BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN VIẾT NĂM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO
VIÊN CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC BÁN TRÚ TRUNG
HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUAN SƠN TỈNH THANH HOÁ
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An, năm 2014
MỤC LỤC
i
Trang
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Mai Văn Trinh, người hướng dẫn khoa
học đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và làm luận
văn.
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Khoa đào
tạo sau Đại học - trường Đại học Vinh, quý thầy giáo, cô giáo đã tham gia quản lý,
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành khóa
học.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng chí lãnh đạo Phòng Giáo dục
và Đào tạo huyện Quan Sơn, Ban giám hiệu, tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn,
quý thầy cô giáo của các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS ở huyện Quan
Sơn; cảm ơn gia đình, bạn bè cùng quý đồng nghiệp đã cung cấp tài liệu, động viên,
khích lệ và giúp đỡ về mọi mặt trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn.
Do điều kiện thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn, luận văn tốt nghiệp
của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của hội đồng khoa
học, quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Thanh Hóa, tháng 09 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Viết Năm
iii
Danh mục ký hiệu chữ viết tắt
BGH Ban Giám hiệu
CBGV Cán bộ giáo viên
CBQL Cán bộ quản lý
CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân
CNH Công nghiệp hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
DTNT Dân tộc nội trú
GD Giáo dục
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GV Giáo viên
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
HĐH Hiện đại hóa
HĐND Hội đồng nhân dân
HS Học sinh
PGD Phòng Giáo dục
PGD&ĐT Phòng Giáo dục và Đào tạo
PTDTBT Phổ thông dân tộc bán trú
QLGD Quản lý giáo dục
SKKN Sáng kiến kinh nghiệm
TH Tiểu học
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thong
TW Trung ương
UBND ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XHHGD Xã hội hóa giáo dục
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội XI của Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế, văn hóa
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh. Giáo dục đào tạo có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, quyết định
thành công của công cuộc xây dựng đất nước. Trong đó “Giáo dục và đào tạo có
sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam”.
Ngày 04/11/2013, Đảng ta đã ban hành nghị quyết số 29/NQ/TW “Về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế” đã được Hội nghị Trung ương 8 khóa XI thông qua. Trong đó xác định:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết ”. Về quan điểm
chỉ đạo trong định hướng đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục và Đào tạo. Văn kiện
Đại hội đã nêu phải “Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài
công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối
với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu,
vùng xa và các đối tượng chính sách”.
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội, phát triển giáo dục và đào tạo là
động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội. Nghị quyết TW2 khóa VIII, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với các
nhà hoạch định về giáo dục nói chung, với ngành giáo dục, các nhà quản lí giáo
dục, đội ngũ giáo viên nói riêng đó là tăng cường đổi mới công tác quản lí một cách
mạnh mẽ, nâng cao chất lượng giáo dục thực sự để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của xã hội. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra sản phẩm đó là những con người có
năng lực thực sự, có kiến thức về chuyên môn và xã hội, sẵn sàng và tự tin bước
vào cuộc sống góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với sự quan
1
tâm của Đảng và nhà nước quan tâm đến chính sách cán bộ giáo viên, học sinh
vùng đặc biệt khó khăn, các trường Phổ thông Dân tộc bán trú. Chúng ta tin tưởng
rằng sự nghiệp giáo dục sẽ có được những chuyển biến mạnh mẽ, tạo tiền đề đáp
ứng tốt hơn yêu cầu hình thành lớp thanh niên có năng lực công dân mới, phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
Đối với các trường bán trú, Đảng và nhà nước đã có nhiều chế độ chính sách
hỗ trợ cho giáo viên và học sinh các trường bán trú đã chia sẻ một phần khó khăn
đối với cán bộ giáo viên và học sinh các trường bán trú.
Để đáp ứng nhu cầu của giáo dục ngày càng co đòi hỏi đội ngũ giáo viên
phải được chuẩn hóa, có kiến thức, kỹ năng, phương pháp giảng dạy phù hợp với
thời đại. Trong đó đội ngũ giáo viên các trường PTDTBT THCS cũng phải không
ngừng học tập, đổi mới phương pháp, dạy học phù hợp với vùng miền, đặc điểm
văn hóa địa phương. Thực tế hiện nay giáo viên ở các trường PTDTBT THCS ở
huyện Quan Sơn cũng đã từng bước quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy
học, kiểm tra đánh giá học sinh, dạy học phù hợp với điều kiện thực tiễn và vùng
miền Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học, tự học và bồi dưỡng
nghiệp vụ chuyên môn. Tuy nhiên đội ngũ giáo viên các trường Phổ thông Dân tộc
bán trú Trung học cơ sở ở huyện Quan Sơn vẫn không khỏi bộc lộ những hạn chế
đó là: Năng lực và sự nhiệt tình của đội ngũ quản lý và giáo viên trong nhà trường,
điều kiện kinh tế- xã hội ở địa phương, cơ sở vật chất trường lớp học, các phương
tiện ứng dụng công nghệ vào dạy học chưa đáp ứng được nhu cầu…
Xây dựng đội ngũ nhà giáo ngày càng vững mạnh là việc làm thường xuyên
liên tục và trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục nói riêng và các
cấp ủy đảng, chính quyền nói chung. Nhất là trong giai đoạn hiện nay đất nước
đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ hội nhập quốc tế, với
mục tiêu phấn đấu năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, việc bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo phát triển toàn diện ngang tầm thời đại
càng có ý nghĩa hết sức quan trọng, là yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự thắng lợi.
