Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào do Leucocytozoon gây ra ở gà nuôi tại huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang và thử nghiệm phác đồ điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.26 KB, 68 trang )

60



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



HOÀNG VĂN LÂM



Tên đề tài:
"NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH ĐƠN BÀO DO
LEUCOCYTOZOON GÂY RA Ở GÀ NUÔI TẠI HUYỆN YÊN THẾ
TỈNH BẮC GIANG VÀ THỬ NGHIỆM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ"



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC




Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi Thú y
Khóa học : 2009 - 2014

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Dương Thị Hồng Duyên


Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên





Thái Nguyên - 2013

1

LỜI CẢM ƠN

Được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa
Chăn nuôi Thú y, giảng viên hướng dẫn và sự nhất trí của Ban lãnh đạo Trạm
thú y huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, em thực hiện đề tài: "Nghiên cứu đặc
điểm dịch tễ bệnh đơn bào do Leucocytozoon gây ra ở gà nuôi tại huyện
Yên Thế - tỉnh Bắc Giang và thử nghiệm phác đồ điều trị"
Trong quá trình thực hiện đề tài em đã nhận được sự quan tâm của Nhà
trường, Khoa Chăn nuôi Thú y, cán bộ Trạm thú y huyện Yên Thế - tỉnh Bắc
Giang, các hộ gia đình tại các xã, gia đình và bạn bè. Nhân dịp này em xin gửi
lời trân trọng cảm ơn đến:
Cô giáo ThS.NCS. Dương Thị Hồng Duyên, GS. TS. Nguyễn Thị Kim
Lan đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình thực
tập tốt nghiệp.
Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa đã tận
tình dìu dắt, dạy dỗ em trong suốt thời gian học tập tại trường cũng như thời
gian thực tập tốt nghiệp.
Ban lãnh đạo Trạm thú y huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang cùng các cán
bộ kỹ thuật của Trạm đã tiếp nhận và tạo điều kiện giúp đỡ em em trong suốt

quá trình thực hiện đề tài.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè luôn động viên,
giúp đỡ, tạo mọi thuận lợi để em hoàn thành tốt quá trình thực tập tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 2 tháng 12 năm 2013
Sinh viên

Hoàng Văn Lâm

2

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 4.1: Thực trạng công tác phòng chống bệnh Leucocytozoon cho gà ở
huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang 32

Bảng 4.2: Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa phương 34

Bảng 4.3: Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tháng 38

Bảng 4.4: Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tuổi 40

Bảng 4.5: Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo phương thức
chăn nuôi 42

Bảng 4.6: Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tình trạng vệ
sinh thú y 44


Bảng 4.7: Thành phần loài và tần suất xuất hiện các loài dĩn hút máu ở các
địa phương nghiên cứu 46

Bảng 4.8: Quy luật hoạt động của các loài dĩn từ tháng 01 đến tháng 05 47

Bảng 4.9. Quy luật hoạt động trong ngày của các loài dĩn 48

Bảng 4.10: Thành phần loài Leucocytozoon gây bệnh ở gà tại huyện Lục
Ngạn - tỉnh Bắc Giang 49

Bảng 4.11: Kết quả thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon trên gà với
số lượng ít gà 50

Bảng 4.12: Độ an toàn của phác đồ điều trị bệnh đơn bào Leucocytozoon cho
gà trên phòng thí nghiệm 51

Bảng 4.13: Kết quả thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon trên gà 52

Bảng 4.14: Độ an toàn của phác đồ điều trị bệnh đơn bào Leucocytozoon cho
gà trên thực địa 53



3

DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 2.1. Sơ đồ minh họa vòng đời Leucocytozoon ở gà 8


Hình 4.1. Biểu đồ về tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại 4 xã thuộc
huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang 36

Hình 4.2. Biểu đồ về cường độ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà tại 4 xã
thuộc huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang 37

Hình 4.3: Biểu đồ về tỷ lệ nhiễm đơn bào Leucocytozoon ở gà qua cá tháng 40

Hình 4.4: Biểu đồ Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tuổi 41

Hình 4.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm leucocytozoon ở gà theo phương thức
chăn nuôi 42

Hình 4.6. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tình trạng
vệ sinh thú y 45



4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Cs : Cộng sự
KCTG : Ký chủ trung gian
Nxb : Nhà xuất bản
N : Dung lượng mẫu

