Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tin học ở các trường trung học phổ thông thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.13 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN NGỌC CÁT TƯỜNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIN HỌC
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN NGỌC CÁT TƯỜNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIN HỌC
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.01.14
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS NGUYỄN THỊ HƯỜNG
Nghệ An, 2014
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy,
cô giáo Khoa Quản lý Giáo dục, Phòng Đào tạo sau đại học Trường đại học Vinh
đã tham gia quản lý, giảng dạy tận tâm, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cám ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Hường, người hướng dẫn
khoa học, đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo Sở, các phòng, ban


thuộc Sở, CBQL phòng GD&ĐT quận huyện, giáo viên các trường THPT trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã động viên, giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cám ơn các bạn bè đồng nghiệp, gia đình đã động viên
khích lệ và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn tốt nghiệp không
tránh khỏi những sai sót, kính xin được góp ý và chỉ dẫn thêm.
Tác giả
Nguyễn Ngọc Cát Tường
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
CBQL Cán bộ quản lý
CNTT Công nghệ thông tin
ĐNGV Đội ngũ giáo viên
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
THPT Trung học phổ thông
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
2.1 Thống kê kết quả đánh giá hạnh kiểm học sinh THPT 32
2.2 Thống kê kết quả học lực học sinh THPT 32
2.3 Phát triển mạng lưới trường, lớp, học sinh THPT 33
2.4 Số lượng ĐNGV tin học THPT Thành phố Hồ Chí Minh 36
2.5 Phân bổ giới tính 36
2.6 Trình độ đào tạo 37
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình Tên biểu đồ Trang
1.1 Các yếu tố cơ bản biểu hiện chất lượng của đội ngũ 18
3.1 Sơ đồ mối quan hệ giữa các giải pháp 81

7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới bước vào thế kỷ XXI đang đứng trước xu thế của thời đại: Hội
nhập, hợp tác, toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực để cùng phát triển. Tri
thức, tài năng và nguồn lực con người là con đường để đổi mới và phát triển.
Vấn đề đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới những thời cơ và thách thức
lớn đối với bản lĩnh và trình độ của mỗi dân tộc. Cả thế giới đang chuyển từ
nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đó là quá trình chuyển đổi
từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế
chủ yếu dựa vào tri thức con người.
Việt Nam đang đứng trước một xã hội tương lai: xã hội thông tin, xã hội
học tập, ở đó mỗi người phải nỗ lực học tập, học tập suốt đời trong một nền
giáo dục tốt nhất để có được những phẩm chất, năng lực mới xứng đáng ở vị
trí trung tâm của sự phát triển.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định “Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng
ĐNGV và CBQL là khâu then chốt”. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo
dục THPT có vị trí quan trọng góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Mục tiêu của giáo dục THPT nhằm hình
thành cho học sinh học vấn phổ thông và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật,
công nghệ và hướng nghiệp để tiếp tục học lên bậc giáo dục nghề nghiệp, đại
học hoặc đi vào cuộc sống. Hiện nay, giáo dục THPT đang được đổi mới toàn
diện từ mục tiêu, nội dung, chương trình đến kế hoạch và phương pháp dạy
học để tạo nên sự liên thông và đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ với các bậc
học khác.
8
Trong điều 15 của Luật Giáo dục cũng đã ghi rõ: “Nhà giáo giữ vai trò

quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”. Vì vậy, xây dựng, phát
triển và nâng cao chất lượng ĐNGV là nhiệm vụ cấp thiết của Ngành giáo dục
và tất cả các nhà trường. Giáo dục phổ thông giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc tạo dựng mặt bằng dân trí, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã
hội của một quốc gia. Muốn thực hiện được trọng trách của mình, người giáo
viên THPT ngoài tri thức, kỹ năng đã được đào tạo, phải luôn được bồi dưỡng
và tự bồi dưỡng về mặt phẩm chất đạo đức, tri thức, kỹ năng sư phạm nhằm
bổ sung, cập nhật kiến thức, nắm bắt được phương pháp giảng dạy mới,
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn. Trong những năm qua, công tác
xây dựng, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng ĐNGV của các cấp quản lý giáo
dục đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên ở mỗi địa phương tùy
thuộc vào điều kiện thực tế đã có những cách thực hiện khác nhau.
Thế kỷ XXI được coi là kỷ nguyên của nền kinh tế dựa vào những kỹ
năng. Việc trang bị đầy đủ các kỹ năng đặc biệt là kỹ năng tin học cho học
sinh, sinh viên – đội ngũ nhân lực tương lai của đất nước là hết sức cần thiết.
Chính vì vậy, bắt đầu từ năm học 2006 – 2007, Bộ GD&ĐT đã đưa bộ môn
tin học vào trong chương trình giảng dạy chính khóa. Để thực hiện thành công
công tác đưa CNTT vào giảng dạy, việc bồi dưỡng và chuẩn hóa chất lượng
giáo viên theo chuẩn luôn được coi là vấn đề ưu tiên của các trường. ĐNGV
luôn được xem là lực lượng cốt cán của sự nghiệp phát triển GD&ĐT, là nhân
tố quan trọng nhất quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, biến mục
tiêu phát triển giáo dục của Đảng thành hiện thực.
Thực trạng ĐNGV tin học THPT so với yêu cầu dạy tin học trong các
trường THPT hiện nay còn rất nhiều bất cập: thiếu về số lượng, không đồng
bộ về cơ cấu, chất lượng hạn chế… Vì vậy, đội ngũ này chưa thể đáp ứng
được yêu cầu về giảng dạy tin học và ứng dụng CNTT vào nhà trường phổ
9
thông. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng trên là do công tác
phát triển giáo viên tin học còn nhiều hạn chế. Việc xây dựng chuẩn nghề
nghiệp giáo viên tin học và quy hoạch ĐNGV này chưa được thực hiện; việc

tuyển dụng sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sàng lọc ĐNGV chưa được
thực hiện tốt, chưa có hệ thống. Trong khi đó, do việc dạy tin học trong
trường THPT là vấn đề còn khá mới mẻ, nên việc nghiên cứu phát triển giáo
viên tin học trong trường THPT chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ
thống.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số
giải pháp nâng cao chất lượng ĐNGV tin học ở các trường THPT Thành
phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng, đề xuất một số giải
pháp nâng cao chất lượng ĐNGV dạy Tin học ở các trường THPT tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV tin học ở
trường THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp nâng cao chất lượng ĐNGV tin
học ở các trường THPT Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng ĐNGV tin học ở các trường THPT Thành phố Hồ Chí Minh
sẽ được nâng cao nếu đề xuất và thực hiện các giải pháp có tính khoa học,
tính đồng bộ, tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV tin
học ở trường THPT
10
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng và công tác nâng
cao chất lượng giáo viên dạy tin học ở các trường THPT Thành phố Hồ Chí
Minh.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng ĐNGV tin học ở các
trường THPT Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Phạm vi nghiên cứu
Giáo viên dạy tin học trong các trường THPT Công lập Thành phố Hồ
Chí Minh.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các nhóm phương pháp nghiên
cứu sau:
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu luật giáo dục, văn
kiện của Đảng, Nhà nước, văn bản của Bộ GD&ĐT, điều lệ trường THPT, các
sách báo, tài liệu của các nhà nghiên cứu giáo dục, các báo cáo khoa học
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. Trên cơ sở nghiên cứu để xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Gồm các phương pháp: Quan sát, điều tra, khảo sát phỏng vấn, xin ý
kiến chuyên gia,… nhằm xử lý số liệu thu được.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: Nhằm xử lý số liệu thu được.
8. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và phát triển lý luận về nâng cao chất lượng
ĐNGV THPT nói chung, ĐNGV tin học trường THPT nói riêng.
- Xác định được khoảng cách giữa thực trạng ĐNGV tin học hiện nay và
yêu cầu của ĐNGV tin học đáp ứng yêu cầu dạy học tin học trong trường
THPT.
11
- Đề xuất một số giải pháp đáp ứng chất lượng đào tạo ĐNGV tin học,
phù hợp với bối cảnh đào tạo giáo viên tin học ở Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Cở sở lý luận của đề tài
- Chương 2: Thực trạng công tác nâng cao chất lượng ĐNGV tin học ở các
trường THPT Thành phố Hồ Chí Minh

- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng ĐNGV tin học ở các
trường THPT Thành phố Hồ Chí Minh
12
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Sự phát triển của thực tiễn giáo dục đặt ra những yêu cầu ngày càng cao
với giáo viên – những chủ thể quan trọng của quá trình giáo dục trong học
đường. Vì lý do đó, các nghiên cứu về giáo viên rất được quan tâm và phát
triển. Ngay từ khi bắt tay vào xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê nin
đã rất coi trọng việc xây dựng ĐNGV. Người viết: “Chúng ta phải làm cho
giáo viên ở nước ta có một địa vị mà trước đây họ chưa từng có, hiện nay vẫn
không có và không thể có được trong xã hội tư sản”. Lê nin yêu cầu phải:
“Nâng cao một cách có hệ thống, kiên nhẫn, liên tục trình độ tinh thần của
giáo viên… nhưng điều chủ yếu, chủ yếu và chủ yếu là cải thiện đời sống vật
chất cho họ”.
Ở các nước phát triển, yêu cầu và tiêu chí của chất lượng giáo viên cũng
được đặt ra theo yêu cầu của sự phát triển giáo dục – đào tạo và nhu cầu tăng
trưởng kinh tế. Vì thế, chất lượng ĐNGV đã nhiều nước trên thế giới quan
tâm. Công trình nghiên cứu chung của các nước thành viên OECD đã chỉ ra
yêu cầu đối với một giáo viên cần có các phẩm chất [27]:
1/ Kiến thức phong phú về phạm vi chương trình và nội dung bộ môn
mình dạy;
2/ Kỹ năng sư phạm, kể cả việc có được “kho kiến thức” về phương
pháp giảng dạy, về năng lực sử dụng những phương pháp đó;
3/ Có tư duy phản ánh trước mỗi vấn đề và có năng lực tự phê, nét rất
đặc trưng của nghề dạy học;
13
4/ Biết cảm thông và cam kết tôn trọng phẩm giá của người khác;
5/ Có năng lực quản lý, kể cả trách nhiệm quản lý trong và ngoài lớp

học.
Trong báo cáo tại Hội thảo ASD Armidele năm 1985 – do UNESCO tổ
chức đã nói đến những vai trò của người giáo viên trong thời đại mới, đó là:
vai trò người thiết kế, vai trò người tổ chức, vai trò người cổ vũ, vai trò người
canh tân. Để thực hiện những vai trò này thì phải nâng cao chất lượng người
giáo viên như:
1/ Các chương trình đào tạo giáo viên cần triệt để sử dụng các thiết bị và
phương pháp giảng dạy mới nhất;
2/ Giáo viên phải được đào tạo để trở thành nhà giáo dục hơn là người
thợ dạy (chuyên gia truyền đạt kiến thức);
3/ Việc dạy học phải thích nghi với người học chứ không phải buộc
người học tuân theo những quy định đặt sẵn từ trước theo thông lệ cổ truyền.
Tháng 4 năm 2000, tại Dakar – Senégal, diễn đàn giáo dục cho mọi
người do UNESCO tổ chức đã coi chất lượng giáo viên là một trong mười
yếu tố cấu thành chất lượng giáo dục, tức là giáo viên có động cơ tốt, được
động viên tốt và có năng lực chuyên môn cao. Năng lực chuyên môn cần phải
có để đảm bảo chất lượng giáo dục: hiểu biết sâu sắc về nội dung môn học, có
tri thức sư phạm, có tri thức về sự phát triển, có sự hiểu biết về sự khác biệt,
hiểu biết về động cơ, có tri thức về việc học tập, làm chủ được các chiến lược
dạy học, hiểu biết về việc đánh giá học sinh, hiểu biết về các nguồn của
chương trình và công nghệ, am hiểu và sự đánh giá cao về sự cộng tác, có khả
năng phân tích và phản ánh trong thực tiễn dạy học.
Bàn về một số vấn đề đào tạo giáo viên, Michel Develay đã xuất phát từ
lý luận về học đến lý luận về dạy để bàn về vấn đề đào tạo giáo viên. Ông
quan niệm: “Đào tạo giáo viên mà không làm cho họ có trình độ cao về năng
14
lực tương ứng không chỉ với các sự kiện, khái niệm, định luật, lý thuyết, hệ
biến hóa của môn học đó, mà còn cả với khoa học luận của chúng là không
thể được” [28, tr.69]. Ở tác phẩm này, Michel Develay cũng đã bàn về các vấn
đề như: quan niệm, nội dung, phương thức đào tạo, tính chất và bản sắc nghề

