Tải bản đầy đủ (.doc) (160 trang)

Giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường trung học cơ sở tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.27 KB, 160 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ HIÊN

GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG,
ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
CƠ SỞ TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGHỆ AN - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ HIÊN

GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG,
ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
CƠ SỞ TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học lịch sử
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Đình Tùng



NGHỆ AN - 2014


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành được luận văn này tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS Trịnh Đình Tùng – Người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn tơi
trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, cùng tồn
thể các thầy cơ trong tổ bộ môn LL và PPDH Lịch sử đã dìu dắt tơi trong
những năm tháng học tập tại trường Đại học Vinh.
Cảm ơn Ban lãnh đạo trường Đại học Vinh và Ban giám hiệu các
trường THCS Ninh Bình nơi tôi tiến hành điều tra và thực nghiệm đã tạo
điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành luận văn này.
Cuối cùng tơi xin bày tỏ tình cảm sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè đã
động viên, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và hồn
thành luận văn này.
Ninh Bình, ngày 10 tháng 9 năm 2014
Tác giả

Phạm Thị Hiên


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNXH
GD&ĐT
THCS
THPT
PTTH

NXB
GV
HS
XHCN

:
:
:
:
:
:
:
:
:

Chủ nghĩa xã hội
Giáo dục và đào tạo
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Phổ thông trung học
Nhà xuất bản
Giáo viên
Học sinh
Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC
MỞ

1



ĐẦU……………………………………………………………….
1. Lí do chọn đề

1

tài……………………………………………………..
2. Lịch sử nghiên cứu vấn

3

đề……………………………………….......
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề

7

tài…………………………..
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên

8

cứu……………………………………..
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên

8

cứu………………
6. Đóng góp của luận

9


văn………………………………………………
7. Giả thuyết khoa

9

học………………………………………………….
8. Ý nghĩa của luận

9

văn…………………………………………………
9. Cấu trúc của luận văn………………………………………………
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC

10
11

GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT
NƯỚC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA
PHƯƠNG Ở TRƯỜNG THCS ……………………………….
………………….
1.1. Cơ sở lý

11

luận………………………………………………………
1.1.1. Quan niệm về truyền thống yêu quê hương, đất nước

11


………..
1.1.2. Quan niệm về giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất 18
nước ………………………………………………………………….
….......
1.1.3.

Quan

niệm

về

lịch

sử

địa 20


phương..............................................
1.1.4. Bộ môn lịch sử với việc giáo dục truyền thống yêu quê

22

hương, đất nước cho học sinh
THCS…………………………………………
1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục truyền thống yêu quê 24
hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở
trường

THCS…………………………………………………………...
1.1.6. Nội dung giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho 29
học sinh trong dạy học lịch sử địa
phương……………………………..
1.2. Cơ sở thực tiễn……..

30

……………………………………………..
1.2.1. Thực tiễn công tác giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất 30
nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS
hiện nay………………………………………………………………
1.2.2. Thực tiễn việc giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất

33

nước trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS tỉnh Ninh
Bình……..
1.2.3. Những yêu cầu chung khi tiến hành giáo dục truyền thống

46

yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa
phương ở trường
THCS……………………………………………………………
Tiểu kết chương 1…………………………………………………….. 53
CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ GIÁO DỤC TRUYỀN 54
THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG
THCS


TỈNH

NINH

BÌNH…………………………………………….
2.1. Nội dung kiến thức lịch sử địa phương cần cung cấp để tiến 54


hành giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học
sinh



trường

THCS

tỉnh

Ninh

Bình………………………………………
2.1.1. Chương trình lịch sử địa phương ở trường THCS tỉnh Ninh

54

Bình.
2.1.2. Nội dung kiến thức…………………………………………… 54
2.2. Các biện pháp giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất 68

nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường
THCS

tỉnh

Ninh

Bình……………………………...

…………………………
2.2.1. Các biện pháp giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất

68

nước cho học sinh trong bài học nội
khóa……………………………………
2.2.2. Giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh

86

trong bài học ngoại khóa
………………………………………………
2.3. Thực nghiệm sư phạm………………………………………..
2.3.1. Mục đích thực nghiệm………………………………………..
2.3.2. Đối tượng thực nghiệm............................................................
2.3.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm………………………
2.3.4. Kết quả thực nghiệm………………………………………….
Tiểu kết chương2…..…………………………………………………
KẾTLUẬN……………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM

KHẢO……………………………………………..
PHỤLỤC……..……………………………………………………….