P : Độ tin cậy
S : Simulium
Spp : Species

VSTY : Vệ sinh thú y
L. : Leucocytozoon
C. : Culicoides

5

MỤC LỤC

Trang

PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
2.1.1. Đặc điểm của đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở gà 3
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào Leucocytozoon trong hệ thống phân loại động vật 3
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái các loài Leucocytozoon ở gà 4
2.1.1.3. Vòng đời của Leucocytozoon ở gà 5
2.1.2. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà. 10
2.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh Leucocytozoon gây ra 10
2.1.2.2. Dịch tễ học bệnh Leucocytozoon ở gà 11
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh của bệnh Leucocytozoon 13
2.1.2.4. Triệu chứng và bệnh tích bệnh Leucocytozoon 13
2.1.2.5. Chẩn đoán bệnh Leucocytozoon 17
2.1.2.6. Phòng trị bệnh Leucocytozoon cho gà 18
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 20
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 20

2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 21
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
23
3.1. Đối tượng nghiên cứu 23
3.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 23
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 23
6

3.3.2. Thời gian nghiên cứu 23
3.3. Vật liệu nghiên cứu 23
3.4. Nội dung nghiên cứu 24
3.4.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện
Yên Thế - tỉnh Bắc Giang 24
3.4.2. Nghiên cứu biện pháp phòng và trị bệnh. 24
3.5. Phương pháp nghiên cứu 24
3.5.1. Phương pháp xác định tình trạng áp dụng các biện pháp phòng
bệnh Leucocytozoon cho gà ở các địa phương nghiên cứu 24
3.5.2. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm
Leucocytozoon ở gà tại các địa phương 25
3.5.2.1. Bố trí thu thập mẫu 25
3.5.2.2. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm Lecocytozoon ở gà
tại các địa phương 25
3.5.3. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm
Leucocytozoon ở gà theo tháng trong thời gian nghiên cứu. 27
3.5.3 1. Bố trí lấy mẫu 27
3.5.3 2. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon
theo tháng 27
3.5.4. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm
Leucocytozoon ở gà theo tuổi gà 27

3.5.4.1. Bố trí lấy mẫu 27
3.5.4.2. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà
theo các lứa tuổi 28
3.5.5. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm
Leucocytozoon ở gà theo phương thức chăn nuôi 28
3.5.5.1. Bố trí lấy mẫu 28
3.5.5.2 Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà
theo phương thức chăn nuôi 28
7

3.5.6. Bố trí lấy mẫu và phương pháp xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm
Leucocytozoon theo tình trạng vệ sinh thú y 28
3.5.6.1. Bố trí lấy mẫu 28
3.5.6.2. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà
theo tình trạng VSTY 29
3.5.7. Phương pháp bố trí theo dõi xác định loài Leucocytozoon ký sinh ở
gà tại huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang 29
3.5.8. Bố trí thu thập mẫu dĩn và phương pháp xác định loài dĩn - véc tơ
truyền Leucocytozoon tại huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang 29
3.5.8.1. Bố trí thu thập mẫu dĩn 29
3.5.8.2 Phương pháp xác định loài dĩn 29
3.5.9. Phương pháp đánh giá hiệu lực và độ an toàn của 3 phác đồ điều
trị bệnh Leucocytozoon cho gà 30
3.5.9.1. Phương pháp đánh giá hiệu lực và độ an toàn của 3 phác đồ điều trị
bệnh Leucocytozoon trên gà thí nghiệm 30
3.5.9.2. Phương pháp đánh giá hiệu lực và độ an toàn của 3 phác đồ điều trị
bệnh Leucocytozoon cho gà trên thực địa. 31
PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
32
4.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại huyện Yên

Thế - tỉnh Bắc Giang 32
4.1.1. Thực trạng phòng chống bệnh đơn bào Leucocytozoon cho gà ở
huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang 32
4.2. Tình hình nhiễm đơn bào đường máu Leucocytozoon ở gà 34
4.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo địa phương 34
4.2.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tháng
trong năm. 38
4.2.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo tuổi gà 40
4.2.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon theo phương thức chăn
nuôi gà
42
8

4.2.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Leucocytozoon ở gà theo tình trạng vệ
sinh thú y
44
4.2.6. Nghiên cứu đặc điểm hoạt động của dĩn - véc tơ truyền
Leucocytozoon cho gà 46
4.2.6.1. Thành phần loài dĩn - véc tơ truyền Leucocytozoon cho gà ở các
địa phương 46
4.2.6.2. Quy luật hoạt động của các loài dĩn ở các địa phương nghiên cứu 47
4.3. Nghiên cứu hiệu quả của 3 phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon
cho gà 50
PHẦN 5: KẾT LUẬN TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 54
5.1. Kết luận 54
5.1.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại 4 xã thuộc
huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang. 54
5.1.2. Thử nghiệm phác đồ điều trị Leucocytozoon ở gà. 54
5.2. Đề nghị 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO

56
I. Tài liệu tiếng Việt 56
II. Tài liệu tiếng Anh 58




1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Với đặc
thù là nước Nông nghiệp, ngành chăn nuôi chiếm một vị trí quan trọng trong
cơ cấu nền kinh tế nói chung và trong sản xuất Nông nghiệp nói riêng. Chăn
nuôi gia cầm đã và đang chiếm một vị trí quan trọng và luôn được quan tâm
hàng đầu vì nó có khả năng đáp ứng nhanh nhu cầu thực phẩm phục vụ cho
người tiêu dùng.
Tuy nhiên, cho đến nay chăn nuôi vẫn đang tồn tại một số vấn đề, các
hộ gia đình chăn nuôi gà chủ yếu với số lượng ít, chuồng trại đơn giản, những
gia đình chăn nuôi gà công nghiệp với quy mô nhỏ cũng vẫn chỉ là chăn nuôi
bán công nghiệp. Vấn đề vệ sinh thú y trong chăn nuôi gà chưa được quan
tâm đúng mức, dịch bệnh thường xảy ra, gây trở ngại cho việc phát triển chăn
nuôi, gây thiệt hại kinh tế cho nhiều gia đình và cơ sở chăn nuôi gà.
Ngoài những bệnh truyền nhiễm thì bệnh do ký sinh trùng gây ra cũng
rất phổ biến trong chăn nuôi gà. Nước ta là nước nhiệt đới có khí hậu nóng
ẩm quanh năm nên rất thích hợp cho sự phát triển và lây lan bệnh ký sinh
trùng nói chung và bệnh ký sinh trùng đường máu nói riêng. Theo Phạm Sỹ
Lăng, Phan Địch Lân (2002) [13] đàn gia cầm nước ta thường nhiễm ký sinh

trùng với tỷ lệ và cường độ cao, diễn ra quanh năm, bất kể mùa vụ và thời tiết
nào. Như vậy thiệt hại mà bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh ký sinh trùng
đường máu nói riêng là rất rõ rệt.
Trong các bệnh ký sinh trùng ở gà, có những bệnh do nhóm đơn bào ký
sinh gây ra, chúng chiếm đoạt chất dinh dưỡng, tiết độc tố, gây ra những biến
đổi bệnh lý làm cho gà gầy yếu, chậm lớn, giảm mạnh sức sản xuất thịt,
trứng. Đặc biệt, một số bệnh đơn bào cũng gây ra các “ổ dịch cấp tính”, làm
cho gà chết nhanh với tỷ lệ cao không kém các bệnh truyền nhiễm, trong đó
có bệnh đơn bào đường máu Leucocytozoon.
Theo Shane S. M. (2005) [47], Leucocytozoon thuộc nhóm nguyên sinh
động vật, thuộc bộ huyết bào tử trùng (Heamosporidia) ký sinh trong máu và
2

cơ quan nội tạng của nhiều loài gia cầm, trong đó gà là loài mẫn cảm nhất,
đặc biệt là gà được nuôi theo phương thức chuồng hở.
Bệnh do các loài đơn bào Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu (đôi
khi thấy trong bạch cầu) gây ra xuất huyết, tan vỡ hồng cầu, dẫn đến thiếu
máu và ỉa chảy phân xanh màu lá cây, làm gà chết với tỷ lệ cao tới 30 - 50%.
Với diện tích đất đồi lớn, chăn nuôi gà tại huyện Yên Thế - tỉnh bắc
Giang đã và đang chiếm một số lượng lớn về cơ cấu của ngành chăn nuôi tại
địa phương này. Tuy nhiên, việc phòng và trị bệnh ký sinh trùng đặc biệt là
bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra chưa được chú trọng. Xuất phát từ nhu
cầu thực tế, để góp phần hạn chế thiệt hại do đơn bào Leucocytozoon gây ra,
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:" Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh
đơn bào do Leucocytozoon gây ra ở gà nuôi tại huyện Yên Thế - tỉnh Bắc
Giang và thử nghiệm phác đồ điều trị ".
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được các loài Leucocytozoon gây bệnh cho gà và đặc điểm
dịch tễ bệnh do Leucocytozoon gây ra ở đàn gà của một số địa phương thuộc
huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang.