nghiệp của giáo viên…
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Lịch sử nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV gắn liền với lịch
sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Hơn năm mươi năm xây dựng và
phát triển, nền giáo dục nước ta đã xây dựng được một hệ thống giáo dục liên
thông và hoàn chỉnh từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học đáp ứng một
cách tích cực nhu cầu nâng cao dân trí, nhu cầu nhân lực và nhân tài của xã
hội. Hơn năm mươi năm phát triển giáo dục là hơn năm mươi năm không
ngừng xây dựng và nâng cao chất lượng ĐNGV trong hệ thống giáo dục Việt
Nam.
Vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV đã được Bác Hồ, Đảng và Nhà nước
ta hết sức quan tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: … nếu không có
thầy giáo thì không có giáo dục… Người còn chỉ rõ vai trò và ý nghĩa của
nghề dạy học… Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này tích cực
góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản… “Các thầy cô
giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc”… “các
cô, các chú đã thấy trách nhiệm to lớn của mình, đồng thời cũng thấy khả
năng của mình cần được nâng cao thêm lên mãi mới làm tròn nhiệm vụ” [30,
tr.114].
Thực hiện tư tưởng của Hồ Chủ Tịch, suốt nửa thế kỷ qua, Đảng và Nhà
nước ta đã không ngừng chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và
nâng cao chất lượng ĐNGV, trong đó có việc nghiên cứu về ĐNGV. Theo đó,
nhiều công trình nghiên cứu về ĐNGV đã được triển khai dưới sự chỉ đạo của
15
Bộ GD&ĐT. Tiêu biểu trong các nghiên cứu đó là những công trình nghiên
cứu về mô hình nhân cách của ĐNGV các cấp học, bậc học và mô hình nhân
cách của người quản lý nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Nghiên cứu về ĐNGV còn được thực hiện dưới góc độ quản lý giáo dục
ở cấp độ vĩ mô và vi mô. Nhiều Hội thảo khoa học về chủ đề ĐNGV dưới góc
độ quản lý giáo dục theo ngành, bậc học đã được thực hiện. Có thể kể đến

một số nghiên cứu loại này của các tác giả: Đặng Quốc Bảo [3]; Nguyễn
Thanh Bình [5]; Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc [26]; [27]; Trần Bá
Hoành [25]… Việc xây dựng ĐNGV cũng đã được một số công trình nghiên
cứu, đề cập. Tại Hội thảo Khoa học “Chất lượng giáo dục và vấn đề đào tạo
giáo viên” do Khoa Sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức, nhiều báo
cáo tham luận của các tác giả như Lê Khánh Bằng, Đặng Xuân Hải, Trần Bá
Hoành, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Cảnh Toàn… cũng
đã đề cập đến việc đào tạo ĐNGV trước nhiệm vụ mới của GD&ĐT.
Những nhà nghiên cứu giáo dục và quản lý giáo dục thực tiễn rất quan
tâm vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV. Trong bài viết “Chất lượng giáo
viên” đăng trên tạp chí Giáo dục tháng 11/2001, tác giả Trần Bá Hoành đã đề
xuất cách tiếp cận chất lượng giáo viên từ các góc độ: đặc điểm lao động của
người giáo viên, sự thay đổi chức năng của người giáo viên trước yêu cầu đổi
mới giáo dục, mục tiêu sử dụng giáo viên, chất lượng từng giáo viên và chất
lượng ĐNGV. Các thành tố tạo nên chất lượng giáo viên là phẩm chất và năng
lực. Theo tác giả Trần Bá Hoành, phẩm chất giáo viên biểu hiện ở thế giới
quan, lòng yêu trẻ và yêu nghề; năng lực người giáo viên bao gồm: năng lực
chuẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng dạy học, năng lực thiết kế kế
hoạch, năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học, năng lực quan sát, đánh
giá kết quả các hoạt động dạy học, năng lực giải quyết những vấn đề nãy sinh
trong thực tế dạy học. Ba nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo viên là: quá
16
trình đào tạo – sử dụng – bồi dưỡng giáo viên, hoàn cảnh, điều kiện lao động
sư phạm của giáo viên, ý chí thói quen và năng lực tự học của giáo viên. Tác
giả cũng đề ra ba giải pháp cho vấn đề giáo viên: phải đổi mới công tác đào
tạo, công tác bồi dưỡng và đổi mới việc sử dụng giáo viên.
Trong bài “Nghề và Nghiệp của người giáo viên” đăng tải trong Kỷ yếu
Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo toàn quốc lần thứ 2, tác giả Nguyễn Thị
Mỹ Lộc đã đề cập tính chất nghề nghiệp của người giáo viên. Tác giả đã nhấn
mạnh đến vấn đề “lý tưởng sư phạm”, cái tạo nên động cơ cho việc thực hành