108
108
108
109
110
113
115
118


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam đã được hình thành
suốt hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, thì nổi trội
hơn cả là tinh thần yêu nước. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: tình cảm và tư
tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc
Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử
Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và
nhân sinh của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định:
“Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi
nổi. Nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”[46;171].


Thế hệ trẻ hôm nay được sinh ra và lớn lên trong hịa bình, được thụ

hưởng những điều kiện thuận lợi trong học tập, sinh hoạt và có nhiều cơ hội
đầy đủ phát triển bản thân. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều thanh thiếu niên chưa nhận thức đầy đủ những giá trị thiêng liêng của cuộc sống
hiện tại mà các thế hệ cha anh đi trước đã phải đánh đổi bằng xương máu
mới có được. Bên cạnh đó, vẫn cịn một bộ phận lớp trẻ thờ ơ với thời cuộc,
thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, sống thực dụng, thiếu lý
tưởng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, với xu thế “Toàn cầu hóa”, mọi giá
trị truyền thống đang bị thay đổi thì việc giáo dục lịng u q hương, đất
nước càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu của ngành
giáo dục là “ bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, u q hương, gia
đình và tự tơn dân tộc, lý tưởng XHCN, nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật,
tinh thần hiếu học…”[19;9]. Tiếp đó, chỉ thị số 14/2011 CT – TTG ngày
11/06/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình và sách
giáo khoa phổ thơng có mục tiêu là: “Nâng cao chất lượng giáo dục tồn
diện, tăng cường cho thế hệ trẻ lịng u nước, u q hương, gia đình, tinh
thần tự tơn dân tộc”[3;149]. Như vậy, giáo dục thế hệ trẻ hiện nay phải giáo
dục con người có lịng u q hương, đất nước. Đặc biệt, trước tình hình
Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào
vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, đe dọa hịa bình, ổn định an ninh, an toàn
và tự do hàng hải ở Biển Đơng thì cơng tác giáo dục thế hệ trẻ, giáo dục
truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc càng trở nên cấp thiết và có ý
nghĩa quan trọng đối với dân tộc ta.
Trong các môn học ở bậc trung học, mơn Lịch sử là mơn học có “sở
trường và ưu thế trong việc giáo dục truyền thống dân tộc, nổi bật là lịng
u nước”, bởi thơng qua các bài học lịch sử, học sinh có thể nhận thức được


truyền thống hào hùng, những giá trị văn hóa của dân tộc ta được xây nên
bằng mồ hôi, máu và nước mắt của bao thế hệ cha ông. Để từ đó các em có
cái nhìn, ý thức đúng đắn về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, nhất là trong

bối cảnh hội nhập hiện nay. Bên cạnh những nội dung của lịch sử dân tộc thì
những nội dung của lịch sử địa phương cũng góp phần quan trọng vào giáo
dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ, đặc biệt là truyền thống yêu quê
hương, đất nước, giáo dục cho học sinh niềm tự hào về nơi “ chôn rau cắt
rốn” của mình, tự hào về dân tộc, đất nước mình. Biết tơn trọng và bảo vệ
các di sản văn hóa, di tích lịch sử địa phương. Do vậy, việc giáo dục truyền
thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa
phương là một công việc quan trọng, cần thiết.
Tuy nhiên thực tiễn dạy học hiện nay, môn Lịch sử không được chú
trọng nhiều bởi nhiều giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh chỉ coi đây
là mơn học phụ, học cho có hoặc khơng học cũng được. Điều này dẫn đến
tình trạng học sinh không muốn học, thầy không hứng thú dạy hay học một
cách chống đối, thờ ơ. Chính vì vậy những tiết học lịch sử thường diễn ra
tình trạng đọc-chép, nhàm chán. Lịch sử dân tộc đã thế, học lịch sử địa
phương lại càng không được quan tâm bởi mỗi năm học chỉ có vài tiết, lại
thường được thầy cơ dùng để dạy bù chương trình. Đồng thời để chuẩn bị
cho một tiết dạy lịch sử địa phương tốt thường phải bỏ ra rất nhiều cơng sức
tìm tịi, sưu tầm tài liệu. Việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho tiết dạy lịch sử địa
phương rất mất thời gian, dạy học lịch sử địa phương thì khơng gắn với thực
tiễn.
Xuất phát từ những lí do trên nên tơi đã chọn đề tài: “Giáo dục truyền
thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học Lịch sử địa
phương ở trường THCS tỉnh Ninh Bình” làm luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử.


