Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Dạy học văn học việt nam trung đại ở các trường trung học cơ sở quận phú nhuận, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.12 KB, 121 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ BẢO NGỌC

DẠY HỌC VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN PHÚ NHUẬN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2014


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ BẢO NGỌC

DẠY HỌC VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN PHÚ NHUẬN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: lý luận và phương pháp dạy học Bộ môn văn vµ tiÕng viƯt

MÃ SỐ: 60.14.01.11



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM TUẤN VŨ

NGHỆ AN - 2014


3

MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................3
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...............................................................................................................2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................................6

4. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................6
Nghiên cứu việc dạy và học phần văn học Việt Nam trung đại trong chương trình chính
khóa ở các trường THCS quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh...............................6
5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................6
6. Cấu trúc của luận văn....................................................................................................6

Chương 1.......................................................................................................7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI........................7
1.1. Vị trí của phần văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ
văn ở THCS hiện nay....................................................................................7
KẾT LUẬN...............................................................................................110
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................112



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hiện nay chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trung học cơ sở
(THCS) của cả nước có những vấn đề khiến khơng chỉ bậc học này mà
khiến cả xã hội lo ngại. “Văn học là nhân học” nghĩa là văn học là học về
con người. Mơn Ngữ văn góp phần hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi con người. Tuy nhiên trong những năm gần đây chúng ta lại phải
chứng kiến một thực tế thật đáng buồn, đó chính là tình trạng học sinh quay
lưng lại đối với môn văn ngày càng nhiều. Trong tình hình chung đó, việc
dạy học phần văn học Việt Nam trung đại còn đáng lo ngại hơn vì đây là
những giá trị văn chương ra đời từ xa xưa, phản ánh hiện thực và con người
khác lạ so với hiện nay. Những điều này tạo nên những khó khăn và làm
giảm hứng thú dạy học văn học Việt Nam trung đại ở THCS hiện nay.
1.2. Đổi mới phương pháp dạy học văn trong những năm gần đây
đang được các cấp lãnh đạo quan tâm chú trọng. Trong quá trình đổi mới,
bên cạnh những kết quả tốt đẹp đáng ghi nhận cũng cịn có những điều cần
khắc phục. Nghiên cứu đề tài này góp phần vào việc đổi mới phương pháp
dạy học văn đúng thực chất và hiệu quả. Đã có nhiều tài liệu bàn về đổi
mới việc dạy học văn học Việt Nam trung đại ở THCS, trong số đó có
những tài liệu chưa chú ý đúng mức đến đặc điểm của những văn bản này,
thậm chí cịn có những sai sót đáng tiếc, chẳng hạn việc lạm dụng các
phương tiện dạy học hiện đại không phù hợp với bản chất mơn văn trong
nhà trường nói chung và văn học Việt Nam trung đại nói riêng. Chất lượng
dạy học văn học Việt Nam trung đại ở THCS liên quan đến nhiều vấn đề và
luôn phải nghiên cứu, thử nghiệm, đúc kết những mặt thành công và chưa
thành công. Chúng tôi mong muốn nghiên cứu đề tài này nhằm hướng tới
mục đích đó.
1.3. Chất lượng dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng gắn

với điều kiện dạy học cụ thể. Văn học Việt Nam trung đại là một trong
những phần chủ yếu của chương trình Ngữ văn ở trung học cơ sở được bố
trí thời lượng lớn, dạy học ở tất cả các lớp của cấp học này. Chất lượng dạy


2

học phần này cịn có ảnh hưởng đến việc dạy học văn học Việt Nam trung
đại ở cấp học sau.
1.4. Hiện tại, tôi đang dạy Ngữ văn tại trường THCS Ngơ Tất Tố
(quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh). Địa bàn nơi tôi dạy là một
trong những quận nằm ở vị trí trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp
giáp với 5 quận nên có điều kiện thuận lợi trong việc mở mang, giao lưu,
phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Đời sống kinh tế của quận Phú Nhuận
phát triển khá cao nên nhu cầu nâng cao dân trí trong những năm gần đây
ln được các cấp lãnh đạo đặt lên vị trí quan tâm hàng đầu. Đa số các em
trong độ tuổi đến trường trong địa bàn quận đều có sự hậu thuẫn rất lớn từ
phía gia đình và Xã hội, tạo điều kiện thuận lợi trong việc hỗ trợ người giáo
viên với công tác giảng dạy. Hiểu rõ điều kiện cơng tác của mình từ đó có
thái độ chủ động thì chất lượng dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học
văn học Việt Nam trung đại nói riêng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu
nâng cao dân trí của các cấp lãnh đạo tại địa phương. Đây là một lý do
nữa khiến tôi nghiên cứu đề tài Dạy học văn học Việt Nam trung đại ở
các trường trung học cơ sở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí
Minh.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề dạy học văn nói chung và dạy học văn học Việt Nam trung đại
nói riêng đã có nhiều nhà giáo học pháp, cũng như nhiều nhà nghiên cứu
giảng dạy văn học quan tâm.
Cơng trình Phương pháp dạy học văn của nhóm tác giả Phan Trọng

Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt (1999) đã trình
bày những vấn đề lí luận chung về bộ môn, khoa học về phương pháp dạy
học văn và phương pháp dạy học bộ môn. Đặc biệt là trong giáo trình này
các tác giả đã cho chúng ta thấy được vai trò của người học trong q trình
phân tích tác phẩm văn chương là chủ thể cảm thụ [52, 69-370]. Có thể nói
đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về
phương pháp dạy học văn. Cuốn sách đã đưa ra các phương pháp dạy học
văn ở trường phổ thông: gợi mở, nghiên cứu, tái tạo, nêu vấn đề. Các tác
giả cũng đã đưa ra những phương pháp cụ thể khi dạy một thể loại nhất
định như phương pháp dạy học môn làm văn, phương pháp dạy học văn


3

học sử... Tuy nhiên về thể loại văn học Việt Nam thời trung đại các tác giả
chưa thực sự quan tâm. Hơn nữa hoàn cảnh hiện nay đã khác, chương trình
SGK cũng đã thay đổi do đó những nội dung các tác giả nêu ra trong cơng
trình ít nhiều khơng cịn phù hợp.
Cơng trình Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học phổ
thông (Nhà xuất bản Giáo dục, 2007) là cuốn sách rất được quan tâm chú ý
đối với những nhà nghiên cứu giáo dục, những giáo viên đang trực tiếp
giảng dạy ở các trường trung học phổ thơng và tất cả những người quan
tâm đến chính sách giáo dục hiện nay. Ở cuốn sách này, các nhà nghiên
cứu đã nêu lên những vấn đề về đổi mới căn bản giáo dục trung học phổ
thông hiện nay, chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm của chương trình
giáo dục hiện hành cũng như hướng đổi mới dạy học Ngữ Văn trung học
phổ thông hiện nay [10, 9 -10]. Sách đã nêu rõ tầm quan trọng của công
tác đổi mới phương pháp giảng dạy, tuy nhiên chưa đi sâu vào nghiên cứu
đổi mới phương pháp dạy học văn học Việt Nam trung đại.
Trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam trong nhà trường (năm 2007)