Chất lượng giáo dục và đào tạo phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó đội ngũ giáo
viên là rất quan trọng, có vai trò quyết định trong truyền thụ và định hướng toàn bộ
hoạt động tiếp thu lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng của học sinh, đồng thời là lực
2
lượng trực tiếp tác động, định hướng sự phát triển nhân cách của học sinh. Tinh
thần thái độ của học sinh không chỉ phụ thuộc vào điều kiện, phương tiện, nội dung
bài giảng mà còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ phẩm chất năng lực của giáo viên.
Học sinh nắm vững kiến thức đến đâu một phần tùy thuộc vào phẩm chất năng lực
của người dạy.
Thực tế cho thấy bên cạnh những ưu điểm, những mặt mạnh đã đạt được thì
một bộ phận của đội ngũ nhà giáo vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập về trình
độ, phẩm chất, năng lực. Ngày nay, trước sự tác động của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, trước yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc càng đòi hỏi coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Điều đó càng đòi hỏi phải không ngừng xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất
và năng lực cao. Do vậy, việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở
các nhà trường hiện nay.
Chuẩn hóa đội ngũ cả về cơ cấu, số lượng, chất lượng đã và đang là chủ
trương lớn của Đảng, được Đảng ta đặc biệt quan tâm: Nghị quyết TW2 khóa VIII
của Đảng đã khẳng định: Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và
được xã hội tôn vinh - giáo viên phải có đủ sức đủ tài. Báo cáo của Bộ Chính trị tại
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW khóa IX đã nêu “Đặc biệt quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, đủ sức đủ tài cùng với đội ngũ nhà giáo và
toàn xã hội chấn hưng nền giáo dục nước nhà” và “ Chú trọng việc nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống của nhà giáo.
Chỉ thị số 40/CT-TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư về việc xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã khẳng định:
“Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn
hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm tay nghề của nhà giáo;
thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo
dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày
càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3
Trong những năm qua, huyện Quan Sơn cũng đã quan tâm và có nhiều biện
pháp trong việc xây dựng đội ngũ giáo viên các trường PTDTBT, hiện nay đội ngũ
giáo viên các trường PTDTBT THCS huyện Quan Sơn tương đối đảm bảo về số
lượng, trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn ngày càng được nâng cao, ngày càng
đáp ứng được yêu cầu của giáo dục.
Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, trước yêu cầu
của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đội ngũ giáo viên các trường PTDTBT
THCS huyện Quan Sơn vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: Nhiều loại hình đào
tạo, số lượng vừa thiếu vừa thừa, cơ cấu đội ngũ mất cân đối giữa các bộ môn.
Trình độ chuyên môn - nghiệp vụ tay nghề của một bộ phận giáo viên còn yếu chưa
đáp ứng được mục tiêu giáo dục toàn diện và yêu cầu đổi mới giáo dục, chưa gương
mẫu trong đạo đức, lối sống. Bên cạnh đó một bộ phận giáo viên tốt nghiệp hệ cử
tuyển thực tế năng lực sư phạm còn yếu, nhiều người được đào tạo không đúng với
năng lực thực có. Vẫn biết phát triển đội ngũ này là thực hiện chủ trương của Đảng
và Nhà nước về đào tạo nguồn cán bộ địa phương; chủ trương chính sách thì đúng
song trong quá trình thực hiện thì còn nhiều thiếu sót.
Ngày 2 tháng 8 năm 2010 Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Ban hành
Thông tư số 24/2010/TT-BGDĐT về Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ
thông dân tộc bán trú. Tại điều 4 của Quy chế này quy định tên trường được quy
định như sau: Trường + phổ thông dân tộc bán trú + cấp học + tên riêng
Trường PTDTBT được tổ chức và hoạt động theo quy định của Điều lệ trường
tiểu học, Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học.
Mô hình trường Phổ thông dân tộc bán trú tại huyện Quan Sơn có 7/14 các
trường THCS là trường bán trú THCS. Trường phổ thông dân tộc bán trú là trường
chuyên biệt dành cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư
lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn. Trường phổ thông
dân tộc bán trú cấp trung học cơ sở phải có trên 50% trở lên là người dân tộc thiểu
số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú. Việc dạy học ở các trường chuyên
biệt cũng phải có những biện pháp riêng, đòi hỏi người giáo viên THCS không
những có những kiến thức kỹ năng sư phạm như mọi giáo viên khác, người giáo
viên dạy ở những trường đặc thù- vùng đặc biệt khó khăn phải có những kỹ năng
4
riêng, có giải pháp phù hợp với đặc thù vùng miền, đặc thù vùng dân tộc thiểu số.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên các trường phổ thông dân tộc bán trú THCS huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh
Hóa", làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành “Quản lý giáo dục”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường PTDTBT THCS
huyện Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa.
3 . Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý đội ngũ giáo viên các trường
PTDTBT THCS huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
các trường PTDTBT THCS.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu và đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học, hợp lý và
khả thi thì sẽ nâng cao được chất lượng đội ngũ giáo viên các trường PTDTBT
THCS huyện Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về giải pháp nâng cao chất lượng ngũ giáo viên
các trường PTDTBT THCS.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên các trường PTDTBT
THCS huyện Quan Sơn, Thanh Hóa.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng ngũ giáo viên các trường
PTDTBT THCS huyện Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nghiên cứu các văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước, của
ngành, của tỉnh, các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Khảo sát, điều tra, thu thập số liệu của thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên
cứu. Phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học.