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngồi.
Ở nhiều nước, nhất là các nước có nền giáo dục phát triển, công tác
nghiên cứu về địa phương để thơng qua đó giáo dục lịng u q hương rất

được chú trọng.
Ở Nga, sau cách mạng Tháng Mười, theo chỉ thị của V.I.Lênin, văn
kiện giáo dục đầu tiên của Liên bang Xơ Viết (1918), đã nêu rõ nội dung,
hình thức, phương pháp dạy, học lịch sử địa phương ở trường phổ thông.
Việc dạy, học lịch sử địa phương được tiến hành trong bài nội khóa và hoạt
động ngoại khóa với khẩu hiệu: “Sống, làm việc ở làng, thành phố, vùng quê
hương”. Vào những năm 80 của thế kỷ XX trong các cơng trình: “Lịch sử
địa phương” do G.N.Matixin chủ biên, 1980; “Phương pháp công tác lịch sử
địa phương” do N.X.Bôrixôp chủ biên, 1982, các tác giả đã chỉ rõ phương
pháp nghiên cứu, biên soạn, dạy học lịch sử địa phương và đặc biệt “phải
làm cho học sinh hứng thú với q trình nhận thức lịch sử địa phương mình”
có như vậy các em mới yêu mảnh đất quê hương, mới giáo dục được truyền
thống của quê hương.
Ở Anh, qua các cơng trình nghiên cứu và những chia sẻ trên những
diễn đàn giáo dục như: www.balh.co.uk (website của Hiệp hội lịch sử địa
phương ở Anh); www.le.ac.uk (website của Đại học Leicester, một trung
tâm nghiên cứu lịch sử địa phương ở Anh)… có thể thấy việc giáo dục
truyền thống qua dạy học lịch sử địa phương rất được coi trọng. Ngồi hình
thức dạy học trên lớp, giáo viên lịch sử còn tổ chức giáo dục, học tập, nghiên
cứu lịch sử địa phương tại các di tích, bảo tàng, hướng dẫn học sinh trải
nghiệm cuộc sống địa phương, tiếp xúc và phỏng vấn nhân chứng và người
dân địa phương.


Ở Mĩ và Canada, việc giáo dục truyền thống trong dạy học lịch sử địa
phương đặc biệt được chú trọng, học sinh ngay từ tiểu học đã được học về
lịch sử địa lý của bang, của tỉnh mình đang sống. Trong chương trình giảng
dạy mơn lịch sử được đưa vào khá sớm và được quy định rõ ràng trong
Chuẩn quốc gia môn lịch sử. Ngay từ mẫu giáo, những kiến thức lịch sử đã
được lồng ghép trong các bài giảng của giáo viên. Học sinh mẫu giáo được

làm quen với những kiến thức sơ đẳng về lịch sử và địa lý, về mối quan hệ
giữa quá khứ và hiện tại thông qua các câu chuyện, nhân vật, địa danh lịch
sử ở địa phương mình đang sống. Đối với học sinh tiểu học, bước đầu cho
các em làm quen với những nhân vật lịch sử, những tấm gương yêu nước
thông qua những câu chuyện lịch sử, truyền thuyết dân gian. Từ đó xây dựng
cho học sinh niềm tin vào tính cách, bản lĩnh của những nhân vật lịch sử,
những con người có thật trong lịch sử. Đồng thời cho các em thấy những tác
động, ảnh hưởng của họ đối với lịch sử phát triển của dân tộc, của bang và
địa phương. Chính từ những nhân vật đó mà hình thành tình cảm yêu mến,
kính trọng đối với những anh hùng đã xả thân cho Tổ quốc. Để các em thêm
yêu và tự hào về quê hương, đất nước mình [10; 192, 193].
Ở Trung Quốc, việc giảng dạy lịch sử địa phương cũng được quan
tâm. Trong chương trình bắt buộc của bộ mơn lịch sử ở trường THCS và
THPT, mỗi tháng có một tiết dạy bằng phương pháp thực tế về lịch sử địa
phương. Kiến thức lịch sử địa phương còn được đưa vào trong nội dung
kiểm tra, đánh giá. Điều này phát huy được giá trị lớn trong việc giáo dục
truyền thống quê hương nơi học sinh theo học [10].
2.2. Tài liệu trong nước
Giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh không phải
là một đề tài mới và đã được đề cập đến trong nhiều tài liệu.