tác giả Phạm Tuấn Vũ đã đề cập tới một số vấn đề thuộc một số thể loại
văn học trung đại Việt Nam, trong đó tác giả chú trọng tới một số tác phẩm
văn học trung đại được dạy học ở trường phổ thông. Các bài viết trong
cuốn sách được sắp xếp theo bốn nhóm: về phú, về thơ, về văn tế, về văn
chính luận. Đây là tài liệu tham khảo rất có ích cho giáo viên dạy văn ở
trường phổ thông bởi tập sách đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết
về các thể loại nói trên, thế nhưng chưa mang lại cách thức tiếp cận cụ thể
cho từng thể loại, cũng như chưa nghiên cứu sâu các tác phẩm văn học Việt
Nam trung đại trong trường THCS.
Sách Để dạy tốt và học tốt tác phẩm văn chương (phần trung đại) ở
trường phổ thông của tác giả Nguyễn Thanh Hương đã nghiên cứu rất sâu
sắc và chỉ ra được những thuận lợi và khó khăn trong dạy học văn học
trung đại để giáo viên và học sinh có thể nhận thấy được những vướng mắc
trong việc dạy và học tác phẩm văn học trung đại từ đó khắc phục và tiếp
cận văn bản một cách có hiệu quả hơn. Tác giả đưa ra các phương pháp dạy
học văn học trung đại như hướng dẫn học sinh đọc tác phẩm, dạy học văn
học trung đại thông qua cắt nghĩa, dạy thơ trung đại thông qua chú giải sâu,


4

dạy học thơ trung đại thông qua hệ thống câu hỏi. Ngoài ra trong cuốn sách
này tác giả thiết kế một số giáo án Ngữ văn (phần trung đại) trong trường
phổ thơng để độc giả tham khảo từ đó có cách nhìn đầy đủ chính xác về tác
phẩm [46, 86]. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng những vấn đề mà tác giả nêu
lên về phương pháp dạy học văn học trung đại khơng có gì mới. Hơn nữa
trong sách này phương pháp dạy học văn học trung đại theo từng thể loại
cũng chưa có sự đầu tư, chỉ mới trình bày sơ lược.
Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam - từ góc nhìn thể loại
của tác giả Lã Nhâm Thìn là những bài phân tích tác phẩm theo đặc trưng

thể loại. Trong phần phương pháp phân tích, tác giả có lưu ý tới tính quy
phạm của từng thể loại [71, 143-170]. Những vấn đề mà tác giả đưa ra là
rất bổ ích trong việc dạy học văn chính luận Việt Nam thời trung đại, tuy
nhiên phương pháp dạy học cụ thể cịn khá sơ lược.
Năm 2010, cơng trình nghiên cứu Văn chính luận Việt Nam thời trung
đại của tác giả Phạm Tuấn Vũ đã cung cấp kiến thức và phân tích khá cụ
thể các văn bản chính luận trung đại được dạy học ở trường phổ thông và
thực tế dạy học các văn bản chính luận ấy. Tác giả đã đưa ra những cách
thức cụ thể để người dạy người học có thể tiếp cận tốt với thể loại văn
chính luận. Từ đó tác giả đã đưa ra ý kiến của mình góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học các thể loại văn chính luận Việt Nam thời trung đại như người
dạy phải hiểu được bản chất của văn chính luận trung đại là sản phẩm mang
tính tư duy nguyên hợp, đặc điểm tư duy của người trung đại; phải chú ý
đến đặc điểm riêng trong cách xác định chân lí của người trung đại; phải
tạo được cho học sinh tâm thế tiếp nhận phù hợp; phải cung cấp nhiều kiến
thức về văn học và phi văn học; phải có sự tổng quan tồn bộ chương trình;
phải biết đính chính một số chỗ dịch chưa đúng… [72, 119-124]. Những
kiến thức mà tác giả trình bày trong cuốn sách đã giúp ích rất nhiều cho
giáo viên dạy Ngữ văn.
Năm 2011, tác giả Phạm Tuấn Vũ lại tiếp tục cho ra đời cơng
trình Về một số vấn đề tác giả, tác phẩm văn chương. Ở cơng trình này
tác giả cho rằng quan điểm lịch sử cụ thể ảnh hưởng rất lớn đến dạy
học văn chính luận Việt Nam trung đại: “Quan điểm lịch sử cụ thể đòi
hỏi phải xử lí tốt các văn bản vì đây là cơ sở quan trọng nhất hình


5

thành nên những giá trị tư tưởng tình cảm của người dạy - học văn
chương nói chung và văn chính luận nói riêng” [73, 6]. Những kiến

thức mà tác giả đưa ra trong cơng trình đã giúp ích rất nhiều cho người
giáo viên ngữ văn phổ thông.
Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường phổ thơng theo hướng tích
hợp và tích cực của Đồn Thị Kim Nhung phục vụ dạy học Ngữ văn THCS
đã đưa ra những định hướng về đổi mới phương pháp dạy học theo quan
điểm tích hợp và tích cực, xây dựng được mơ hình thiết kế giáo án phù
hợp. Cuốn sách đã cung cấp cho giáo viên dạy ngữ văn THCS những kiến
thức lí luận, thực tiễn, có được những định hướng đổi mới, phương pháp
dạy học phù hợp với từng phân môn. Phương pháp dạy học từng phần văn
học cụ thể: văn học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại chưa
được đề cập.
Các sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng giáo viên, thiết
kế bài giảng, tài liệu tham khảo khác ra đời từ năm 2006 trở lại đây (năm
2006 là năm bắt đầu thực hiện đại trà bộ sách giáo khoa mới) đều trình bày
cụ thể, chi tiết các văn bản Ngữ văn được giảng dạy trong nhà trường,
trong đó có các văn bản Ngữ văn thuộc phần văn học trung đại. Các tác giả
đã phân tích rất rõ các đặc điểm của từng tác phẩm như về truyện truyền kì,
thơ Đường luật, văn chính luận… Các kiến thức, các phương pháp mà các
tác giả trình bày chưa mang tính khái qt, và chưa hình thành nên những
cách thức phương pháp cụ thể để tiếp cận với từng loại văn bản thuộc
những thể loại khác nhau trong chương trình văn học Việt Nam trung đại ở
trường trung học cơ sở.
Do hạn chế về thời gian và nguồn tư liệu tham khảo, chúng tôi
không thể xem xét tất cả các cơng trình nghiên cứu của các tác giả.
Chúng tơi thấy đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về phương pháp dạy
mơn Ngữ văn nói chung, giảng dạy văn học Việt Nam trung đại nói
riêng trong nhà trường THCS với những quy mô và hướng tiếp cận
khác nhau. Giới nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề, thể loại của
văn học trung đại để đưa ra những cách thức tiếp cận các văn bản văn
học trung đại giúp người dạy người học có thể thâm nhập vào thế giới