6.3. Phương pháp thống kê toán học: Để xử lý số liệu điều tra, thăm dò tính khả thi.
5
7. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ giáo viên, đội ngũ giáo
viên THCS, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường Phổ thông
DTDTBT THCS.
- Xây dựng được các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các
trường PTDTBT THCS.
- Giải pháp này có thể áp dụng để nâng cao chất lượng ngũ giáo viên các
trường PTDTBT THCS huyện Quan Sơn và một số huyện miền núi có đặc điểm
tương đồng.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên các trường phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở.
- Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên các trường phổ thông
dân tộc bán trú huyện Quan Sơn- tỉnh Thanh Hoá.
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng ngũ giáo viên các
trường phổ thông Dân tộc bán trú Trung học cơ sở huyện Quan Sơn, tỉnh
Thanh Hóa.
6
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC
BÁN TRÚ TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, trong tiến trình phát triển đất nước, không có một quốc gia nào,
một dân tộc nào lại không quan tâm đến phát triển giáo dục.
Kỳ họp lần thứ 27 năm 1993 của UNESCO tại Pháp, khi nói đến vai trò của
giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đã khẳng định: “Giáo dục là chìa khoá
tiến tới một xã hội tốt hơn, vai trò của giáo dục là phát triển tiềm năng của con
người, giáo dục là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để tiến vào tương lai, giáo dục là quyền
cơ bản nhất của con người, giáo dục là điều kiện tiên quyết để thực hiện nhân
quyền, dân chủ, hợp tác trí tuệ, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau”
Giáo dục là phương tiện mà xã hội dùng để đổi mới và phát triển điều kiện
sinh tồn của chính bản thân xã hội. Giáo dục có vai trò to lớn trong việc tái sản xuất
sức lao động và thức tỉnh tiềm năng sáng tạo trong mỗi con người, tạo môi trường
cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đến lượt mình, sự phát triển kinh tế - xã hội lại
tác động trở lại tạo điều kiện cho giáo dục phát triển.
Đảng và Nhà nước Việt Nam ta, ngay từ khi lập nước đã rất quan tâm đến giáo
dục, coi sự dốt nát (do thiếu giáo dục) nguy hiểm như giặc ngoại xâm; ngày nay,
càng coi trọng giáo dục, coi giáo dục là "quốc sách hàng đầu", toàn xã hội rất chăm
lo đến sự nghiệp giáo dục. Vì mọi người nhận thức được: Giáo dục ngày nay được
coi là nền tảng cho sự phát triển khoa học kỹ thuật, là cội nguồn để "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thành tựu 20 năm đổi mới, giáo dục nước ta đã phát triển một cách rõ rệt về
quy mô, đa dạng hóa các loại hình trường lớp. Chất lượng giáo dục đã có những
chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đội ngũ
cán bộ giáo viên đa số được đào tạo chuẩn về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp đã
góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, những thành tựu nói trên của giáo dục chưa vững chắc, chưa mang
tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, cầu học tập của nhân dân và yêu cầu hội nhập quốc tế
trong giai đoạn mới.
7
Để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, hội nhập
kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, giáo dục nước ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ
và toàn diện, trong đó có vấn đề xây dựng đội ngũ nhà giáo.
Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư đã xác định, xây dựng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện là “nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước
mắt và mang tính chiến lược lâu dài”. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
phải “được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc
biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, nghề
nghiệp”.
Nghị quyết số 37/2004/QH11 khoá XI, kỳ họp thứ 6 của Quốc hội về giáo dục
cũng nhấn mạnh việc cần thiết phải “tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào
tạo Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo điều kiện
cho nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục thưỡng xuyên tự học tập để cập nhật kiến
thức, nâng cao trình độ, kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục”.
Quyết định số 73/2005/QĐ-TTG ngày 06-04-2005 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, thực hiện Nghị quyết
37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp thứ 6 của Quốc hội về giáo dục đã chỉ rõ sự cần
thiết phải “tập trung chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục”, “bổ sung hoàn thiện cơ chế
chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục”. Chất
lượng giáo dục phụ thuộc rất lớn và chủ yếu vào đội ngũ giáo viên, “Không có hệ
thống giáo dục nào vươn quá tầm những giáo viên làm việc cho nó”. Luật giáo dục
cũng đã quy định “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng
giáo dục”. Vì vậy, muốn đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục thì phải nâng cao
chất đội ngũ giáo viên.
Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ Quan Sơn lần thứ IV (nhiệm kỳ 2010
-2015) khẳng định : Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tích cực xây dựng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hóa về trình độ, đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Mở rộng đa dạng hóa các hính thức giáo dục và nâng
cao chất lượng giáo dục thường xuyên, các trung tâm học tập cộng đồng. Đấy
8
mạnh việc thực hiện phong trào thi đua dạy tốt, học tố gắn với việc thực hiện có
hiệu quả cuộc vận động của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra, khắc phục những
tồn tại, hạn chế trong giáo dục, ngăn chặn các tệ nạn xâm nhập học đường [11, tr
23]
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình của các nhà khoa học trong và
ngoài nước nghiên cứu và đưa ra các giải pháp cơ bản trong việc xây dựng nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên nói chung và đội ngũ giáo viên THCS nói riêng. Đối
với huyện Quan Sơn chưa có công trình nào nghiên cứu việc xây dựng các giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các trường PTDTBT THCS.Việc
nghiên cứu để đưa ra các giải pháp một cách đầy đủ, có tính hệ thống, cập nhật, có
tính chiến lược đối với việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các
trường PTDTBT THCS huyện Quan Sơn có ý nghĩa lớn nhằm hoàn thiện cả về mặt
lý luận lẫn thực tiễn trong việc xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các
trường PTDTBT THCS đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục
và đào tạo và quan điểm chỉ đạo về ưu tiên triển giáo dục và đào tạo đối với các
vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, vùng sâu, vùng xa.