- Lựa chọn phác đồ điều trị bệnh Leucocytozoon có hiệu quả cho gà
1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu đề tài để có những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ
bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà tại một số địa phương thuộc huyện Yên
Thế - tỉnh Bắc Giang, đồng thời có cơ sở khoa học để xây dựng quy trình
phòng trị bệnh đơn bào Leucocytozoon cho gà có hiệu quả cao.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở để khuyến cáo người chăn nuôi gà áp dụng
các biện pháp phòng trị bệnh đơn bào Leucocytozoon, nhằm hạn chế tỷ lệ
nhiễm Leucocytozoon cho gà, hạn chế thiệt hại do Leucocytozoon gây ra, góp
phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy chăn nuôi gà nói riêng và chăn
nuôi gia cầm nói chung phát triển.
3

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Ký sinh trùng là những sinh vật sinh trưởng và phát triển trong hoặc
trên cơ thể một sinh vật khác - gọi là ký chủ, chiếm đoạt chất dinh dưỡng của
ký chủ mà nó ký sinh. Trong phân loại học, dựa theo cấu trúc cơ thể của ký
sinh trùng mà người ta chia những ký sinh trùng động vật ra làm 3 ngành:
nguyên trùng, giun sán và tiết túc. Trong đó, nguyên trùng là ký sinh trùng
đơn bào (protozoa), cơ thể chỉ gồm một tế bào, thường ký sinh trong máu
(Trypanosoma, Histomonas, Leucocytozoon…) hoặc trong ruột ký chủ (cầu
trùng) (Dương Công Thuận, 1995) [27].
Bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra có ở nhiều nước trên thế giới.
Tỷ lệ lưu hành Leucocytozoon trên đàn gà ở một số nước Châu Á khá cao: ở
Trung Quốc (7,1%), Thái Lan (13 - 18%), Malaysia (15 - 31%).

Leucocytozoon ký sinh trong hồng cầu gà, đôi khi ký sinh trong bạch cầu (tùy
theo loài), làm tan vỡ hồng cầu, gây bần huyết và gây chết gà với tỷ lệ cao,
ảnh hưởng đến thu nhập của người chăn nuôi gà. Bệnh cũng được phát hiện ở
nhiều loài chim hoang dã.
2.1.1. Đặc điểm của đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở gà
2.1.1.1. Vị trí của đơn bào Leucocytozoon trong hệ thống phân loại động vật
Đơn bào nói chung là những nguyên sinh động vật không có khí quan
di động, thân thể khi thì trần và có thể biến dạng được, khi thì có màng bọc và
có hình dạng nhất định. Đơn bào sống ký sinh ở các tế bào, các mô hay dịch
thể, có thể suốt đời hoặc những giai đoạn đầu trong vòng đời của chúng.
Chúng tự nuôi dưỡng bằng cách thẩm thấu dinh dưỡng chiếm đoạt của ký chủ
qua bề mặt cơ thể.
Các loài đơn bào thuộc giống Leucocytozoon ký sinh trong máu của
nhiều loài gia cầm, thủy cầm, chim và nhiều loài chim hoang dã. Gà là vật
chủ cảm thụ đơn bào Leucocytozoon mạnh nhất. Bệnh được Ziemann phát
hiện lần đầu tiên vào năm 1898. Từ đó đến nay, trên thế giới đã có nhiều công
trình nghiên cứu về bệnh.
4

Theo Levine N. D. (1985) [38], Leucocytozoon gây bệnh cho gà có vị
trí trong hệ thống phân loại như sau:
Ngành Protozoa
Lớp Sporozoa
Bộ Haemosporidia
Họ Leucocytozoidae
Giống Leucocytozoon
Loài L. caullergyi (Mathis et Leger, 1909)
L. sabrazeis (Mathis et Leger, 1910)
L. simondi (Mathis et Leger, 1910)
L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)

L. andrewsi (Atchley, 1951)
L. schufneri (Prowazek, 1912)
L. schoutedeni (Rodham Pons et Bequaert, 1913)
Đến nay, các nhà khoa học đã phát hiện được 107 loài Leucocytozoon spp.
ký sinh và gây bệnh cho gà, gà tây, vịt, ngỗng và nhiều loài chim hoang dã.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [14]; (2010) [18]: có 4 loài đơn bào được
xác định là tác nhân gây bệnh chính cho gà và các vật chủ khác:
Loài Vật chủ trung gian Vật chủ
L. caullergyi (Mathis et
Leger, 1909)
Các loài dĩn thuộc giống
Culicoides
Các giống gà; gà nhà, gà
rừng
L. sabrazeis (Mathis et
Leger, 1910 )
Các loài dĩn thuộc giống
Culicoides spp. và Simulium spp.