hình tượng để từ đó hiểu được tác phẩm. Tuy nhiên dạy học các tác


6

phẩm văn học Việt Nam trung đại ở trường THCS vẫn còn nhiều vấn đề
phải bàn luận. Xuất phát từ lí do, mục đích và phạm vi nghiên cứu của
luận văn, chúng tôi chọn đề tài Dạy học văn học Việt Nam trung đại ở
các trường trung học cơ sở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí
Minh để nghiên cứu, nhằm tìm ra phương pháp dạy học cụ thể hơn đối
với thực tế giảng dạy ở địa phương đang công tác.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nhận thức được thực trạng dạy học phần văn học Việt Nam trung
đại ở các trường THCS trong quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhận thức được các nguyên nhân chủ yếu tạo nên thực trạng đó.
3.3. Đề ra được một số giải pháp khả thi và có hiệu quả thiết thực góp
phần nâng cao chất lượng dạy học phần văn học Việt Nam trung đại ở các
trường THCS quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc dạy và học phần văn học Việt Nam trung đại trong
chương trình chính khóa ở các trường THCS quận Phú Nhuận, thành phố
Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu văn học như
các phương pháp: hệ thống, thống kê - phân loại, phân tích - tổng hợp, đối
sánh và các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục như phương pháp
quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp thực nghiệm...
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo luận văn có ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài

Chương 2: Giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn
học Việt Nam trung đại ở các trường THCS quận Phú Nhuận, thành phố
Hồ Chí Minh
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Vị trí của phần văn học Việt Nam trung đại trong chương trình
Ngữ văn ở THCS hiện nay
1.1.1. Thống kê, phân loại
Văn học Việt Nam trung đại có lịch sử hơn mười thế kỷ, có vị trí
quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà, có ý nghĩa lớn đối với đời
sống tinh thần của người Việt Nam. Văn học trung đại Việt Nam là
thời kỳ văn học đầu tiên và dài nhất, là một di sản văn học quý báu
của dân tộc... Văn học trung đại Việt Nam là một loại hình văn học đã
định hình và kết tinh được nhiều thành tựu ở nhiều tác giả và tác phẩm
tiêu biểu. Nó khơng chỉ để lại cho đời sau những giá trị thẩm mỹ lớn
lao, mà cịn chứa đựng trong đó biết bao giá trị văn hóa, những vui
buồn trăn trở, tâm tư của người xưa gửi gắm đến đời sau. Văn học
trung đại là sản phẩm tinh thần ghi dấu ấn văn hóa một thời kỳ dài của
dân tộc. Điều này có nghĩa là tầm quan trọng của văn học trung đại
trong tiến trình văn học Việt Nam là rất lớn. Để duy trì tiếp nối, phát
huy truyền thống cha ông không thể bỏ qua những giá trị văn học này.
Chính vì vậy dạy học văn học trung đại được coi là nội dung quan
trọng trong chương trình Ngữ văn phổ thơng ở bậc THCS. Các văn
bản văn học Việt Nam trung đại được phân bố ở cả bốn khối lớp.



8

Bảng 1: Thống kê, phân loại
TT

Tên văn bản

Tác giả

Thể loại
Văn
chương
thẩm
mỹ

1

Con hổ có nghĩa

3

Thầy thuốc giỏi cốt
nhất ở tấm lịng
Nam quốc sơn hà

4

Phị giá về kinh


5

Cơn Sơn ca

6

Bánh trơi nước

2

7
8

Thiên Trường vãn
vọng
Sau phút chia li
(Đoạn trích)

Văn
học
chức
năng

Vũ Trinh
Hồ
Nguyên Trừng
?
Trần
Quang Khải
Nguyễn Trãi

Hồ
Xuân Hương
Trần
Nhân Tơng

Văn tự
Dịch
từ chữ
Hán

Nơm

Hình
thức học
Đọc
hiểu

x

Số
tiết

Dạy
học
ở lớp

1

6


Đọc
thêm

x

x

x

x

1

6

x

x

x

1/2

7

x

x

x


1/2

7

x

x

1

7

1

7

x

1/2

7

x

1/2

7

x


x

x

Đặng Trần Cơn

x
x

x

x

9

Qua Đèo Ngang

Bà Huyện
Thanh Quan

x

x

x

1

7


10

Bạn đến chơi nhà

Nguyễn huyến

x

x

x

1

7

11

Chiếu dời đơ

x

x

x

1

8


12

Hịch tướng sĩ

Lí Cơng Uẩn
Trần
Quốc Tuấn

x

x

x

2

8

13

Nước Đại Việt ta

Nguyễn Trãi

x

x

x


1

8

14

Bàn luận về phép học
Chuyện người con
gái Nam Xương
Chuyện cũ trong
phủ chúa Trịnh
Hoàng Lê nhất
thống chí (hồi 14)
Truyện Kiều của
Nguyễn Du
Chị em Thúy Kiều
( Đoạn tích)
Cảnh ngày xuân
(Đoạn trích)
Kiều ở lầu Ngưng
Bích (Đoạn trích)
Lục Vân Tiên cứu
Kiều Nguyệt Nga

Nguyễn Thiếp

x

x


x

1

8

x

2

9

1

9

x

2

9

x

2

9

15

16
17
18
19
20
21
22

Nguyễn Dữ

x

x

Phạm Đình Hồ

x

x

Ngơ gia
văn phái

x

x

x

Nguyễn Du


x

x

x

1

9

Nguyễn Du

x

x

x

1

9

Nguyễn Du

x

x

x


2

9

Nguyễn
Đình Chiểu

x

x

x

2

9


9

1.1.2. Phân tích sự thống kê, phân loại
Từ năm 2002 về trước, các tác phẩm văn học trung đại tập trung dạy
học ở SGK Văn học lớp 9, được sắp xếp theo tuyến tính thời gian nghĩa là
đi theo trình tự phát triển của lịch sử văn học trung đại. Điều này sẽ giúp
các em có được cái nhìn tổng quan, đầy đủ hơn về nền văn học kéo dài suốt
hơn mười thập kỉ. Tuy nhiên, số lượng các tác phẩm mà các em phải học
lại quá nhiều, chiếm trọn sách Văn học 9 tập 1, trong đó bao gồm 30 bài
học chính thức (Mấy vấn đề sơ lược về Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến
hết thế kỉ XIX; Hịch tướng sĩ; Bình Ngơ đại cáo; Thuật hứng; Bạch Đằng