nghề dạy học của giáo viên, thôi thúc người giáo viên sáng tạo, thúc đẩy
người giáo viên không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ. Từ đó, tác giả đề
nghị cần phải xây dựng tập thể sư phạm theo mô hình “bí quyết nhà nghề”;
đồng thời, những yêu cầu về năng lực chuyên môn của người giáo viên là nền
tảng của mô hình đào tạo giáo viên thế kỷ XXI: sáng tạo và hiệu quả [27,
tr.6].
Trong bài viết “Chất lượng giáo viên và những chính sách cải thiện chất
lượng giáo viên” đăng trên Tạp chí phát triển giáo dục số 2 năm 2003, tác giả
Nguyễn Thanh Hoàn đã trình bày khái niệm chất lượng giáo viên bằng cách
phân tích kết quả nghiên cứu về chất lượng giáo viên của các nước thành viên
OECD. Tác giả đưa ra những đặc điểm và năng lực đặc trưng của một giáo
viên có năng lực qua sự phân tích 22 năng lực cụ thể trên góc độ tiếp cận
năng lực giảng dạy và giáo dục. Tác giả cũng đề cập những chính sách cải
thiện và duy trì chất lượng giáo viên ở cấp vĩ mô và vi mô; từ đó, tác giả nhấn
mạnh đến ba vấn đề nguồn quyết định chất lượng giáo viên là: bản thân người
giáo viên, nhà trường, môi trường chính sách bên ngoài.
Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV được Đảng và
Nhà nước ta coi là một trong các giải pháp cho việc phát triển giáo dục – đào
tạo; để giáo dục trở thành “quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp đổi mới đất
17
nước; vừa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước vừa nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn
2011 – 2020 đã xác định một trong những giải pháp quan trọng để phát triển
giáo dục quốc gia là “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, nâng cao chất lượng ĐNGV và CBQL là khâu then chốt.” [10]. Tác
giả Trần Kiều bàn về chất lượng giáo dục đã coi chất lượng ĐNGV là yếu tố
quan trọng hàng đầu và đặt ra vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục thì không
thể không chú ý trước hết về chất lượng ĐNGV đủ về số lượng, đồng bộ về

cơ cấu và tay nghề ngày càng được nâng cao…
Trong chương trình đào tạo sau đại học chuyên ngành quản lý giáo dục,
vấn đề ĐNGV cũng được triển khai nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống. Nhiều luận văn tốt nghiệp đã chọn đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực
quản lý nhân sự trong giáo dục, trong đó có vấn đề nâng cao chất lượng
ĐNGV. Các tác giả nghiên cứu về vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV theo
bậc học và ngành học trong đó chủ yếu đề cập đến ĐNGV của các trường đạo
học, cao đẳng và khối trường Trung học chuyên nghiệp. Có thể kể đến nghiên
cứu của tác giả Vũ Đình Chuẩn với nghiên cứu về biện pháp nâng cao chất
lượng ĐNGV Trung học chuyên nghiệp của Thành phố Đà Nẵng; nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Công Chánh về giải pháp quản lý phát triển giáo viên
trường Cao đẳng sư phạm Bạc Liêu. Nghiên cứu về ĐNGV còn được thực
hiện dưới góc độ là nội dung của công tác quy hoạch phát triển giáo dục của
vùng, miền và lãnh thổ.
Tổng quan các nghiên cứu nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét như
sau:
18
- Nghiên cứu về ĐNGV được triển khai ở nhiều bình diện khác nhau và
đặc biệt được quan tâm trên bình diện quản lý giáo dục.
- Các nghiên cứu về nâng cao chất lượng ĐNGV được tập trung vào hai
mảng chính: nghiên cứu nâng cao chất lượng ĐNGV theo cấp bậc và ngành
học; nghiên cứu nâng cao chất lượng ĐNGV cho từng cơ sở giáo dục thuộc
bậc, cấp, ngành học.
- Do việc dạy tin học trong trường THPT là vấn đề còn khá mới mẻ, việc
nghiên cứu nâng cao chất lượng ĐNGV tin học THPT hầu như chưa được
nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo viên và ĐNGV
1.2.1.1. Giáo viên THPT
Theo luật Giáo dục Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà

giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo
dục khác”, “Nhà giáo ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên” [32]. Như vậy, giáo viên là tên gọi chỉ
nhà giáo thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm
non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề. Theo đó, giáo
viên thực hiện lao động nghề nghiệp của mình tại các trường THPT được gọi
là giáo viên THPT.
Giáo viên THPT phải có những tiêu chuẩn:
- Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt.
- Đạt trình độ chuẩn về đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.
- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp.
- Lý lịch bản thân rỏ ràng.
Nhiệm vụ của giáo viên THPT là:
19
- Giáo dục giảng dạy theo đúng chương trình, kế hoạch; soạn bài, chuẩn
bị thí nghiệm; kiểm tra, đánh giá; vào sổ điểm, ghi học bạ đầy đủ; quản lý học
sinh trong các hoạt động giáo dục; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn.
- Tham gia công tác phổ cập giáo dục.
- Rèn luyện đạo đức, học tập văn hóa, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp
vụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, giáo dục.
- Thực hiện nghĩa vụ công dân, pháp luận của nhà nước và điều lệ của
nhà trường.
- Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo.
- Phối hợp các đoàn thể, tổ chức xã hội, gia đình học sinh trong các hoạt
động giáo dục.
Giáo viên THPT được đảm bảo các quyền:
- Được nhà trường tạo điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy và
giáo dục.
- Được đảm bảo mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần; được chăm sóc sức
khỏe theo các chính sách, chế độ đối với nghề giáo.

- Được trực tiếp hoặc thông qua tổ chức của mình tham gia quản lý nhà
trường.
- Được hưởng nguyên lương và phụ cấp khi được cử đi học để nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học theo quy định.
- Được hưởng các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Giáo viên tin học trường THPT (giáo viên dạy tin học ở trường
THPT)
Giáo viên tin học trường THPT là giáo viên bộ môn của trường THPT,
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tin học theo chương trình giáo dục THPT, trong
20
và bằng quá trình đó thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh theo nhiệm vụ và
mục tiêu giáo dục của trường THPT.
Giáo viên tin học THPT là giáo viên dạy môn tin học ở các trường THPT
có trình độ tốt nghiệp đại học trở lên chuyên ngành tin học, có nghiệp vụ sư
phạm, có thể dạy được cả lý thuyết và thực hành môn tin học. Bên cạnh đó,
do đặc thù riêng của tin học, giáo viên tin học là nồng cốt trong việc ứng dụng
tin học trong dạy học và quản lý nhà trường phổ thông.
Do đặc thù của giáo viên tin học là vừa truyền thụ cho học sinh các tri
thức lý thuyết, vừa rèn luyện cho học sinh những kỹ năng thực hành; đồng
thời có thể phải tham gia phòng máy tính hoặc mạng máy tính trong nhà
trường, vì vậy, giáo viên tin học THPT vừa phải dạy được các kiến thức mang
tính chất lý thuyết, vừa có khả năng hướng dẫn thực hành cho học sinh, lại
vừa có những kiến thức tối thiểu về quản lý. Để đáp ứng được những yêu cầu
đó, người giáo viên tin học THPT cần đạt được các yêu cầu: Phải có ít nhất
trình độ đại học sư phạm ngành tin học, CNTT hoặc đại học chuyên ngành tin
học, CNTT và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; có điều kiện bồi
dưỡng để nâng cao trình độ sau đại học theo chuyên ngành tin học; Có khả
năng tham gia các hoạt động quản lý, nghiên cứu khoa học, nhất là lĩnh vực
khoa học giáo dục để phục vụ cho hoạt động biên soạn tài liệu, giảng dạy,