Gà và chim hoang dã
L. simondi (Mathis et
Leger, 1910)
Các loài dĩn Simulium spp. Các giống vịt, các loài thủy
cầm và chim hoang dã
L. smithi (Lavenran et
Lucet, 1905)
Các loài dĩn Simulium spp. Gà tây

2.1.1.2. Đặc điểm hình thái các loài Leucocytozoon ở gà
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9] cơ thể đơn bào thường do

một tế bào rất nhỏ cấu thành, tổ chức của đơn bào gồm màng tế bào, chất
nguyên sinh, hạt hoặc nhân tế bào.
5

Đơn bào Leucocytozoon ký sinh ở hồng cầu, bạch cầu, các nội tạng của
gà và các loài chim ở hai dạng: dạng tiểu thể hình dùi trống, hoặc hình thoi
nhọn hai đầu với kích thước từ 15 - 20 µm; dạng bào tử hình trứng với kích
thước từ 20 - 25 µm.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [14] cho biết: trong quá trình phát triển ở
ký chủ cũng như ở véc tơ trung gian truyền bệnh, các loài Leucocytozoon có
nhiều hình dạng khác nhau. Kích thước của chúng thay đổi tùy thuộc vào
dạng và loài đơn bào Leucocytozoon.
- Dạng bào tử (Sporozoite): hình thuẫn hoặc hình elip nhọn 2 dầu, kích
thước 10 - 15 µm. Thể này thấy ở tuyến nước bọt của dĩn (véc tơ trung gian
truyền bệnh).
- Dạng tiểu thể (Merozoite): hình tròn, hình trứng, kích thước 15 - 20 µm.
- Dạng giao tử (Schizont): hình elip, thon nhỏ 2 đầu, kích thước 20 - 45 µm.
- Dạng đại giao tử (Macrogametocyte): hình đa giác, gần tròn, kích
thước 350 - 400 µm.
- Dạng tiểu phối tử (Microgametocyte): hình thuẫn, hình trứng, kích
thước 20 - 25 µm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Tô Long Thành (2006) [15]; Phạm Sỹ Lăng và
cs (2008) [16], hai loài L. caullergyi và L. sabrazeis có hình dạng gần giống
nhau, chỉ khác về tính chất gây bệnh. Chúng có dạng hình cầu, hình bầu dục,
hình lưỡi liềm; kích thước 20 x 5 µm, không có sắc tố khi nhuộm Giemsa, ký
sinh ở hồng cầu của gà, gà rừng.
2.1.1.3. Vòng đời của Leucocytozoon ở gà
Saif Y. M. (2003) [46] cho rằng: giai đoạn sinh bào tử diễn ra trên vật
chủ trung gian và có thể được hoàn thành sau 3 - 4 ngày. Noãn nang phát triển
và có thể tìm thấy trong đường tiêu hóa của dĩn trong vòng 12 giờ sau khi dĩn

hút máu. Sau đó các noãn nang này di chuyển đến tuyến nước bọt của dĩn, có
thể tìm thấy noãn nang ở tuyến nước bọt dĩn sớm nhất sau khi dĩn hút máu gà
bệnh 18 ngày.
6

Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [14] cho biết: các loài Leucocytozoon có
vòng đời rất phức tạp, cần vật chủ trung gian là các loài dĩn thuộc giống
Simulium spp. và Culicoides spp Tuy đặc điểm thời tiết khí hậu của các vùng
sinh thái khác nhau mà thành phần loài dĩn cũng thay đổi.
Sau khi xâm nhập vào dĩn do dĩn hút máu gà bệnh, các tiểu thể
(Merozoite) phát triển qua một số giai đoạn ở vách dạ dày thành noãn nang để
thành thể bào tử (Sporozoite). Thể bào tử chuyển lên tuyến nước bọt của dĩn
sau thời gian phát triển khoảng 25 ngày. Khi dĩn hút máu các loài vật chủ (gà,
các loài gia cầm khác và chim hoang dã) sẽ truyền mầm bệnh vào máu.
Các bào tử từ máu xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách,
phổi, thận, tổ chức cơ để trở thành giao tử (Schizont). Các giao tử vào hồng
cầu phát triển thành tiểu thể (Merozoite), giao tử thể (Gametocyte), đại giao tử
(Marcrogametocyte) và tiểu giao tử (Mircrogametocyte).
Khi dĩn hút máu gia cầm bệnh, vào cơ thể dĩn, các tiểu thể lại phát triển
thành noãn nang (Oocyst), rồi bào tử (Sporozoite) trong vách dạ dày dĩn và
vòng đời lại được lặp lại.
Tác giả Lê Minh Thành cho biết vòng đời của Leucocytozoon bao gồm
các giai đoạn như sau:
* Giai đoạn ở tế bào chủ:
Gia cầm bị dĩn - ký chủ trung gian truyền bệnh đốt và truyền mầm bệnh
(các bào tử Sporozoite) vào cơ thể. Khi vào cơ thể gia cầm, mầm bệnh theo
máu tới gan, lách, thận, não… Tại đây, chúng xâm nhập vào các tế bào của ký
chủ và bắt đầu sinh sản vô tính bằng hình thức liệt phân, kết quả từ 1
Sporozoit đã tạo ra một lượng lớn Merozoite. Chính những Merozoite này mới
có khả năng xâm nhập vào máu và ký sinh ở hồng cầu (quá trình này mất 4 - 6

ngày hoặc kéo dài hơn tùy loài).
Quá trình sinh sản của đơn bào ở trong tế bào gan của vật chủ không có
chu kỳ nhất định. Sau khi phát triển ở gan, tất cả các Merozoite đều vào máu.
7

* Giai đoạn ở trong hồng cầu: giai đoạn này tạo thể tự dưỡng và thể
phân liệt trong đó có thể mang giới tính (giao tử đực và giao tử cái). Giai đoạn
ở trong hồng cầu bắt đầu từ khi các Merozoite từ gan vào máu, tiếp cận với bề
mặt hồng cầu có những thụ thể Receptor tương ứng và xâm nhập vào hồng
cầu qua 5 giai đoạn:
- Nhận diện và gắn bám
- Hình thành điểm tiếp giáp
- Tạo nên màng không bào liên tiếp màng hồng cầu
- Lọt vào màng không bào qua điểm tiếp nối chuyển động
- Hồng cầu hàn kín sau khi Merozoite lọt vào
Sau khi lọt vào trong hồng cầu, Merozoite hình thành không bào và phát
triển trong hồng cầu theo kiểu có chu kỳ, qua các thể:
Thể tự dưỡng (Trophozoite): gồm thể Trophozoite non (thể nhẫn), thể
Trophozoite phát triển (thể amip) và thể Trophozoite già.
Thể phân liệt (Schizont) gồm: Schizont non và Schizont già.
Sau khi kết thúc 1 chu kỳ phát triển, các Merozoite trong Schizont phá
vỡ hồng cầu vào máu, một số bị thực bào hoặc chết, một số xâm nhiễm vào
hồng cầu khác và tiếp tục phát triển theo chu kỳ tương tự.
Sau một số chu kỳ, có những Merozoite tiếp tục xâm nhập vào hồng
cầu, nhưng không tạo thành các thể Merozoite nữa mà phát triển thành thể có
giới tính: Gametocyte (Macrogametocyte - giao tử cái và Microgametocyte -
giao tử đực). Sau đó giao tử dực và giao tử cái kết hợp với nhau tạo thành hợp
tử (Zygote), gây phá vỡ hồng cầu và di chuyển trong máu.
Khi ký chủ trung gian là dĩn hút máu gia cầm, mầm bệnh sẽ vào ký chủ
trung gian và tiếp tục vòng đời.

Trong ký chủ trung gian, hợp tử nở ra và phát triển thành dạng trưởng
thành (thoi trùng). Chúng di chuyển lên tuyến nước bọt của dĩn và cư trú ở đó.
Khi dĩn hút máu gia cầm, các thoi trùng theo tuyến nước bọt vào máu của gia
cầm và bắt đầu vòng đời mới.
8