Trong quyển “Phương pháp dạy học lịch sử” của GS. Phan Ngọc Liên,
PGS. Trần Văn Trị (chủ biên), NXB Giáo dục, 2001, khi nói đến chức năng
và nhiệm vụ của môn lịch sử các tác giả đã khẳng định “Cung cấp cho học
sinh những hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, xã hội và con người của quê
hương…từ lòng yêu quê hương đến lòng yêu nước, yêu CNXH, họ đã được
chuẩn bị để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH ngay trên mảnh đất quê
hương”.
Quyển “Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử” của GS Phan

Ngọc Liên, PGS Trịnh Đình Tùng, GS Nguyễn Thị Cơi, TS Trần Vĩnh
Tường đồng chủ biên, NXB ĐHQG Hà Nội, 2002 có chuyên đề “Giáo dục
học sinh qua dạy học lịch sử” gồm nhiều bài viết của các tác giả có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn trong công tác giáo dục. Các bài viết đã khẳng định sự
cần thiết của việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước. Đặc biệt là
bài “ Khai thác nội dung truyền thống yêu nước qua khóa trình lịch sử dân
tộc để giáo dục cho học sinh phổ thông” của tác giả Trần Vĩnh Tường đã nêu
rõ giáo dục lòng yêu nước là ưu thế của bộ môn lịch sử và khẳng định “Mỗi
quốc gia, dân tộc đều có cương vực lãnh thổ riêng, đều gắn liền với những
yếu tố địa lý, khí hậu, thời tiết, đặc biệt là có lịch sử của mình…Người dân
nào cũng có lịng u nước, biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước là tinh
thần đấu tranh bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ quốc”. Bài viết còn đề cập đến
một số biện pháp cụ thể nhằm giáo dục truyền thống cho học sinh.
Ngoài ra, trong một số sách tham khảo khác như quyển “Giáo dục
truyền thống” của Lê Văn Tám, NXB Thanh Niên, 1978, hay quyển “Truyền
thống yêu nước trong lịch sử Việt Nam” của Cao Minh, NXB Thanh Niên,
1999. Quyển “Tìm hiểu hoạt động giáo dục truyền thống yêu nước bảo về tổ
quốc qua dạy học lịch sử dân tộc từ thế kỉ X đến 1930” của tác giả Trương
Hữu Qnh, Nguyễn Thị Cơi, Nguyễn Thái Hồng. NXB Quân đội, 1994…


đều đề cập đến nội dung giáo dục truyền thống u q hương, đất nước ở
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên chưa có cuốn tài liệu nào đề
cập một cách tồn diện và cụ thể các hình thức cũng như biện pháp để giáo
dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh ở trường THCS.
Trong các cuốn sách nghiên cứu về lịch sử địa phương như cuốn
“Nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương” - Kỷ yếu Hội thảo
khoa học toàn quốc do Khoa Lịch Sử trường Đại học Vinh phối hợp với Hội
Giáo dục lịch sử Việt Nam, Viện khoa học giáo dục tổ chức vào tháng
6/2002 tại Nghệ An trình bày những vấn đề chung về lịch sử địa phương

cũng đã khẳng định vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của lịch sử địa phương
trong giáo dục đạo đức, tư tưởng, truyền thống yêu quê hương, đất nước cho
thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Bên cạnh các tác phẩm cịn có nhiều bài viết trên các tạp chí cũng đề
cập đến vấn đề này. Bài “Mấy biện pháp nâng cao giáo dục qua một bài lịch
sử” của PGS Trịnh Đình Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 5, 1988, đã
đề ra cách dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh trong quá trình nhận thức, tăng cường hiệu quả giáo dục của giờ
học đặc biệt là giáo dục lòng yêu nước. Bài “Giáo dục truyền thống dân tộc
cho thế hệ trẻ qua môn lich sử” của GS Phan Ngọc Liên, PGS Trịnh Đình
Tùng, GS Nguyễn Thị Cơi, Tạp chí Nghiên cứu lich sử, số 2, 1992, đã khẳng
định giá trị to lớn của việc giáo dục truyền thống dân tộc. Bài “ Giáo dục
lòng yêu quê hương cho học sinh phổ thông qua dạy học lịch sử địa phương”
của TS Trần Quốc Tuấn, Tạp chí Giáo dục, số 69, 2003. Tác giả đã nhấn
mạnh đến tác dụng của giảng dạy lịch sử địa phương để giáo dục truyền
thống yêu quê hương cho học sinh, đưa ra một số nguyên tắc và hình thức để
tiến hành giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước cho học sinh phổ thông
qua dạy học lịch sử địa phương.