1. 2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm về đội ngũ, đội ngũ giáo viên
Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về đội ngũ. Ngày nay, khái niệm
đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như: Đội ngũ cán
bộ, công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y, bác sỹ đều xuất phát theo cách hiểu của
thuật ngữ quân sự về đội ngũ, đó là: “Khối đông người được tập hợp lại một cách
chỉnh tề và được tổ chức thành lực lượng chiến đấu”.
Theo nghĩa khác “Đó là một tập hợp, gồm số đông người cùng chức năng hoặc
nghề nghiệp thành một lực lượng” [15, tr 328]
Khái niệm đội ngũ tuy có các cách hiểu khác nhau, nhưng đều có chung một
điểm, đó là: Một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng, để thực
hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng nghề nghiệp, nhưng đều
có chung một mục đích nhất định.
Từ các cách hiểu trên, có thể nêu chung : Đội ngũ là một tập thể gồm số đông
người, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có kế
hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.
9
Đội ngũ giáo viên là lực lượng cơ bản trực tiếp tổ chức, thực thi quá trình giáo dục,
thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông đã được quy định tại điều 27 Luật Giáo dục.
1.2.2. Khái niệm đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
Đội ngũ giáo viên THCS là tập thể những người trực tiếp tham gia giảng dạy
bậc THCS. Là lực lượng chủ yếu để tổ chức quá trình giáo dục trong nhà trường
THCS. Chất lượng đào tạo cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ giáo viên.
Một đội ngũ giáo viên am hiểu công việc, tâm huyết với nghề nghiệp có đủ phẩm
chất và năng lực thì nó đóng vai trò tích cực vào thành tích chung của trường. Vì
vậy người quản lý nhà trường – hiệu trưởng- hơn ai hết phải thấy rõ vai trò của đội
ngũ giáo viên để cũng cố và xây dựng lực lượng đó ngày càng vững mạnh.
Đội ngũ giáo viên mạnh phải là đội ngũ nắm vững và thực hiện tốt đường lối
quan điểm giáo dục của Đảng, hết lòng vì học sinh thân yêu. Luôn trung thành với
chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức rõ mục tiêu giáo dục
của Đảng.
Đội ngũ giáo viên mạnh phải là tất cả được đào tạo chuẩn, không ngừng học
tập để trau dồi năng lực phẩm chất, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao
phẩm chất và năng lực, tâm huyết với nghề nghiệp, luôn tra dồi năng lực sư phạm
để thực sự là một tập thể giỏi về chuyên môn.
Đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có ý thức kỷ luật cao, chấp hành tốt các quy chế
chuyên môn, kỷ cương, kỷ luật của nhà trường. Biết coi trọng kỷ luật, thấy kỷ luật
là sức mạnh của tập thể.
Đội ngũ giáo viên mạnh là luôn luôn có ý thức tiến thủ, ý thức xây dựng tập
thể, phấn đấu trong mọi lĩnh vực. Mỗi thành viên phải là tấm gương sáng cho hóc
sinh noi theo.
1.2.3. Khái niệm giáo dục Trung học cơ sở, trường phổ thông dân tộc bán
trú, học sinh bán trú, vùng có kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn
- Giáo dục THCS là một bậc trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay, nó
sau Tiểu học và trước THPT. THCS kéo dài 4 năm (từ lớp 6 đến lớp 9).Thông
thường, độ tuổi học sinh ở trường THCS là từ 11- 15. Hết cấp THCS, học sinh được
xét tốt nghiệp dựa trên thành tích học tập tích lũy 4 năm. Muốn học tiếp trình độ cao
hơn học sinh phải tham dự các kỳ thi tuyển sinh.
10
- Trường THCS là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân.
Trường có tư cách pháp nhân và con dấu riêng.
- Trường phổ thông dân tộc bán trú là trường chuyên biệt, do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em gia
đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này bao gồm trường
phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu
số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú liên
cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có
từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú cấp trung học
cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học
sinh ở bán trú.
- Học sinh bán trú là học sinh đang học tại các trường phổ thông dân tộc bán
trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; trường tiểu học và trung
học cơ sở công lập khác ở vùng này, được ủy ban nhân dân huyện phê duyệt cho
phép ở lại trường để học tập trong tuần do không thể đi đến trường và trở về nhà
trong ngày.
- Vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là vùng được quy định
tại Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg ngày 11
tháng 7 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách xã đặc
biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai
đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II); Quyết định số 69/2008/QĐ-TTg
ngày 25 tháng 8 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt bổ sung
danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư
Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách xã ra khỏi diện đầu tư của Chương trình
135 giai đoạn II; Quyết định số 1105/2009/QĐ-TTg ngày 28 tháng 7 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên
giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách các
xã hoàn thành mục tiêu, ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II; Nghị
11
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về một số
chính sách hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại 62 huyện nghèo và các Quyết
định khác của Thủ tướng bổ sung (nếu có).
1.2.4. Khái niệm giáo viên
Điều 70 khoản 3, Luật Giáo dục ghi rõ “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là GV”[16].
Điều 3, Điều lệ trường phổ thông cũng viết: “GV trường trung học là người làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường gồm: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng,
GV bộ môn, GV làm công tác Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (bí thư, phó
bí thư hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Đoàn) đối với trường trung học có cấp THPT,
GV làm tổng phụ trách đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh (đối với trường có
cấp tiểu học hoặc THCS)[7].
