp thầy - trò (tôn sư trọng đạo, tuân thủ nội quy, quy chế,
trung thực, thật thà), bạn bè (sẻ chia giúp đỡ, yêu thương đùm bọc, thẳng
thắn, tin tưởng)… Những thiết chế ứng xử giao tiếp trong cộng đồng đã định
hình trong một thời gian dài, trở thành chuẩn mực giao tiếp để duy trì các mối
quan hệ tốt đẹp. Do vậy, GDĐĐ cho học sinh không được tùy tiện, chủ quan
mà phải dựa trên những thiết chế này để hướng các em trở thành con ngoan,
trò giỏi, người công dân tốt trong xã hội.
Như vậy, thiết chế của GDĐĐ cho học sinh có thể định hình thành
những văn bản bắt buộc, mang tính chỉ đạo hoặc có thể chỉ là những giá trị
văn hóa, tinh thần, phong tục tập quán… đã trở thành khuôn khổ, chuẩn
mực mà cả cộng đồng tuân theo. Nó giống như sợi dây cương “kìm chân”
nhưng cũng là kim chỉ nam để công tác GDĐĐ cho học sinh triển khai
đúng hướng, hiệu quả, phù hợp với pháp luật của Nhà nước, văn hóa, đời
sống của cộng đồng.
1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh các trường Trung học phổ
thông Chuyên
1.2.1. Những biểu hiện về tâm, sinh lý của học sinh các trường
Trung học phổ thông Chuyên
Học sinh THPT có độ tuổi từ 15 - 18 tuổi. Cơ thể các em có sự phát
triển đột biến về thể lực, trí tuệ, tâm sinh lý. Đây là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ
em sang người lớn, là lứa tuổi nở rộ sức mạnh thể chất, tinh thần và trí tuệ,

23

×