Hình 2.1. Sơ đồ minh họa vòng đời Leucocytozoon ở gà
Tuy nhiên Lê Văn Năm (2011) lại cho rằng: chu kỳ phát triển sinh học
của Leucocytozoon gồm 2 giai đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn
phát triển trong cơ thể dĩn - véc tơ truyền bệnh và giai đoạn hai là giai đoạn
phát triển trong cơ thể vật chủ:
- Giai đoạn phát triển trong cơ thể dĩn - véc tơ truyền bệnh: đây là giai
đoạn hình thành bào tử nang (Sporogony), giai đoạn này kết thúc trong vòng 3 -
4 ngày. Vì trong máu của gia cầm bệnh đã có sẵn giao tử đực và giao tử cái, hoặc
hợp tử của Leucocytozoon, nên ngay sau khi hút máu gia cầm bệnh, các tế bào
máu chứa mầm bệnh bị dịch tiêu hóa của ký chủ trung gian (dĩn) làm tan vỡ và
9

giải phóng ra các giao tử và các hợp tử. Chúng nhanh chóng bám vào thành dạ
dày và chui vào các tế bào niêm mạc dạ dày, ruột của dĩn. Ở đó chúng bắt đầu
phát triển thành bào tử nang (Oocyst). Toàn bộ quá trình này chỉ diễn ra trong
vòng 12 giờ kể từ thời điểm dĩn hút máu gia cầm bệnh lần cuối.
Trong mỗi bào tử nang bắt đầu có quá trình sinh trưởng và phát triển
thành 4 thoi trùng (Sporozoite). Các thoi trùng này nhanh chóng lớn lên và di
hành đến cư trú trong tuyến nước bọt của ký chủ trung gian truyền bệnh. Chỉ
có các thoi trùng này mới có khả năng truyền bệnh. Ký chủ trung gian truyền
bệnh cho gia cầm thụ cảm thông qua việc hút máu của gia cầm bệnh, sau đó
hút máu của gia cầm khỏe và truyền nước bọt kèm theo thoi trùng gây bệnh

vào cơ thể gia cầm khỏe. Như vậy, kể từ khi dĩn hút máu gia cầm bệnh lần
cuối đến lúc có khả năng truyền bệnh phải mất 18 ngày.
- Giai đoạn phát triển của Leucocytozoon trong cơ thể gia cầm thụ cảm.
Ngay sau khi thoi trùng theo nước bọt của ký chủ trung gian truyền bệnh xâm
nhập vào cơ thể gia cầm, chúng lột xác và hình thành nên các thể phân lập
trung gian (Merozoite), các thể phân lập trung gian này bám ngay vào các tế
bào máu và theo máu đi khắp cơ thể. Từ đây, chúng phát triển theo hai hướng:
Hướng thứ nhất: Chúng chui vào và ký sinh trong các tế bào máu, sinh
trưởng và phát triển theo phương thức tự nhân đôi để tạo ra các thể phân lập
thế hệ 1 (Schizont - 1). Các Schizont thế hệ 1 này lớn lên nhanh chóng và tiết
ra một chất làm tan hồng cầu, chất đó được gọi là chất kháng hồng cầu (anti-
erythrocyte). Dưới tác động cơ học của nhiều thể phân lập đã sinh ra trong
mỗi hồng cầu, và dưới tác động của chất kháng hồng cầu, một số lượng lớn
hồng cầu bị phá vỡ và giải phóng ra nhiều thể phân lập thế hệ 1, đây là
nguyên nhân chính dẫn đến thiếu máu, tăng Hemobilirubin, máu trở nên
loãng, nhớt và khó đông. Các thể phân lập thế hệ 1 lập tức tấn công và ký sinh
tiếp vào các tế bào hồng cầu mới, chúng lớn lên và lại nhân đôi để hình thành
thể phân lập thế hệ 2 (Schizont - 2), cứ tiếp tục như vậy chúng hình thành thể
phân lập thế hệ 3 (Schizont - 3) thì dừng lại và bắt đầu hình thành các giao tử
(Gametocyte). Giao tử đực có kích thước nhỏ gọi là Microgametocyte và giao
tử cái có kích thước lớn hơn gọi là Macrogametocyte. Kết thúc giai đoạn sinh
sản vô tính và bắt đầu giai đoạn sinh sản hữu tính.
10

Giai đoạn sinh sản hữu tính xảy ra trong các tế bào hồng cầu. Giao tử
đực chui vào giao tử cái để thụ tinh và hình thành nên hợp tử. Hợp tử được
bọc bởi một màng và được gọi là bào tử, có kích thước trung bình 14,5 - 5,5
µm. Sau đó, chúng phát triển thành các bào tử hình thoi, có kích thước lên đến
45 µm. Chỉ có các thoi trùng này mới có khả năng lây truyền thông qua côn
trùng hút máu gia cầm bệnh và truyền thoi trùng gây bệnh cho gia cầm khỏe.