Ngồi ra, chúng tơi cũng tiếp cận và tham khảo các Luận án, Luận văn
của nghiên cứu sinh, học viên cao học ở nhiều trường trong nước như Luận
văn thạc sĩ “Giáo dục lòng yêu quê hương cho học sinh PTTH trong dạy học
lịch sử địa phương ở Nghĩa Bình” của Trần Quốc Tuấn, 1986. Luận văn thạc
sĩ “Giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy
học lịch sử địa phương ở trường THPT tỉnh Bắc Giang”, Phan Thị Hiến,
2012. Luận văn thạc sĩ “Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS
huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang qua môn Lịch sử” của Nguyễn Thị Định,
1999. Nhìn chung, những luận văn trên đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho học sinh trong

dạy học lịch sử dân tộc cũng như lịch sử địa phương. Song cho đến nay, trong
dạy học lịch sử địa phương vẫn chưa có cơng trình khoa học, một luận văn,
luận án nào nghiên cứu sâu về giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước
cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS tỉnh Ninh
Bình. Đây cũng là mong muốn của chúng tôi được giải quyết trong phạm vi
đề tài này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giáo dục truyền thống yêu quê
hương, đất nước cho học sinh ở trường THCS tỉnh Ninh Bình trong quá trình
dạy các bài lịch sử địa phương.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là luận văn đi sâu vào việc giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh qua những tiết dạy học
lịch sử địa phương ở trường THCS Ninh Bình.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Đề tài đi sâu vào xác định các nội dung và biện pháp sư phạm
cụ thể trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS tỉnh Ninh Bình. Qua


đó, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn lịch sử, đặc biệt là lịch sử địa
phương.
Nhiệm vụ:
+ Tìm hiểu cơ sở lí luận về cơng tác giáo dục truyền thống yêu quê
hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường
THCS.
+ Nghiên cứu thực trạng việc giáo dục truyền thống yêu quê hương,
đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS hiện
nay.
+ Tiến hành điều tra tình hình dạy học và thực trạng giáo dục truyền
thống yêu quê hương đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa
phương ở Ninh Bình để rút ra kết luận.

+ Đề xuất các biện pháp sư phạm để giáo dục truyền thống yêu quê
hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương.
+ Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra đánh giá làm cơ sở rút
ra các kết luận khoa học.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận.
+ Dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về truyền thống yêu nước.
+ Dựa trên những thành tựu nghiên cứu mới về lý luận giáo dục, tâm
lý học, phương pháp dạy học lịch sử của các nhà giáo dục học và giáo dục
lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.


+ Nghiên cứu các tác phẩm của các tác gia kinh điển, chủ tịch Hồ Chí
Minh bàn về giáo dục, về truyền thống yêu nước.
+ Nghiên cứu Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các văn bản của Bộ
Giáo dục và đào tạo liên quan đến đề tài.
+ Nghiên cứu các cơng trình của các nhà khoa học lịch sử, khoa học
giáo dục.
+ Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa lịch sử THCS, tài liệu địa
phương.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Quan sát giáo dục.
+ Điều tra giáo dục.
+ Phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục.
+ Thực nghiệm giáo dục để đánh giá tính khả thi của việc giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh THCS ở tỉnh Ninh Bình.
6. Đóng góp của luận văn.

Luận văn nêu cao vị trí, vai trị và ý nghĩa của việc giáo dục truyền
thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong các tiết dạy lịch sử địa
phương ở các trường THCS nói chung và ở trường THCS tỉnh Ninh Bình
nói riêng.
Phản ánh thực trạng giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước
cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS trên cả nước
nói chung và ở Ninh Bình nói riêng.
Đề xuất các biện pháp để giáo dục truyền thống yêu quê hương đất
nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học bộ mơn Lịch sử.