hải khẩu; Hữu cảm; Truyền kì mạn lục - Chuyện người con gái Nam
Xương; Thượng kinh kí sự - Vào Trịnh phủ; Hồng Lê nhất thống chí Hồi thứ 14; Truyện Kiều; Chị em Thuý Kiều; Mã Giám Sinh mua Kiều;
Kiều ở lầu Ngưng Bích; Kiều gặp Từ Hải; Quỷ Môn Quan; Phản Chiêu
hồn; Bánh trôi nước - Đề đền Sầm Nghi Đống; Qua đèo Ngang; Đi thi tự
vịnh; Lí Thơng lừa Thạch Sanh; Truyện Lục Vân Tiên; Lục Vân Tiên cứu
Kiều Nguyệt Nga; Lục Vân Tiên gặp nạn; Chạy giặc, Thu điếu; Bạn đến
chơi nhà; Năm mới chúc nhau; Thương vợ; Sơ lược về một số thể loại
văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX; Ôn tập) và 17 bài đọc
thêm (Nam quốc sơn hà; Cáo tật thị chúng; Xuân hiểu; Xuân tức sự;
Thính vũ; Lại bài viếng Vũ Thị; Chín mươi; Kiều gặp Kim Trọng, Kiều mắc
lừa Hồ Tôn Hiến; Đánh đu; Chiều hôm nhớ nhà; Vịnh mùa đông; Vịnh
Đổng Thiên Vương; Hàn dạ ngâm; Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga;
Xúc cảnh; Thu vịnh, Hội Tây; Sông Lấp). Chỉ trong một học kì, các em
phải học như vậy là quá sức và nặng nề, dẫn đến tình trạng học sinh biết
nhiều nhưng hiểu khơng sâu.
Nhìn vào bảng thống kê các văn bản văn học trung đại trong chương
trình SGK Ngữ văn THCS hiện nay, rõ ràng ta thấy có sự khác biệt khá lớn
so với SGK cũ. Văn học trung đại ở bậc THCS được dạy học cả văn học
chức năng và văn chương thẩm mỹ, trong đó các văn bản được bố trí, sắp
xếp theo thể loại từ dễ đến khó, phù hợp với trình độ nhận thức của học
sinh ở từng cấp lớp. Văn chương thẩm mỹ gồm các thể loại văn bản: truyện
ngắn, truyện truyền kỳ, thơ, tiểu thuyết chương hồi, tùy bút; Các văn bản
thuộc thể loại văn học chức năng cũng đa dạng: hịch, cáo, chiếu, tấu. Các


10

văn bản thuộc loại văn chương thẩm mỹ được dạy học ở lớp 6, 7, 9. Các
văn bản thuộc loại văn học chức năng được dạy học ở lớp 8. Hình thức văn
bản cũng rất đa dạng, có văn xi, văn vần và văn biền ngẫu. Văn bản được

dạy học có cả bằng chữ Nơm và chữ Hán. Hình thức dạy học: từ dạy chính
khóa đến hướng dẫn học thêm, đọc thêm, với thời lượng phân bố khá hợp lí
cho từng văn bản thuộc từng thể loại bài học.
Toàn bộ phần văn học trung đại Việt Nam được dạy học trong chương
trình là 22 bài, sắp xếp trong 26 tiết trên tổng số 595 tiết của chương trình
Ngữ văn ở THCS. Các tác phẩm văn học trung đại trong giáo khoa hiện
nay nằm rải đều cho cả bốn khối lớp và số lượng văn bản cũng được giảm
tải khá nhiều, chỉ cịn 17 bài gồm cả chính thức và đọc thêm, bên cạnh đó
mức độ khó của từng văn bản cũng được nâng dần lên theo từng khối lớp.
Những tác phẩm ấy được chủ ý sắp xếp theo thể loại: truyện ngắn trung đại
được xếp trong SGK Ngữ Văn 6 tập 1 (Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi
cốt ở tấm lòng). Lên lớp 7, các em lại được học thơ thời trung đại (Nam
quốc sơn hà; Tụng giá hoàn kinh sư; Thiên Trường vãn vọng; trích đoạn
Cơn sơn ca; trích đoạn Chinh phụ ngâm - Sau phút chia li; Qua đèo
Ngang; Bạn đến chơi nhà; Bánh trôi nước). Lớp 8 tập trung các tác
phẩm nghị luận (Chiếu dời đô; Hịch tướng sĩ; trích đoạn Bình Ngơ đại
cáo - Nước Đại Việt ta; Bàn luận về phép học). Lớp 9 đa dạng hơn về thể
loại nhưng trọng tâm là những văn bản văn xuôi: truyện (Chuyện người
con gái Nam Xương, Hồng Lê nhất thống chí), tùy bút (trích đoạn Vũ
Trung tuỳ bút - Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh), truyện thơ Nôm
(Truyện Kiều; Chị em Thuý Kiều; Mã Giám Sinh mua Kiều, Cảnh ngày
xuân; Kiều ở lầu Ngưng Bích; Thuý Kiều báo ân báo oán; Truyện Lục
Vân Tiên; Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga; Lục Vân Tiên gặp nạn).
Việc giảm tải và sắp xếp chương trình như vậy có ý nghĩa lớn đối với cả
người dạy và người học, nó phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lí lứa
tuổi của các em.
Ngồi ra, SGK Ngữ văn hiện nay chú trọng rèn luyện cả 4 kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết (Chương trình và SGK cũ chú trọng nhiều tới kĩ năng
nghe, viết). Đồng thời, SGK Ngữ văn được xây dựng theo hướng tích
hợp: dạy học ba phân mơn trong từng bài học như một thể thống nhất,



11

trong đó mỗi giờ văn, tiếng việt và tập làm văn vừa có u cầu riêng vừa
hịa nhập với nhau để cùng hình thành cho học sinh những kĩ năng, năng
lực tổng hợp.
Đối sánh phần văn học Việt Nam trung đại ở SGK cũ và SGK mới,
chúng ta dễ dàng nhận thấy SGK mới đã có nhiều thay đổi về bài học,
nội dung kiến thức lẫn kĩ năng vận dụng cho học sinh. Do vậy, để dạy học tốt các văn bản trung đại Việt Nam giáo viên và học sinh phải có
một phương pháp dạy học phù hợp. Hiện nay có rất nhiều phương pháp
mới được áp dụng trong các trường học. Để đánh giá khách quan về hiệu
quả của những phương pháp dạy học này, chúng ta cần nhìn lại đơi chút
về thực trạng dạy và học văn học Việt Nam trung đại trong những năm
trước đây.
1.2. Nội dung cơ bản các chỉ thị của Đảng, Nhà nước và các cấp quản
lý liên quan đến nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở THCS
Việc nâng cao chất lượng dạy học trong những năm gần đây luôn
được Đảng Nhà nước và các cấp lãnh đạo quan tâm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt
Nam đã quyết định đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phấn đấu đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta chính là
chất lượng nguồn lực con người. Chất lượng nguồn lực con người lại phụ
thuộc chủ yếu vào chất lượng giáo dục. Cùng với khoa học và công
nghệ, giáo dục đào tạo là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội. Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII đã chỉ rõ: "Giáo dục và đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển
nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô

đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường, nhằm nhanh
chóng đưa giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Thực
hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước" [5, 36]. Vì vậy, nâng cao
chất lượng dạy học là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của các nhà trường, đây
chính là điều kiện để nhà trường tồn tại và phát triển.