giáo dục học sinh; Có trình độ ngoại ngữ đủ để đáp ứng yêu cầu nắm bắt, trao
đổi thông tin, tiếp cận với trang thiết bị kỹ thuận và phần mềm mới phục vụ
cho hoạt động nghề nghiệp của mình; Có trình độ về lý luận dạy học và giáo
dục học để vận dụng tích cực các nguyên lý giáo dục, nguyên tắc dạy học
trong hoạt động nghề nghiệp một cách hiệu quả; Có kiến thức chung về các
lĩnh vực văn hóa, xã hội, nhân văn để có thể mở rộng giao tiếp xã hội, tích
cực hòa nhập và ứng dụng tin học vào phát triển cộng đồng.
1.2.1.3. ĐNGV tin học trường THPT
21
Đội ngũ là tập hợp gồm số đông người cùng chức năng hoặc nghề
nghiệp tạo thành một lực lượng. Khái niệm đội ngũ không chỉ được sử dụng
trong lĩnh vực quân sự mà còn được sử dụng một cách phổ biến trong lĩnh
vực tổ chức thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau như: đội ngũ tri thức,
đội ngũ công nhân viên chức; đội ngũ y bác sỹ… Trong lĩnh vực giáo dục
thuật ngữ đội ngũ cũng được sử dụng để chỉ những tập hợp người được phân
biệt với nhau về chức năng trong hệ thống giáo dục. Ví dụ ĐNGV, đội ngũ
CBQL trường học… ĐNGV được nhiều tác giả nước ngoài quan niệm như là
những chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, họ nắm vững tri thức và hiểu biết
dạy học và giáo dục như thế nào và có khả năng cống hiến toàn bộ sức lực và
tài năng của họ đối với giáo dục. Ở Việt Nam, khái niệm ĐNGV dùng để chỉ
một tập hợp người bao gồm CBQL, giáo viên. Từ điển Giáo dục học định
nghĩa: “ĐNGV là tập hợp những người đảm nhận công tác giáo dục và dạy
học có đủ tiêu chuẩn đạo đức, chuyên môn và nghiệp vụ quy định” [70, tr.95]
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể quan niệm: ĐNGV là một tập hợp
những người làm nghề dạy học – giáo dục được tổ chức thành một lực lượng
(có tổ chức) cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã
đề ra cho tập hợp đó, tổ chức đó. Họ làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau
thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ quy định của pháp
luật, thể chế xã hội. Họ chính là nguồn lực quan trọng trong lĩnh vực giáo dục
mầm non, phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định: ĐNGV THPT là những
người làm công tác giảng dạy – giáo dục trong trường THPT, có cùng nhiệm
vụ giáo dục, rèn luyện học sinh THPT giúp các em hình thành và phát triển
nhân cách theo mục tiêu giáo dục đã xác định cho cấp học. Theo quan điểm
hệ thống, tập hợp các giáo viên của một trường THPT nhất định được gọi là
ĐNGV của trường THPT đó. Đây là một hệ thống mà mỗi thành tố trong đó
22
có mối quan hệ lẫn nhau, bị ràng buộc bởi những cơ chế xác định. Vì lẽ đó
mỗi tác động vào các thành tố đơn lẻ của hệ thống vừa có ý nghĩa cục bộ vừa
có ý nghĩa trên toàn thể với toàn bộ hệ thống.
ĐNGV tin học ở trường THPT là tập hợp các giáo viên thực hiện nhiệm
vụ giảng dạy môn tin học và giáo dục học sinh trong trường THPT. Những
giáo viên này làm việc theo chương trình môn học và kế hoạch giáo dục của
nhà trường, gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần, đồng
thời quan hệ mật thiết với các giáo viên bộ môn khác để thực hiện hoạt động
và chia sẻ lợi ích theo đúng pháp luật và thể chế xã hội.
ĐNGV tin học trường THPT được xác định qua các tiêu chí về số lượng
và chất lượng. Chất lượng của đội ngũ có quan hệ mật thiết với số lượng của
nó. ĐNGV tin học trường THPT phải có đủ các tiêu chí quy định trong chuẩn
nghề nghiệp của giáo viên THPT, có những phẩm chất và năng lực đặc thù do
môn tin học đòi hỏi; đồng thời là lực lượng nòng cốt trong việc ứng dụng tin
học trong dạy học và quản lý nhà trường. Tập thể này quyết định chất lượng
việc đưa môn tin học vào trường THPT bằng việc cống hiến tối đa tài năng và
sức lực của họ. Ngày nay, khi xu thế phát triển của xã hội đòi hỏi hoạt động
của từng cá nhân đều phải trên tinh thần cộng tác, tương tác thì ĐNGV tin học
THPT là tập hợp những người có tinh thần đoàn kết gắn bó tạo thành một
khối thống nhất trong một tổ chức biết học hỏi.
1.2.2. Chất lượng, chất lượng ĐNGV
1.2.2.1. Chất lượng
Theo Nguyễn Hữu Châu [12, tr.5] chất lượng là một khái niệm được xem