7. Giả thuyết khoa học.
Nếu vận dụng các biện pháp được nêu ra trong luận văn để giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh sẽ góp phần nâng cao
giáo dục nhân cách cho học sinh. Đồng thời nâng cao chất lượng dạy học
mơn lịch sử nói chung và lịch sử địa phương nói riêng.
8. Ý nghĩa của luận văn.
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong
phú thêm lý luận và phương pháp để giáo dục truyền thống yêu quê hương,
đất nước trong dạy học lịch sử địa phương.
Về mặt thực tiễn: Giúp bản thân và các giáo viên dạy lịch sử có cách
nhìn nhận lại vai trị và ý nghĩa của việc giáo dục truyền thống yêu quê
hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương, vận dụng
các hình thức và biện pháp để giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất
nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS tỉnh
Ninh Bình.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục nội dung
luận văn gồm 2 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục truyền thống
yêu quê hương, đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở
trường THCS.
Chương 2: Các biện pháp để giáo dục truyền thống yêu quê hương,
đất nước cho học sinh trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THCS tỉnh
Ninh Bình.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
TRUYỀN THỐNG YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở TRƯỜNG THCS

1.1. Cơ sở lý luận.
1.1.1. Quan niệm về truyền thống yêu quê hương, đất nước
* Quan niệm về truyền thống.
Muốn giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho học sinh,
trước hết chúng ta phải làm rõ khái niệm “truyền thống”.
Truyền thống trong tiếng gốc La tinh là “Lat Traditio” nghĩa là lưu
truyền, luân chuyển, trao lại, mang lại. Và từ nghĩa gốc này mà trên thế giới
cũng như ở Việt Nam có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về “truyền
thống”. Theo “Bách khoa từ điển Xơ Viết” thì “Truyền thống là những yếu
tố di truyền văn hóa, xã hội truyền từ đới này sang đời khác và được lưu giữ


trong các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội trong một quá trình lâu dài. Truyền
thống thể hiện trong một chế định xã hội, chuẩn mực của hành vi, các giá trị
tư tưởng, phong tục, tập quán và lối sống. Truyền thống tác động đến mọi xã
hội và tất cả mọi lực lượng trong đời sống xã hội”[ 2; 1339].
Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa ngắn gọn hơn:

“Truyền thống là quá trình chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác
những yếu tốt xã hội và văn hóa, những tư tưởng, chuẩn mực xã hội và giai
cấp trong một thời gian dài”[61; 630]
Trong từ điển tiếng Việt, “truyền thống” là từ được dùng khá rộng rãi.
Có thể gắn cụm từ truyền thống với các loại hình cộng đồng như truyền
thống gia đình, truyền thống dòng họ, hay truyền thống của một địa phương,
một vùng, rộng hơn là của một dân tộc, một khu vực như truyền thống Châu
Á, truyền thống phương Đông… Người ta cũng có thể nói đến truyền thống
hình thành trong một lĩnh vực nào đó như truyền thống văn hóa, truyền
thống cần cụ lao động, truyền thống yêu nước… Tuy nhiên khi sử dụng cụm
từ truyền thống, người ta thường ít hoặc không quan tâm đến nội hàm khái
niệm, cho nên khi nói đến truyền thống của một cộng đồng hay một lĩnh vực
nào đó thì thường đồng nhất truyền thống với lịch sử (hay đúng hơn là
những mặt, những khía cạnh tích cực trong lịch sử) của cộng đồng hay lĩnh
vực đó. Thực chất truyền thống được hình thành trong q trình lịch sử
nhưng khơng phải là lịch sử.
Thơng thường, khi nói đến truyền thống của các loại hình cộng đồng,
truyền thống trong một lĩnh vực nào đó hay truyền thống của dân tộc ta
thường nhắc đến những truyền thống tốt đẹp, nổi bật có sức trường tồn bền
vững. Chính vì vậy mà có người cho rằng truyền thống là những giá trị văn
hóa tinh thần tốt đẹp của dân tộc, khơng có truyền thống xấu chỉ có truyền


thống tốt. “Thực ra truyền thống và giá trị truyền thống có khác nhau.
Truyền thống về khách quan mà xét bao gồm cả tốt và xấu, hay và dở, tích
cực và tiêu cực. Nhưng khi nói giá trị truyền thống là đã có nghĩa gạn lọc.
Hơn nữa, truyền thống vốn là sản phẩm của cuộc sống, sản phẩm của lịch
sử, bản thân nó ln ln biến đổi và tùy theo quan điểm của các giai cấp,
thời đại khác nhau” [29; 80]. Hay nói một cách dễ hiểu như Giáo sư Trần
Văn Giàu thì truyền thống có cái tốt, cái xấu nhưng khi nói đến giá trị truyền