12

Và định hướng đổi mới phương pháp dạy và học cũng được xác định
trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương
2 khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998),
được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là
chỉ thị số 15 (4 - 1999). Luật Giáo dục, điều 24.2, ghi rõ: "Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh"
[62, 30].
Phát biểu tại buổi tọa đàm ngày 27/9/2011 về Đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục đào tạo, ngun Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình khẳng
định: “Muốn giáo dục đổi mới căn bản, toàn diện nhất thiết phải thay đổi
cách nghĩ, cách làm giáo dục”. Phân tích về vấn đề này, ngun Phó Chủ
tịch nước cho rằng: “Muốn chuyển biến căn bản và toàn diện thì nhất thiết
phải cải cách giáo dục. Đổi mới hay cải cách, trong trường hợp này, không
đơn thuần là khác biệt về câu chữ. Đổi mới chắp vá, thiếu một tầm nhìn
tổng thể, một kế hoạch đồng bộ như những năm qua và ngay như hiện nay,
khi chưa có một đề án tổng thể, chưa xác định rõ phương hướng của cả hệ
thống giáo dục mà đã tính chuyện làm mới chương trình và sách giáo khoa,

thì đổi mới cách ấy cịn xa mới có tính căn bản và tồn diện. Vấn đề hết sức
cấp bách hiện nay là tình trạng mất cân đối giữa ba bộ phận chính của hệ
thống giáo dục là giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học. Do đó, cần phải rà sốt, xác định rõ vị trí và mục tiêu cụ thể của từng
bộ phận cũng như từng cấp học, từ đó cơ cấu lại hệ thống giáo dục nghĩa là
điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của mỗi bộ phần và cả hệ thống ”.
Trên Tạp chí Ban Tuyên giáo ngày 14/2/2011 PGS.TS. Trần Quốc
Toản có bài viết Đổi mới căn bản toàn diện, mạnh mẽ nền giáo dục Việt
Nam theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI của Đảng với nội dung như sau:
trước hết cần nhận thức sâu sắc tính cách mạng và khoa học của q trình
đổi mới căn bản và tồn diện nền giáo dục. Đây không phải là những sửa
đổi, điều chỉnh nhỏ lẻ, cục bộ, mang tính bề mặt. PGS.TS. Trần Quốc Toản
đưa ra ví dụ về việc giảm tải chương trình giáo dục phổ thông. Giảm tải


13

chương trình giáo dục phổ thơng khơng chỉ đơn giản là giảm khối lượng và
độ khó kiến thức như Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo là loại bỏ
những phần trùng lặp, những phần được cho là quá khó; mà bao trùm hơn
là cần xác định rõ mục tiêu giáo dục phổ thơng có cần đổi mới khơng?
Tương quan giữa giáo dục nhân cách, cung cấp kiến thức và giáo dục kỹ
năng có cần thay đổi khơng? Thay đổi như thế nào? Tỷ lệ và tương quan 3
mặt giáo dục đó ở các cấp Tiểu học, Trung học cơ sở và trung học phổ
thơng có cần thay đổi không?... Rõ ràng vấn đề giảm tải giáo dục trung học
cơ sở không được nghiên cứu thấu đáo trong những tương quan trên thì
việc thực hiện sẽ chỉ là sự “chữa cháy”, không cơ bản, không đạt được
những mục tiêu quan trọng hơn đối với giáo dục.
Do tầm quan trọng, quy mơ, tính chất và nội dung rộng lớn đó, nên
cơng cuộc đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục không thể chỉ giao và là

nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục. Đây là sự nghiệp lớn lao của cả Đảng,
Nhà nước và tồn xã hội. Vì vậy cần có một Ban Chỉ đạo Trung ương (hay
Ban Chỉ đạo Quốc gia) về đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục, với sự
chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Nhà nước, với sự tham gia của
đông đảo các nhà khoa học, quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp và
những người am hiểu sâu sắc về giáo dục…, trong đó ngành giáo dục là
nịng cốt.
Riêng về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn các
cấp lãnh đạo cũng như các cơ quan ban ngành liên quan cũng có rất
nhiều ý kiến.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới về phương pháp giảng dạy bộ mơn
Ngữ văn hiện nay, ngành giáo dục nói chung và mơn Ngữ Văn nói riêng
có một vai trị và nhiệm vụ mới. Vai trò và nhiệm vụ mới này trước đây
đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rất rõ trong bài viết Đổi mới
toàn diện: “Ngày nay sự hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho
nên dù được học trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất có
hạn. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn
luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phương pháp tìm tịi,
phương pháp vận dụng kiến thức, phương pháp vận dụng tốt nhất bộ óc
của mình” [5, 28].


14

Thông báo Kết luận số 242-TB/TW ngày 15/4/2009 về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo
dục và đào tạo đến năm 2020, Bộ Chính trị đã đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải
pháp để đổi mới căn bản, toàn diện, mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào
tạo nước nhà, trong đó có giải pháp "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và
học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy

học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm thời gian giảng lý thuyết, tăng thời
gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, sinh viên”. Do vậy, giáo viên phải
từng bước chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thụ kiến thức một
chiều sang phương pháp dạy học mới, trong đó học sinh dưới sự tổ chức,
gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh bài văn, tự rút ra những
kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa. Có như
vậy, học sinh mới tỏ ra hứng thú và cảm thấy mình cũng là người “đồng
sáng tạo” với tác giả, như quan điểm của mỹ học tiếp nhận.
Tại buổi Hội thảo Dạy học môn Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục phổ thông do trường Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh ngày 25/4/2014, Phó vụ trưởng Giáo dục trung học Đỗ Ngọc
Thống cho rằng: “Chương trình môn Văn hiện chạy theo số lượng, giáo viên
buộc học sinh phải học quá nhiều tác giả, tác phẩm, ngữ pháp... Với cách học
này, dù cố gắng đến mấy cũng sẽ khiến học sinh nhàm chán khi phải nhớ
nhiều kiến thức, trong đó một số kiến thức quá cao sâu chưa cần thiết với các
em". Ông cũng cho rằng, chương trình môn Văn 3 cấp học được biên soạn
tách biệt nên có nhiều nội dung chồng chéo, vừa thừa lại vừa thiếu. Chương
trình cũng quá cứng nhắc, không phù hợp với các vùng miền và không phân
loại được đối tượng học khác nhau. Đặc biệt, những người dạy văn, chương
trình đào tạo ra người dạy văn cũng quá quen với lối tư duy cũ nên sẽ rất khó
thay đởi. Ơng khẳng định việc đởi mới chương trình dạy môn Ngữ văn hiện
nay là cần thiết.
Theo TS. Nguyễn Văn Kha - nguyên giảng viên Ngữ văn Đại học Đà
Lạt, nhiều gia đình luôn muốn con mình học các khối tự nhiên để dễ tìm
việc và có thu nhập tốt. Đây chính là những áp lực đè lên giáo viên dạy văn
khi vừa phải cố gắng truyền lửa cho học sinh, vừa phải chịu áp lực từ định
kiến dư ḷn về mơn học này. Ơng cho rằng, để đổi mới chương trình môn