xét từ những bình diện khác nhau. Có nhiều cách hiểu về chất lượng giáo dục,
ví dụ:
- Chất lượng là sự xuất sắc bẩm sinh, tự nó (là cái tốt nhất). Điều này chỉ
có thể hiểu được, cảm nhận được nếu so sánh với những sự vật có cùng những
23
đặc tính với sự vật đang được xem xét. Đây là cách tiếp cận tiên nghiệm về
chất lượng.
- Chất lượng được xem xét trên cơ sở những thuộc tính đo được. Điều đó
có nghĩa là chất lượng có thể được đo lường khách quan và chính xác. Một sự
vật có thuộc tính nào đó “cao hơn” cũng có nghĩa là nó “tốt hơn” và do đó
cũng “đắt hơn”. Cách tiếp cận này gọi là cách tiếp cận dựa trên sản phẩm khi
xem xét chất lượng.
- Chất lượng được xem như sự phù hợp với nhu cầu. Các sản phẩm và
dịch vụ được “sản xuất” một cách chính xác với những “đặc tính kỹ thuật” đã
định; mọi sự lệch lạc đều dẫn đến giảm chất lượng. Đây là cách tiếp cận dựa
trên sản xuất về chất lượng.
- Chất lượng là sự phù hợp với mục đích (mục tiêu); là “đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng”. Chất lượng được xem xét đơn giản chỉ trong con
mắt của người chiên ngưỡng sự vật hoặc sử dụng chúng.
Có một định nghĩa về chất lượng tỏ ra có ý nghĩa đối với việc xác định
chất lượng giáo dục và cả việc đánh giá nó, đó là: Chất lượng là sự phù hợp
với mục tiêu… Mục tiêu ở đây được hiểu một cách rộng rãi, bao gồm các sứ
mạng, mục đích, v.v…; còn sự phù hợp với mục tiêu có thể là đáp ứng mong
muốn của những người quan tâm, là đạt hay vượt qua các tiêu chuẩn đặt ra,…
Đây là định nghĩa thích hợp và thông dụng nhất khi xem xét các vấn đề của
giáo dục.
1.2.2.2. Chất lượng ĐNGV
Chất lượng ĐNGV được bao hàm nhiều yếu tố như trình độ được đào tạo
của từng thành viên trong đội ngũ, thâm niên công tác trong tổ chức, nhận
thức chính trị, thái độ công dân

Chất lượng ĐNGV được thông qua các thuộc tính bản chất sau:
- Số lượng thành viên trong đội ngũ
24
Số lượng thành viên trong ĐNGV được xác định trên cơ sở lớp học, số
học sinh và định mức biên chế theo quy định của Nhà nước.
- Cơ cấu đội ngũ gồm:
+ Cơ cấu bộ môn
+ Cơ cấu theo trình độ đào tạo
+ Cơ cấu theo độ tuổi
+ Cơ cấu theo giới tính
- Phẩm chất đội ngũ
Đó là những phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của các thành viên
trong đội ngũ.
- Trình độ đội ngũ:
Đó là hệ thống tri thức mà mỗi thành viên phải có được, đó là những tri
thức liên quan đến chuyên môn mà giáo viên đó phụ trách.
- Năng lực đội ngũ:
Đó là khả năng để thực hiện một hoạt động nào đó, hoặc là phẩm chất,
tâm lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó.
Trên đây là 5 yếu tố cơ bản biểu hiện chất lượng của đội ngũ; có thể biểu
diễn theo sơ đồ sau:
Phẩm chất
Năng lực
Cơ cấu
Sở trường
Trình độ
25
Hình 1.1. Các yếu tố cơ bản biểu hiện chất lượng của đội ngũ
1.2.3. Giải pháp và giải pháp nâng cao chất lượng ĐNGV
1.2.3.1. Giải pháp

Là cách giải quyết vấn đề khó khăn. (Từ điển tiếng Việt), hay nói cách
khác, giải pháp là phương pháp giải quyết vấn đề cụ thể, khó khăn nào đó.
1.2.3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng ĐNGV
Là phương pháp giải quyết những vấn đề cụ thể trong ĐNGV để nâng
cao chất lượng dạy học.
1.3. Một số vấn đề về chất lượng ĐNGV tin học ở trường THPT
1.3.1. Vị trí, vai trò của người giáo viên tin học THPT
Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục nước ta hiện nay là nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. ĐNGV là nhân tố quan trọng và chủ
yếu nhất quyết định chất lượng giáo dục – đào tạo vai trò chủ đạo trong quá
trình giáo dục đào tạo ở các nhà trường, các cơ sở giáo dục. Điều 14 Luật
Giáo dục 2005 đã chỉ rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo
chất lượng giáo dục”
ĐNGV tin học là người trực tiếp thực hiện các mục tiêu chiến lược của
nhà trường, các cơ sở đào tạo. ĐNGV tin học là nhân tố quyết định chất lượng
giáo dục. Đảng và nhà nước ta coi trọng ĐNGV và CBQL giáo dục là lực
lượng nồng cốt trong sự nghiệp giáo dục, là chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng –

×