thống thì ở đây chỉ có cái tốt bởi cái tốt mới được gọi là giá trị. Và những
giá trị đó theo tiến trình lịch sử không ngừng được nuôi dưỡng, bồi đắp.
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu truyền thống là tất cả
những gì được hình thành trong cuộc sống được lặp đi lặp lại nhiều lần trong
lịch sử để trở thành nề nếp, thói quen và đạt tới giá trị chuẩn mực trên các
lĩnh vực trong lối sống, trong tư duy, trong ứng xử, trong cung cách làm ăn.
Truyền thống có ba đặc trưng:
Một là, truyền thống có tính ổn định và bền vững tương đối, lặp đi lặp
lại qua các thế hệ trở thành thói quen, tập quán trong xã hội, trong cộng đồng
người. Truyền thống có sức sống dai dẳng, tồn tại lâu dài. Cái nhất thời
không phải là truyền thống.
Hai là, truyền thống mang tính cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận.
Ba là, truyền thống mang tính lưu truyền từ đời này sang đời khác góp
phần quy định những chuẩn mực ứng xử, giá trị, tư tưởng, lễ nghi trong cộng
đồng người và trong xã hội.
Đã là truyền thống phải có đủ ba đặc trưng trên bởi truyền thống là
sản phẩm của cuộc sống, sản phẩm của lịch sử. Nó được sinh ra từ cuộc
sống của con người nên cũng giống như con người, những yếu tố truyền


thống chịu sự tác động của các yếu tố địa lý, tự nhiên, lịch sử, văn hóa, lao
động, sản xuất, xã hội và cả sự giao lưu khu vực và quốc tế. Vì vậy nó ln
biến đổi tùy theo quan điểm của các giai cấp và thời đại khác nhau. Từ nhận
thức trên sẽ khiến chúng ta có cách ứng sử phù hợp với truyền thống trong
hiện tại, không nên quá sùng bái truyền thống nhưng cũng không khinh
thường. Bởi nếu sùng bái một cách thái quá, không phân biệt đâu là giá trị
tích cực, đâu là mặt tiêu cực của truyền thống, khơng tính đến những biến
đổi khách quan của thời đại mà cứ đề cao truyền thống sẽ dẫn đến trì trệ, bảo
thủ. Ngược lại, nếu coi thường truyền thống trong giải quyết vấn đề của hiện
tại và tương lai, cắt đứt với truyền thống sẽ dẫn đến phá hủy tính kế thừa

trong sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đặc biệt là trong điều kiện lịch sử hiện nay, khi nước ta đang hội nhập
với thế giới thì càng phải giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy truyền thống của
người Việt Nam. Trong hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung Ương,
Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: “Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc
thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại
hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân
tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân
tộc khác” [17; 6]. Bởi vậy, việc giáo dục truyền thống cho mỗi cá nhân trong
xã hội là việc làm cần thiết và phải được duy trì thường xuyên để gìn giữ,
bảo tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp đó.
* Quan niệm về truyền thống yêu quê hương, đất nước.
Một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt từ xưa đến nay
chính là truyền thống yêu quê hương, đất nước: “Cá quen sông, chim luyến
tổ, con người sao không yêu quê hương”. Yêu quê hương, đất nước là tình
cảm tự nhiên của con người ở bất cứ dân tộc nào chứ khơng riêng gì ở Việt


Nam. Song ở Việt Nam tình cảm ấy trở thành ý thức, tư tưởng, và cao hơn là
chủ nghĩa yêu nước.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là “nguyên
tắc đạo đức về chính trị mà nội dung là tình u, lịng trung thành, ý thức
phục vụ Tổ quốc. Xã hội nguyên thủy đã có mầm mống của chủ nghĩa yêu
nước, dựa trên tình cảm máu mủ giữa các thành viên của thị tộc hay bộ lạc.
Từ khi xã hội nguyên thủy tan rã, tình cảm tự nhiên gắn bó với quê hương,
tiếng mẹ đẻ, các truyền thống… kết hợp với nhận thức về nghĩa vụ của
người dân đối với cả cộng đồng xã hội đã được thiết lập. Cùng với sự hình
thành dân tộc và nhà nước dân tộc, chủ nghĩa yêu nước từ chỗ chủ yếu là
một yếu tố trong tâm lý xã hội, đã trở thành hệ tư tưởng. Nó trở thành lực
lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, động viên mọi người đứng lên bảo vệ tổ