15


học cần phải lấy người học làm trọng tâm và thay đổi lối dạy khuôn sáo,
nhàm chán hiện tại mới hy vọng lôi kéo được học sinh.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng tiêu chí quan trọng hàng đầu của
giáo dục hiện nay là đào tạo học sinh trở thành những con người năng
động, chủ động, biết vận vận dụng và sáng tạo những gì đã học được trên
ghế nhà trường vào trong đời sống, góp phần phát triển xã hội. Tiêu chí này
đã làm thay đổi khơng nhỏ đến hệ thống giáo dục nước ta trong những năm
gần đây. Đó là cải cách chương trình đặc biệt là thay đổi phương pháp
giảng dạy. Bộ môn Ngữ văn cũng chuyển mình để phù hợp với mục tiêu
chung đó. Theo đó, các văn bản được đưa vào nhà trường thường hướng đến
việc bồi dưỡng và nâng cao năng lực văn học cho học sinh, đặc biệt là chú
trọng đến việc đọc - hiểu của các em. Làm được điều này không dễ dàng bởi
hiện nay học sinh ngày càng lạnh nhạt với mơn Văn. Có rất nhiều ngun
nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân lớn nhất là do phương pháp
giảng dạy của giáo viên chưa thật sự cuốn hút.
Nâng cao chất lượng dạy học là vấn đề cấp thiết của giáo dục Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Hiện đang có những biện pháp đổi mới
mạnh mẽ về nội dung và phương pháp dạy học. Chất lượng dạy học sẽ
được nâng cao khi hoạt động dạy và hoạt động học đi vào trúng quỹ đạo
của nó, tức là cả người dạy và người học đều đi đúng hướng, có những
phương pháp và biện pháp để đi đến đích của hoạt động dạy và hoạt động
học. Trong những năm vừa qua đã có biết bao nhiêu tìm tịi, sáng tạo của
biết bao nhiêu nhà nghiên cứu, nhà giáo dục cho cơng cuộc đổi mới
phương pháp dạy học nói chung và đổi mới dạy học Ngữ văn nói riêng.
Người dạy đã không ngừng nỗ lực học tập, nghiên cứu để tìm ra hướng
đi đúng thực hiện tốt vai trị của người dẫn đường giúp học sinh tìm đến
những giá trị văn chương. Về phía người học ít nhiều cũng đã chuẩn bị
được những tâm thế làm chủ hoạt động, hoạt động khá tích cực và tự
giác để lĩnh hội kiến thức bài học. Thế nhưng kết quả thu được vẫn chưa

khả quan, chất lượng dạy và học vẫn là vấn đề cần quan tâm. Nằm trong
sự chi phối chung ấy mơn Ngữ văn ở nhà trường phổ thơng nói chung
THCS nói riêng cũng khơng tránh khỏi những hệ lụy nói trên. Là người
giáo viên dạy văn ở bậc THCS cũng như những giáo viên ở các cấp học


16

khác, thuộc các bộ môn khác nhau, chúng tôi cũng luôn băn khoăn, trăn trở
làm thế nào để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dạy và học môn
học mà mình đảm trách.
Qua những điều trên, một lần nữa ta có thể khẳng định rằng phương
pháp giảng dạy có một vai trị rất quan trọng trong q trình dạy học, nó
quyết định sự thành bại của một tiết học. Nằm trong tình hình chung đó,
việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn Văn cũng như đổi mới
phương pháp dạy học văn học trung đại ở bậc THCS là một điều cấp thiết .
1.3. Điều kiện văn hóa, xã hội, giáo dục của quận Phú Nhuận
Quận Phú Nhuận có diện tích 5 km², là một quận nội thành của Thành
phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận nằm về hướng Tây Bắc, cách trung tâm
thành phố 4,7 km theo đường chim bay, được xem là quận cửa ngõ ra vào
phía Bắc của khu trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh.
Do nằm về hướng Tây Bắc của thành phố đồng thời cách trung tâm
thành phố 4,7 km theo đường chim bay nên quận Phú Nhuận được tiếp giáp
với 5 quận:
Phía Đơng giáp với quận Bình Thạnh.
Phía Tây giáp quận Tân Bình.
Phía Nam giáp quận 1 và quận 3.
Phía Bắc giáp quận Gò Vấp.
Quận Phú Nhuận hiện được chia làm 15 phường bao gồm: Phường 1,
Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 7, Phường 8, Phường

9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15,
Phường 17.
Quận Phú Nhuận có mạng lưới giao thơng đường bộ khá hồn chỉnh,
khơng những đảm bảo sự thơng thống cho lưu thơng nội thị mà cịn có các
trục đường chính đi đến sân bay, nhà ga, hải cảng và các cửa ngõ của thành
phố để đi khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Yếu tố này tạo điều kiện
thuận tiện cho việc mở mang, giao lưu, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội
tại địa bàn quận Phú Nhuận.
Cơ cấu kinh tế quận phát triển theo xu hướng dịch vụ thương mại,
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Các loại hình dịch vụ cao cấp như tài
chính, tín dụng, văn phòng cho thuê, nhà ở cao cấp, dịch vụ du lịch…đang


17

phát triển mạnh. Về công nghiệp phát triển các ngành sản xuất sạch, kỹ
thuật cao.
Cơ cấu dân cư của quận chuyển dịch theo hướng phù hợp với đặc
điểm của một địa bàn nằm gần trung tâm thành phố. Bên cạnh trên 20.000
cán bộ cơng chức (tại chức và hưu trí) của quận, thành phố và các cơ quan
Trung ương trú đóng trên địa bàn, phần lớn dân cư là cơng nhân - lao động
tập trung trong hơn 1.450 doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, bộ phận dân
cư còn lại là tiểu thương trong 11.560 hộ kinh doanh cá thể, học sinh - sinh
viên ... Gần 10% dân số có trình độ đại học và sau đại học. Tồn dân đã có
trình độ trung học cơ sở và có 3 phường thực hiện xong phổ cập phổ thông
trung học.
Đời sống kinh tế của quận Phú Nhuận phát triển khá cao nên nhu cầu
nâng cao dân trí trong những năm gần đây ln được các cấp lãnh đạo đặt
lên vị trí hàng đầu. Hiện tại quận có 12 trường Tiểu học, 6 trường cấp
THCS và 3 trường cấp THPT được bố trí rải đều trên địa bàn quận, giúp

cho người dân có điều kiện thuận lợi trong việc đưa con em đến trường. Đa
số các em trong độ tuổi đến trường trong địa bàn quận đều có sự hậu thuẫn
rất lớn từ phía gia đình và Xã hội, hỗ trợ người giáo viên trong công tác
giảng dạy.
1.4. Điều tra thực trạng dạy học văn học Việt Nam trung đại ở các
trường THCS quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh
Để thực hiện luận văn, bản thân người nghiên cứu đã thực hiện khảo
sát trên ba trường THCS tại địa bàn quận Phú Nhuận: trường THCS Ngô
Tất Tố - nơi người viết đang công tác, trường THCS Cầu Kiệu, và trường
THCS Độc Lập. Chúng tôi đã thực hiện khảo sát phiếu thăm dò điều tra về
thực trạng dạy học văn học Việt Nam trung đại với giáo viên và học sinh
của ba trường.
1.4.1. Thực trạng giảng dạy văn học Việt Nam trung đại của giáo viên
ở các trường THCS quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh
Việc giảng dạy văn học Việt Nam trung đại ở trường trung học cơ sở
quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh có những thuận lợi và những khó
khăn nhất định.
1.4.1.1. Thuận lợi