Vai trò của người GV
Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục nước ta hiện nay là nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Phát triển GD&ĐT sẽ tạo ra động lực phát triển
trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó nhân tố con người (đội ngũ
GV) đóng vai trò chủ đạo quyết định chất lượng giáo dục.
Đánh giá vai trò của người thầy trong sự nghiệp giáo dục hiện nay, Đảng ta
khẳng định “GV là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh,
trong sự nghiệp đổi mới giáo dục vị trí vai trò của GV phải nâng lên một tầm cao
mới”.[21]
Với những đặc điểm nổi bật: Sự bùng nổ của tri thức, khoa học và công nghệ;
sự xuất hiện một thế giới phụ thuộc lẫn nhau; sự đối mặt với những vấn đề lớn có
tính toàn cầu, vượt ra ngoài phạm vi mỗi quốc gia, của từng khu vực như dân số và
môi trường…
“Con người là trung tâm của sự phát triển, một xã hội phát triển dựa vào sức
mạnh của tri thức, bắt nguồn từ khai thác tiềm năng của con người, lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản của sự phát triển nhanh chóng và bền
vững. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Việc đặt con
người vào trung tâm của sự phát triển khiến cho giáo dục phải rà soát lại nhận thức
về mục tiêu: Từ chỗ “học để biết” sang nhấn mạnh “học để làm”, rồi “học để cùng
chung sống”, “học để khẳng định mình”, có nghĩa là khuyến khích sự phát triển đầy
12
đủ nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi con người. “Vì lợi ích của bản thân và vì tương
lai của dân tộc, giáo dục phải là công cụ vừa cho cá nhân, vừa cho tập thể nhằm xây
dựng nguồn lực con người thành động lực cho sự phát triển bền vững”[9].
Xu thế đổi mới giáo dục của thế kỷ 21 đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm
chất, năng lực và làm thay đổi vai trò, chức năng của người GV.
Công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, tạo ra những phương tiện,
phương pháp giao lưu mới, tạo cơ hội cho mọi người có thể học dưới nhiều hình
thức theo khả năng và điều kiện cho phép. Giáo dục nhà trường không còn là nguồn
thông tin duy nhất đem đến cho HS các tri thức mới mẻ của loài người mà HS có
thể tiếp nhận thông tin khoa học từ các nguồn khác như: phần mềm dạy học,
Internet, truyền hình. Tuy nhiên, giáo dục nhà trường dưới sự chỉ đạo của GV vẫn là
con đường đáng tin cậy và hiệu quả nhất giúp cho thế hệ trẻ tiếp thu có mục đích,
có chọn lọc và có hệ thống những tinh hoa di sản văn hóa, khoa học, nghệ thuật
của loài người và của dân tộc.
Ngày nay khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã và đang đem lại nhiều biến đổi
nhanh chóng trong đời sống kinh tế - xã hội thì GV không chỉ đóng vai trò truyền
đạt các tri thức khoa học mà còn phải phát triển những cảm xúc, thái độ, hành vi và
đảm bảo cho người học biết ứng dụng hợp lý những tri thức đó vào thực tiễn cuộc
sống. Giáo dục phải quan tâm đến sự phát triển của người học ý thức về các giá trị
đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ tạo nên bản sắc tốt đẹp của loài người, vừa kế thừa,
phát triển những giá trị truyền thống, vừa sáng tạo những giá trị mới, thích nghi với
thời đại mới.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển nhanh và nước ta đang tiến hành
CNH, HĐH, người GV phải được đào tạo ở trình độ học vấn cao, không chỉ về khoa
học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ mà còn phải được đào tạo cả về khoa học xã hội
và nhân văn, khoa học giáo dục. Người GV phải có ý thức, nhu cầu và khả năng
không ngừng tự hoàn thiện, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong hoạt
động sư phạm cũng như biết phối hợp nhịp nhàng với tập thể sư phạm nhà trường
trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
Ngày nay phương pháp dạy học đang chuyển từ kiểu dạy học lấy người dạy
làm trung tâm sang kiểu dạy học lấy người học làm trung tâm, từ cách dạy thông
báo đồng loạt, học tập thụ động sang cách dạy phân hóa, học tập tích cực. GV
13
không còn đóng vai trò chính là người truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở,
hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm tòi, tranh luận của HS.
Sự thay đổi này đã phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của HS, song không
phải vì vậy mà vai trò của GV bị giảm xuống mà ngược lại vẫn được nâng lên. Kinh
nghiệm nghề nghiệp của mỗi người GV cho biết thực hiện một tiết dạy theo kiểu
thuyết trình, độc thoại thì dễ hơn dạy một tiết học theo phương pháp tích cực, trong
đó GV tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc hình thành ở HS nhân cách,
phẩm chất, kỹ năng, tri thức để tiếp tục học tiếp ở THPT hoặc đi vào cuộc sống
thông qua các hình thức đào tạo nghề, lao đông giản đơn.
Đặc điểm lao động của người giáo viên Trung học cơ sở
Lao động sự phạm là một dạng lao động nghề nghiệp có những nét đặc thù do
mục đích, đối tượng và công cụ của lao động sư phạm quy định.
Lao động sư phạm thực hiện chức năng di sản văn hóa xã hội, tái sản xuất
sức lao động xã hội đảm bảo sự nối tiếp giữa các thế hệ và làm cho sức lao
động ngày càng hoàn thiện “trí tuệ hóa” cao.