quốc chống lại mọi cuộc xâm lược. Chủ nghĩa u nước chân chính thể hiện
ở lịng trung thành với tổ quốc vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân, bảo vệ
sự sinh tồn của dân tộc và đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước”[61;
518]
Đối với người dân nước ta, tình cảm đối với quê hương là thứ tình
cảm thiêng liêng, cao đẹp trở thành máu thịt, lẽ sống của con người “Quê
hương mỗi người chỉ một, quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi
thành người”. Nhưng nếu nói thế thì dường như con người chỉ yêu quê
hương thì phải. Thực ra tình u q hương, tình u đất nước ln quyện
chặt với nhau khơng tách biệt. Nói đến q hương là nói đến đất nước và
ngược lại bởi trong lòng người Việt Nam thì quê hương và đất nước là một.
Quê hương hay q hương nhỏ chính là xóm làng, là nơi có cha mẹ, anh chị
em, họ hàng, mồ mả ơng bà, là nơi có mái đình, cây đa, bến nước. Là nơi có
những gì gần gũi, thân thuộc nhất. Q hương không chỉ là nơi ta sinh ra và


lớn lên, nơi “chơn rau cắt rốn” mà cịn là nơi lưu giữ tuổi thơ với những kỷ
niệm ngọt ngào nhất như trong lời một bài hát “Quê hương là chùm khế ngọt
cho con trèo hát mỗi ngày, quê hương là con đị nhỏ êm đềm khua nước ven
sơng”. Cịn quê hương lớn là đất nước, ở nơi đó có tất cả đồng bào cùng
tiếng nói, phong tục, lịch sử dân tộc. Ở đó khơng có sự phân biệt “q anh”
“quê tôi” mà tất cả cùng chiến đấu, cùng hi sinh, cùng đổ mồ hôi xương máu
để bảo vệ đất nước, Tổ quốc. Ở đó khơng có sự phân biệt giọng Bắc, giọng
Nam mà cùng là thứ tiếng nói của người Việt Nam, để dù đi năm châu chỉ
cần nghe thấy tiếng nói ấy người ta cũng biết là người Việt Nam. Ở đó có sự
tự hào về Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hồ Chí Minh –
những người anh hùng dân tộc, thậm chí tự hào cả về những chiến sĩ vơ
danh khơng tiếc thân mình thử hỏi như thế sao lại không yêu quê hương, yêu
đất nước được.
Yêu quê hương, đất nước là thứ tình cảm tự nhiên của con người

nhưng không phải ngay từ khi sinh ra đã có, mà nó được hình thành trong
lao động sản xuất, trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.
Từ lòng yêu quê hương nhỏ, gắn với việc bảo vệ quê hương dần được phát
triển thành lịng u q hương lớn, u q hương chính là u đất nước.
u nước khơng chỉ là tình cảm mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ đối với đất
nước trong mọi hoàn cảnh.
Đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước là biểu hiện rõ nét
nhất của lòng yêu nước. Hay nói cách khác u nước chính là ý thức sâu sắc
về độc lập, chủ quyền đất nước và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển
của tổ quốc. Núi sơng bờ cõi của nước Việt Nam có được là thành quả lao
động, dựng xây và giữ gìn của biết bao thế hệ. Trong lịch sử, ngay từ thế kỷ


XI chủ quyền ấy đã được khẳng định một cách chắc chắn trên thực tế và trên
cơ sở pháp lý.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Mọi người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác luôn ý thức sâu
sắc về chủ quyền và bảo vệ chủ quyền của mình, bảo vệ từng tấc đất ngọn cỏ
của đất nước Việt Nam. Lịch sử là một minh chứng hùng hồn nhất cho
những khẳng định trên. Từ thế kỷ thứ III TCN, dân tộc ta đã đánh tan cuộc
xâm lược đầu tiên của bọn phong kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ
năm 179 TCN đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương
Bắc (tổng cộng 1117 năm). Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng
cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường, sự vươn lên thần kỳ của dân
tộc ta và kết thúc với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này
là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan quân Tống,
nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên – Mông, Lê Lợi đánh bại quân Minh,

Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh… Rồi đến những thắng lợi vang dội của
các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến tranh
tàn khốc đó, nếu khơng có tinh thần u nước, lịng tự hào tự tơn dân tộc thì
làm sao một dân tộc nhỏ yếu như chúng ta có thể làm nên những chiến cơng
vang dội, đánh thắng được những kẻ thù mạnh nhất thế giới. Lòng yêu nước
ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước,
sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản
thân mình, đấu tranh khơng biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước,


×