18

Về mặt thuận lợi, môn Ngữ văn là môn học chính trong nhà trường,
được dạy ở tiểu học, THCS, THPT. Môn Ngữ văn được dạy học từ 5 đến 6
tiết trong tuần. Môn Ngữ văn được phân bố dạy với số tiết nhiều trong một
tuần như vậy đồng nghĩa với việc kiến thức bài học môn Ngữ văn sẽ nhiều
hơn các mơn học khác, sẽ có nhiều bài học hay, bổ ích để cho người dạy và
người học có cơ hội khám phá. Ngoài ra việc phân bố thời gian đó giáo viên
và học sinh có nhiều thời gian hơn để tìm hiểu văn bản.
Trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở, phần văn học Việt Nam

trung đại là một trong những trọng tâm. Các tác phẩm văn học trung đại
trong giáo khoa hiện nay phân bố ở cả bốn khối lớp và số lượng văn bản
cũng được giảm tải khá nhiều, chỉ cịn 17 bài gồm cả chính thức và đọc
thêm. Các văn bản văn học trung đại trong chương trình SGK Ngữ văn
THCS hiện nay được được bố trí, sắp xếp theo thể loại từ dễ đến khó, phù
hợp với trình độ nhận thức của học sinh ở từng cấp lớp.
Thuận lợi tiếp theo là về phía giáo viên. Hiện nay tất cả giáo viên tại
địa phương quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh đều được bồi dưỡng
kiến thức lý luận văn học, lý luận dạy học cũng như kiến thức về văn học.
Đa số giáo viên tốt nghiệp đại học từ mười năm trở lại đây, được trang bị
kiến thức hiện đại, toàn diện và có phương pháp dạy học mới. Số giáo viên
này đều đang trở thành nòng cốt cho các trường.
Những tác phẩm văn học Việt Nam trung đại được tuyển chọn vào
chương trình THCS khơng nhiều nhưng mỗi bài một vẻ. Tất cả đều thể hiện
được nội dung tư tưởng tốt đẹp, thấm đượm chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa nhân đạo nên rất gần gũi với giáo viên và học sinh hơm nay. Các văn
bản chứa đựng trong đó rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống cùng những
vui, buồn, trăn trở của người xưa nên rất có ích cho tuổi trẻ ngày nay. Những
tác phẩm này là sản phẩm của công cuộc dựng nước lâu dài gian khổ và vẻ
vang của các thế hệ tiền bối. Vì vậy, thế hệ trẻ hôm nay kế tục sự nghiệp
thiêng liêng của tổ tiên, sẽ biết quý trọng bộ phận di sản đó, cảm nhận được
ý chí và tấm lịng của cha ơng khơng chỉ vì cơ nghiệp đương thời mà cịn vì
giang sơn để lại cho hậu thế. Ngoài ra, các văn bản này lại có hình thức nghệ
thuật độc đáo tạo nhiều hứng thú cho người dạy và người học.


19

Thực hiện luận văn này chúng tôi đã tiến hành những cuộc điều tra
trắc nghiệm với 40 giáo viên dạy Ngữ văn Trung học cơ sở ở các

trường nói trên với câu hỏi: “Theo anh (chị), dạy học văn học Việt Nam
trung đại ở trung học cơ sở hiện nay có những thuận lợi gì?”, đã có
100% người được hỏi đồng ý với đáp án: “Những văn bản văn học Việt
Nam trung đại trong chương trình là những tác phẩm có tính nhân văn
và giá trị thẩm mĩ, có tác dụng bồi đắp và ni dưỡng tư tưởng tình
cảm cho học sinh, tạo nên điều kiện cho giáo viên dạy tốt, học sinh có
hứng thú học”. Sự thống nhất trong quan điểm của những người đang
trực tiếp giảng dạy đó càng khẳng định giá trị đặc thù của văn học Việt
Nam trung đại. Đây là một thuận lợi chủ yếu của việc dạy học văn học
Việt Nam trung đại ở THCS hiện nay.
Ngoài ra, hiện nay tài liệu tham khảo khá phong phú: sách học tốt, sách
giáo viên, thiết kế bài giảng, các cơng trình nghiên cứu, phê bình của nhiều tác
giả đã giúp người dạy, người học có nhiều điều kiện thuận lợi để tìm ra cho mình
những định hướng chính xác khi tiếp cận văn bản Việt Nam thời trung đại.
1.4.1.2. Khó khăn
Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân và dự giờ lên lớp của các
đồng nghiệp chúng tơi nhận thấy cịn những tiết dạy văn học trung đại Việt
Nam chưa tốt. Việc giảng dạy văn học Việt Nam trung đại của giáo viên trong
quận Phú Nhuận vẫn cịn tồn tại một số khó khăn cần giải quyết. Phần lớn
giáo viên rất ngại giảng dạy giai đoạn văn học này. Việc rút ngắn khoảng cách
thẩm mỹ để học sinh dễ dàng tiếp nhận là điều không đơn giản. Số giáo viên
thế hệ 7X, 8X, 9X ngày càng đông, vốn kiến thức, hiểu biết về văn hóa, văn
học thời trung đại hạn chế. Do đó, dẫn đến tình trạng khơng ít giáo viên đã
hiện đại hóa tác phẩm, giảng dạy văn học trung đại cũng như giảng dạy văn
học hiện đại, lí giải tác phẩm một cách chung chung rồi qui vào các giá trị yêu
nước, nhân đạo mà không giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của tác
phẩm, không hiểu được cái độc đáo của nhà văn. Một số giáo viên lại nặng về
giảng giải nội dung, phân tích các sự kiện lịch sử, giảng dạy văn học Việt
Nam trung đại không khai thác hết các giá trị thẩm mỹ của văn chương cổ.
Bảng 2: Điều tra về những khó khăn của dạy học văn học Việt Nam

trung đại ở các trường THCS quận Phú Nhuận


20

Những khó khăn của dạy học
văn học Việt Nam trung đại

Tổng số phiếu:
40

Tỉ lệ
( %)

1

Chưa nắm rõ cách thức cụ thể để
tiếp cận từng thể loại của văn học
Việt Nam trung đại