* Mục đích của lao động sư phạm
Mục đích lao động sư phạm của người GV THCS là giáo dục thế hệ trẻ ở tuổi
từ 11 đến 14 sau khi đã hoàn thành chương trình tiểu học, nhằm hình thành ở học
sinh nhân cách, phẩm chất, kỹ năng, tri thức để tiếp tục học tiếp ở THPT hoặc đi
vào cuộc sống thông qua các hình thức đào tạo nghề, lao động giản đơn.
Nước ta tiến hành CNH, HĐH và tiến tới nền kinh tế tri thức đòi hỏi ngành
giáo dục phải đào tạo ra những HS tự chủ, năng động, sáng tạo, có khả năng bảo tồn
và phát huy được bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, biết tiếp thu và chọn lọc
nhưng tinh hoa văn hóa của nhân loại .
* Đối tượng của lao động sư phạm
Đối tượng của lao động sư phạm là những con người, là thế hệ trẻ đang lớn
lên và đang trưởng thành. Đối tượng của lao động sư phạm là cái vốn quý, là tương
lai của dân tộc. Vì vậy, lao động sư phạm càng mang ý nghĩa đặc biệt, càng trở nên
cao quý. Đối tượng này có những đặc điểm: HS không chỉ chịu ảnh hưởng tác động
của GV mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như gia đình, bạn bè, môi
trường xã hội… nên lao động sư phạm có nhiệm vụ điều chỉnh mọi tác động đó,
làm cho chúng mang tính giáo dục. HS (đối tượng của lao động sư phạm) phát triển
14
không theo tỷ lệ thuận với tác động sư phạm mà theo những quy luật của sự hình
thành con người, tâm lý, nhận thức
Trong lao động sư phạm, người GV là chủ thể, người HS là khách thể (đối
tượng). Song người HS không chỉ là đối tượng mà còn là chủ thể của lao động sư
phạm. Vì vậy, quá trình sư phạm chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi phát huy được tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của HS.
* Công cụ lao động sư phạm
Công cụ lao động của người GV là hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
mà người GV cần nắm và truyền đạt cho HS. Tuy nhiên những yếu tố trên chưa đủ
đảm bảo hiệu quả của lao động sư phạm. Vì thế nhân cách của người GV, với tất cả
những vẻ đẹp của tâm hồn, sự phong phú của trí tuệ, và sự trong sáng về đạo đức là
phương tiện quan trọng có ý nghĩa to lớn và quyết định hiệu quả của công tác giáo
dục.
* Sản phẩm của lao động sư phạm
Sản phẩm của lao động sư phạm là con người. Nhưng đó là con người đã
trưởng thành về nhân cách nhờ được giáo dục và đào tạo họ có được hành trang cần
thiết bước vào cuộc sống, không ngừng thích ứng với thời đại thông tin và nền kinh
tế tri thức.
Nhiệm vụ và quyền hạn của giáo viên Trung học cơ sở
* Nhiệm vụ của giáo viên
Giáo viên có những nhiệm vụ sau đây:
Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và có
chất lượng chương trình giáo dục.
Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ
nhà trường;
Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người
học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người
học;
Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt
cho người học;
Các nhiệm vụ khác của pháp luật[16].
15
* Quyền hạn của giáo viên.
Giáo viên có những quyền hạn sau đây:
Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo; được nhà trường tạo điều kiện để
giảng dạy và giáo dục HS;
Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ;
Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo
dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện đảm bảo thực hiện đầy đủ
nhiệm vụ nơi mình công tác;
Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự ;
Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của Bộ Luật Lao
động.
Các quyền khác theo quy định của pháp luật[16].
Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe theo các chế độ, chính sách quy định đối với nhà giáo;
Được trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tham gia quản lý nhà trường;
Được hưởng lương và phụ cấp (nếu có) khi được cử đi học để nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định hiện hành;[7].
Phẩm chất và năng lực của giáo viên
* Phẩm chất của giáo viên
Người GV là hình mẫu, là tấm gương sáng để HS học tập và noi theo vì vậy
mà người GV cần phải có đầy đủ các phẩm chất cơ bản như phẩm chất đạo đức,
phẩm chất chính trị tư tưởng, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp dạy học. Trong quá trình dạy học và giáo dục HS, người GV
hình thành ở các em lòng yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những phẩm chất
đạo đức cách mạng, những nét tính cách tốt đẹp. Công tác giáo dục không thể chỉ
tiến hành trong những giờ nhất định, mà nó phải được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi,
trong mọi vấn đề, thông qua những hành vi của GV. Nếu không có sự tu dưỡng
thường xuyên, không có sự trưởng thành về mặt đạo đức, chính trị, tư tưởng, không
có sự hoàn thiện về nhân cách, không có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm
hàng ngày của GV, thì công tác giáo dục không thể đem lại kết quả tốt, GV không
thể có uy tín thật sự đối với HS.
16
Người GV phải có lòng yêu nghề mến trẻ: Chỉ những ai say sưa và yêu quý sự
nghiệp giáo dục mới có thể thành công trong công việc. Chính lòng yêu nghề mến
trẻ đó giúp GV đi sâu vào tâm hồn trẻ, thông cảm với các em, gần gũi với các em,
hiểu được nhu cầu hứng thú của các em, nhờ đó giáo dục được các em truyền thống
nhân ái của dân tộc, kết hợp với sự giác ngộ về nhiệm vụ cao cả của mình, sẽ làm
cho người GV càng thêm yêu nghề, vì “Càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề
bấy nhiêu”. Có quan hệ tốt với HS, tôn trọng HS, bảo vệ quyền lợi chính đáng và sở
thích của HS, đối xử công bằng với tất cả HS, có lối sống lành mạnh, giản dị làm
tấm gương tốt cho HS. Thực hiện tốt chức trách của người GV theo luật giáo dục,
hiểu biết và chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
luật pháp của Nhà nước và các chủ trương của ngành.
Có quan hệ tốt với đồng nghiệp trong công tác và đời sống, khiêm tốn học hỏi
đồng nghiệp.
Có quan hệ tốt với phụ huynh HS, với cộng đồng để phối hợp giáo dục HS,
tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường và xã hội.
* Năng lực của người GV
Năng lực của người GV được thể hiện qua kiến thức và kỹ năng sư phạm
Kiến thức :
Người GV phải nắm vững kiến thức cơ bản của môn học mà mình được đào
tạo và đảm nhận giảng dạy. Các kiến thức này tối thiểu ở trình độ trung học sư
phạm đối với GV mầm non, tiểu học; cao đẳng sư phạm đối với GV THCS; đại học
sư phạm đối với GV trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp…Đối với GV
THCS có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm trở lên hoặc có bằng tốt nghiệp Cao
đẳng và chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm theo đúng chuyên ngành của các khoa trường
sư phạm để có thể dạy một cách có hiệu quả các môn học trong chương trình của
bậc học. Các kiến thức cơ bản của người GV phải đủ sâu sắc để có thể giúp HS vận
dụng kiến thức đã học không chỉ thể hiện trong việc làm bài tập tại lớp mà còn
trong các hoàn cảnh khác: ở nhà, trong xã hội, ở cơ sở sản xuất.
GV còn phải có kiến thức về tâm lý học, giáo dục học, logic học. Nắm được
những tri thức về phương pháp giáo dục, dạy học, kiểm tra đánh giá, quản lý giáo
dục và phải luôn cập nhật những thông tin mới, những thành tựu của lĩnh vực này.
17
Có kiến thức về những vấn đề kinh tế- xã hội của đất nước và của địa phương;
hiểu biết phong tục tập quán, ngôn ngữ và đời sống cộng đồng của địa phương nơi
trường đóng; Nắm được các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật
pháp của Nhà nước và của ngành Giáo dục.
Ngoài ra, người GV cần phải có kiến thức về công nghệ thông tin, nền kinh tế
tri thức, mục tiêu giáo dục ở thế kỷ 21, mục tiêu kế hoạch đào tạo của bậc học mà
mình gảng dạy. Kiến thức về lập kế hoạch dạy học, soạn giáo án, tổ chức các hoạt
động giáo dục cho HS, sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học trên lớp và
kiến thức, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, tham gia các hội thảo khoa học nhằm
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
mới của sự nghiệp phát triển giáo dục.
Kỹ năng sư phạm
GV phải có các kỹ năng sư phạm gồm: Kỹ năng dạy học, kỹ năng giáo dục, kỹ
năng tổ chức, kỹ năng phối hợp với cha mẹ HS và các lực lượng giáo dục trong
xã hội.GV có kỹ năng chuẩn bị bài trên lớp: Xác định được mục đích, yêu cầu và
những nội dung cơ bản của bài học; dự kiến các phương pháp, phương tiện dạy học
sẽ sử dung trong dạy học, phân bố thời gian theo các khâu, các bước của giờ lên lớp
và soạn giáo án một cách hợp lý, khoa học; Người GV trong quá trình dạy học luôn
giữ vai trò chủ động theo quy trình khoa học; Ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc, phù hợp
với trình độ nhận thức của HS. GV phải biết đặt câu hỏi và duy trì không khí hứng
thú tích cực học tập của HS; Sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học đặc
biệt là ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin và dạy học, tự làm các
thiết bị dạy học, nắm được cách thức, tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
HS, lập hồ sơ giảng dạy của bản thân và tích lũy tư liệu giảng dạy, biết xây dựng hồ
sơ theo dõi quá trình học tập của HS để thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho
cha mẹ HS.
Ngoài ra, người GV còn có những kỹ năng sau:
Quản lý lớp học và cách tổ chức các hoạt động của HS ở trong và ngoài nhà
trường, vận dụng, lôi cuốn HS tham gia các hoạt động này và duy trì thái độ học tập
tích cực và sáng tạo của HS.
Giao tiếp với HS, phụ huynh và đồng nghiệp, thể hiện khả năng duy trì và phát
triển mối quan hệ giữa GV với HS, giữa HS với nhau.
18
Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong xã hội để tổ chức tốt các hoạt động
giáo dục.
Nghiên cứu khoa học giáo dục để nâng cao trình độ, không ngừng hoàn thiện
mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục.
Nhiệm vụ của Hiệu trưởng, giáo viên trường phổ thông dân tộc bán trú
Hiệu trưởng trường PTDTBT thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Điều lệ
trường phổ thông, ngoài ra còn có các nhiệm vụ sau:
Nắm vững chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, có hiểu biết về phong
tục, tập quán các dân tộc thiểu số và đặc điểm tâm lý học sinh dân tộc của địa phương;
Biết sử dụng ít nhất một tiếng dân tộc thiểu số ở địa phương để giao tiếp với
học sinh và cộng đồng;
Phối hợp với chính quyền, các cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội ở địa
phương trong quản lí, chăm sóc học sinh bán trú.
Giáo viên trường PTDTBT thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại
Điều lệ trường phổ thông và các nhiệm vụ sau:
Biết sử dụng ít nhất một tiếng dân tộc thiểu số ở địa phương để giao tiếp với
học sinh và cộng đồng;
Tìm hiểu, nắm vững phong tục tập quán và đặc điểm tâm lý học sinh các dân
tộc nơi công tác;
Vận dụng phương pháp dạy học phù hợp đối tượng học sinh dân tộc; tham gia
quản lý, giáo dục học sinh ngoài giờ lên lớp.