21

52,5

2

Chưa tìm được phương pháp dạy
học thích hợp với bản thân và phù
hợp với học sinh


15

37,5

3

Học sinh chưa thực sự tích cực và tự
giác trong hoạt động học

26

65

4

Do thiếu tài liệu

16

40

STT

Nhiều giáo viên THCS chưa nắm rõ cách thức cụ thể của việc tiếp
cận từng thể loại của văn học Việt Nam trung đại. Văn học trung đại
Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn đầu đã sử dụng một hệ thống thể
loại vay mượn như: hịch, chiếu, biểu, cáo,… hay thơ Đường luật.
Những thể loại văn học cổ này nếu khơng mang tính chất hành chính
quan phương thì cũng chịu những luật định về vần, niêm, luật, đối rất
khắt khe, không dễ làm và không phải ai cũng làm được. Trong các văn

bản văn học ấy có rất nhiều điển tích, điển cố, những từ ngữ cổ, được
viết dưới nhiều dạng thể loại văn học mà ngày nay không cịn tồn tại,
tạo nên tâm lí xa cách trong cả người học lẫn người dạy. Các tác giả
văn học trung đại thường khơng nói hết, khơng nói trực tiếp ý mình mà
để cho người đọc suy ngẫm cảm thụ. Ngơn ngữ văn học Việt Nam
trung đại tinh luyện hàm súc tạo nên những dư ba, lời ít ý nhiều, ý tại
ngôn ngoại. Bởi vậy giảng dạy văn học Việt Nam trung đại cho học
sinh thật sự là một công việc đầy thử thách. Cái khó lớn nhất là phải
vượt qua hàng rào ngôn ngữ để hiểu và cảm cái hay, cái đẹp, sự thâm
thúy của người xưa trong những tác phẩm. Từ đó gây khó khăn khơng
nhỏ đối với người giáo viên đứng lớp khi truyền tải, phân tích sâu ngữ
nghĩa của văn bản văn học Việt Nam trung đại.
Ngôn ngữ ra đời và tồn tại trong những thời gian và không gian
nhất định, phản ánh sinh hoạt vật chất và tinh thần của các dân tộc và ở


21

các thời đại, bởi vậy bản dịch khơng thể hồn tồn như ngun tác, thẩm
chí có những trường hợp sự khác biệt rất đáng kể. Do vậy, việc hiểu sai
hoặc chưa đầy đủ các lớp nội dung ý nghĩa cũng như vẻ đẹp hình thức
nghệ thuật của các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại là rất hay xảy
ra. Đa số các em học sinh hiện nay khi tiếp cận thơ Đường luật đều cảm
thấy rất khó khăn vì các bài thơ Đường luật được đưa vào trong chương
trình đều được viết bằng chữ Hán hay chữ Nơm. Chính điều này đã gây
khó khăn cho người giáo viên vì khi còn là sinh viên ở các trường Đại
học, họ được trang bị kiến thức về chữ Hán và chữ Nơm khơng nhiều
nên giờ đây khó khăn nhiều trong q trình nghiên cứu và giảng dạy.
Giáo viên dạy chủ yếu qua bản dịch. Nếu giáo viên không biết chọn lựa,
mà đưa nhiều kiến thức chuyên sâu sẽ càng làm cho những khó khăn đó

nhiều hơn, lớn hơn. Và kết quả là, thay vì u thích thì các em sẽ thấy e
ngại, thậm chí sợ hãi những giá trị văn chương này.
Kho tàng văn học Việt Nam trung đại đã mất mát khá nhiều theo
thời gian do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan: hoàn cảnh
đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh loạn lạc, sách vở bị thiêu hủy,
do các vụ án chính trị có liên quan đến các nho sĩ quan liêu (lực lượng
sáng tác chủ yếu của văn học trung đại), công tác bảo tồn sưu tầm tác
phẩm văn học cổ chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng
nhiều tác phẩm văn học trung đại đến nay bị thất lạc khơng cịn nữa.
Tác phẩm văn học Việt Nam trung đại vừa thiếu vừa tồn tại tản mác
lại vừa có nhiều dị bản. Điều này gây khó khăn lớn trong việc tiếp
nhận tác phẩm đối với cả người dạy và người học ở THCS. Các tác
phẩm văn học Việt Nam trung đại đều tồn tại dưới dạng văn bản dịch
chứ không phải nguyên tác mà văn bản dịch nhất là các văn bản dịch
thuộc thể loại trữ tình khơng thể nào chuyển tải hết ý nghĩa của văn
bản gốc. Nhiều khi văn bản dịch còn làm sai lạc nội dung câu chữ của
văn bản gốc. Vì vậy nếu khơng có vốn hiểu biết về Hán Nơm đến mức
nào đó thì người dạy và người học sẽ không hiểu đúng tác phẩm.
Các giáo viên dạy Ngữ văn chương trình lớp 6, 7, 8, 9 và học sinh
THCS đều cho rằng khi dạy và học văn học Việt Nam thời trung đại
gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận cịn vì đặc điểm của loại hình


22

văn học này là hiện tượng văn sử triết bất phân. Văn học là tấm gương
phản chiếu cuộc sống. Những sự kiện lịch sử lớn có ảnh hưởng tới sự ra
đời của những tác phẩm văn học. Văn sử triết bất phân trong sáng tác
địi hỏi người giáo viên khơng chỉ có sự từng trải hay kiến thức văn
học, lý luận mà còn phải am hiểu nhiều lĩnh vực kiến thức, nhất là về

lịch sử, văn hóa, tư tưởng mới có thể khám phá giá trị của tác phẩm.
Lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam cùng với các khái niệm,
phạm trù đầy tính trừu tượng, biến hóa của các hệ tư tưởng ngoại nhập
Nho - Phật - Đạo không phải là những kiến thức dễ chuyển tải. Điều
này quả là một đòi hỏi cao với giáo viên và học sinh trong cấp THCS.
Trong quá trình dạy những tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại
nếu người dạy khơng nắm vững lịch sử thì khó dạy thành cơng tác
phẩm. Nhưng nếu khơng cẩn thận thì sẽ biến giờ dạy Ngữ văn nghiêng
về giờ dạy Lịch sử.
Khó khăn nữa đối với việc giảng dạy văn học Việt Nam trung đại
là việc đổi mới phương pháp. Trong những năm gần đây, g iáo viên
trong quận Phú Nhuận mặc dù đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy
học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử
nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Họ thực sự chưa
tìm được phương pháp dạy học thích hợp với bản thân và phù hợp với
học sinh. Một số giáo viên vẫn cịn thói quen dạy học theo kiểu truyền
thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi
nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà giáo viên đã truyền đạt. Cho
rằng văn học trung đại Việt Nam xa lạ, khó hiểu nên đa số giáo viên
chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm,
hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình cho học sinh. Nhiều giáo viên
chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh
cũng như việc chỉ ra cho người học con đường tích cực chủ động để
thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy văn học Việt Nam trung
đại được giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết, thậm chí giáo
viên cịn đọc chậm cho học sinh chép lại nhiều nội dung của giáo án.
Giờ học tác phẩm văn chương vì thế chưa thu hút được sự chú ý của
người học. Hơn nữa, khơng ít giáo viên đứng lớp chưa được trang bị



×