1.2.5. Khái niệm giải pháp
Theo từ điển Tiếng Việt giải pháp là “Phương pháp giải quyết một vấn đề cụ
thể nào đó” [23, tr 387]. Như vậy nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác
động nhằm thay đổi chuyển biến một hệ hống, một quá trình, một trạng thái nhất
định tựu trưng lại, nhằm đạt được mục đích hoạt động. Giải pháp càng thích hợp,
càng tối ưu, càng giúp con người nhanh chóng giải quyết những vấn đề đặt ra. Tuy
nhiên, để có được những giải pháp như vậy, cần phải dựa trên những cơ sở lý luận
và thực tiễn đáng tin cậy.
1.2.6. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THCS là những cách thức tác
động hướng vào việc tạo ra những biến đổi về chất lượng trong đội ngũ GVTHCS
19
1.2.7. Chất lượng
Chất lượng là một khái niệm rất trìu tượng, đa chiều, đa nghĩa, được xem xét
từ nhiều bình diện khác nhau. Chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một
con người, sự vật, hiện tượng” [23, tr 387]
Mặc dầu chất lượng là “cái” tạo ra phẩm chất, giá trị, song khi phán xét về
chất lượng thì phải căn cứ vào phẩm chất, giá trị do nó tạo ra. Đó cũng là cơ sở
khoa học rất quan trọng cho việc “đo” chất lượng.
Một định nghĩa khác “chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu” [14, tr 7-12]
(mục tiêu ở đây được hiểu một cách rộng rãi, bao gồm các sứ mạng, các mục đích ,
còn sự phù hợp với mục tiêu có thể là đáp ứng mong muốn của những người quan
tâm, là đạt được hay vượt qua các tiêu chuẩn đặt ra ). Tuy nhiên ý nghĩa thực tế của
định nghĩa trên là ở chổ xem xét chất lượng chính là xem xét sự phù hợp với mục tiêu.
1.2.8. Chất lượng đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
Chất lượng GVTHCS về bản chất là năng lực nghề nghiệp và phẩm chất nhân
cách của họ, chứ không phải đơn thuần là sự phù hợp với mục tiêu.
Theo định nghĩa chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con
người, sự vật, hiện tượng” và định nghĩa chất lượng là “Tập hợp các đặc tính của
một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những
nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn (TCVN-ISO 8402) thì chất lượng GVTHCS
được thể hiện ở phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị và năng lực sư phạm của
người GVTHCS.
Trong đó năng lực sư phạm được hiểu là tổ hợp các thuộc tính tâm lý mang
tính phức tạp cao của người giáo viên, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động dạy học,
giáo dục và đảm bảo cho hoạt động này đạt hiệu quả tốt. Năng lực sư phạm bao
gồm 2 thành tố đó là : Kiến thức và kỹ năng sư phạm.
Như vậy, chất lượng GVTHCS là tập hợp biện chứng các yếu tố : Bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên
môn đảm bảo cho người GVTHCS đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đánh giá chất lượng giáo viên THCS cần phải xác định các chuẩn về phẩm
chất đạo đức, tư tưởng chính trị và năng lực sư phạm hay nói cách khác là phải xây
dựng được chuẩn GVTHCS.
20
Chuẩn GVTHCS là những yêu cầu về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp đối
với người GVTHCS trong giai đoạn đất nước đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và đổi mới sự nghiệp giáo dục bậc THCS. Từ sự phân tích trên về chất
lượng giáo viên và trên cơ sở tham khảo chuẩn GVTH, chuẩn GVTHCS được thể hiện
ở 3 lĩnh vực :
- Phẩm chất tư tưởng, chính trị đạo đức
- Kiến thức.
- Kỹ năng sư phạm.
Lĩnh vực 1, phẩm chất tư tưởng, chính trị, đạo đức : Phẩm chất tư tưởng,
chính trị, đạo đức thể hiện lòng yêu nước, trung thành với tổ quốc, với CNXH, yêu
nghề, yêu trẻ và biến các chủ trương, các chương trình cải cách, đổi mới giáo dục
phổ thông hiện nay thành hiện thực. Như vậy họ có thể trở thành một giáo viên tốt
Lĩnh vực 2, kiến thức : Để dạy học và giáo dục đạt hiệu quả cao, giáo viên
cần có những tri thức khoa học vững chắc, sâu và rộng. Đây là công cụ không thể
thiếu được của người thầy giáo.
Lĩnh vực 3, kỹ năng sư phạm : Kỹ năng sư phạm bao gồm các kỹ năng dạy
học, giáo dục, tổ chức, giao tiếp, nghiên cứu khoa học giáo dục Đây là hệ thống kỹ
năng giúp người giảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ và nâng cao tay nghề của mình.
Muốn khảo sát chất lượng giáo viên, chúng ta phải căn vào chuẩn trên để xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá.
1.3. Trường PTDTBT THCS trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trường PTDTBT được tổ chức và hoạt động theo quy định của Điều lệ
trường tiểu học, Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và
trường phổ thông có nhiều cấp học.
Trường PTDTBT là trường chuyên biệt, được Nhà nước thành lập cho con
em các dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán
bộ cho các vùng này.
Học sinh bán trú là học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, được cấp có thẩm quyền cho phép ở lại trường để học tập trong tuần, do
không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày
21