Hướng thứ hai: Sau khi các thoi trùng theo máu di hành khắp nơi trong
cơ thể, một phần chúng cư trú tại các cơ quan như lách, thận, phổi, gan, dạ
dày tuyến, dạ dày cơ, ruột non, buồng trứng, ống dẫn trứng và não. Tại đây,
chúng lột xác và chui vào ký sinh trong các tế bào nội mô, tế bào lưới và đại
thực bào của các cơ quan kể trên của gia cầm thụ cảm. Trong các tế bào đó
chúng bắt đầu sinh trưởng, lớn lên và sinh sản theo phương thức tự nhân đôi,
làm vỡ nát các tế bào của các cơ quan nội tạng ký chủ. Sau đó chúng phát
triển và tạo nên thể phân lập cực đại gọi là Megaloschizont với kích thước lên
đến 400 µm và làm tắc nhiều mao mạch của các cơ quan ký chủ. Để tiếp tục
phát triển, trong mỗi Megaloschizont hình thành nên 2 thể phân lập trung gian
Merozoite, chúng lớn lên và rời khỏi Megaloschizont, rời khỏi tế bào của cơ
quan ký chủ, chui vào các tế bào máu để ký sinh và quá trình phát triển được
tiếp tục lặp lại như hướng thứ nhất - kết thúc giai đoạn sinh sản vô tính trong
các tế bào nội mô ở các cơ quan nội tạng của gia cầm thụ cảm.
* Tính chuyên biệt của Leucocytozoon
Theo Johannes Kaufmann (1996) [36], mỗi loài Leucocytozoon chỉ ký
sinh trong một hoặc một số ký chủ nhất định.
2.1.2. Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà.
2.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh Leucocytozoon gây ra
Bệnh đơn bào Leucocytozoon ở gà không gây thành ổ dịch lớn nguy
hiểm, ít làm cho gà chết đột ngột và chết hàng loạt (trừ trường hợp đặc biệt).
Song, đơn bào này đã gây tác hại nghiêm trọng, làm cho sự sinh trưởng và
phát triển của gà bị ngừng trệ, cơ thể gầy còm, thiếu máu, khả năng tăng trọng
giảm, số lượng và chất lượng của thịt, trứng giảm, dẫn đến năng suất chăn
nuôi giảm thấp.
11

Olsen O. W. (1986) [43], cho biết: ngoài gà (tỷ lệ nhiễm cao và mắc
bệnh nặng nhất), vịt nhiễm Leucocytozoon cũng thường bị bệnh ở thể nặng,
các triệu chứng lâm sàng thể hiện rõ rệt, tỷ lệ tử vong cao.

Theo Shane S. M. (2005) [47], Leucocytozoonosis thường gặp ở các
nước nhiệt đới, đặc biệt là ở những nơi mà các trang trại nằm gần ao, hồ. Đàn
gia cầm mắc bệnh giảm mạnh tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ chết cao có thể lên đến
100% nếu không được chữa trị kịp thời.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [14] cho rằng: gà bị bệnh đơn bào đường
máu Leucocytozoon ở thể cấp tính có thể chết đột ngột do xuất huyết các nội
quan và thiếu máu cấp. Gà mái giảm đẻ hoặc ngừng đẻ, kém ăn, giảm tăng
trọng và gầy yếu nhanh. Gà mắc bệnh sẽ chết sau 3 - 6 ngày với tỷ lệ tới trên
50% số gà bị bệnh.
Lê Văn Năm (2001) [21] cho biết: tại một số địa phương như Bắc
Giang, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, bệnh đơn bào
Leucocytozoon xuất hiện ở hầu hết các đàn gà nuôi thả vườn với tỷ lệ dao
động từ 40 - 70%, gây thiệt hại vô cùng to lớn cho người chăn nuôi.
2.1.2.2. Dịch tễ học bệnh Leucocytozoon ở gà
Lê Đức Quyết và cs (2009) [23] cho biết: tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng sinh
thái, phương thức chăn nuôi
Theo Lê Văn Năm (2001) [21], bệnh do Leucocytozoon gây ra có tính
chu kỳ rõ rệt, phụ thuộc vào mùa sinh sản và phát triển của côn trùng hút máu
truyền bệnh.
Loài gây bệnh và động vật mắc bệnh
Trong tự nhiên, gà, gà rừng, chim trĩ và các loài chim thuộc bộ gà
(Galliformes) đều có thể bị bệnh. Bệnh từ gà nhà có thể truyền lây sang gà
rừng qua ký chủ trung gian và ngược lại. Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [11];
(2010) [15] cho rằng: có 4 loài đơn bào giống Leucocytozoon chủ yếu ký sinh
và gây bệnh cho gà:
* L. caulleryi (Mathis et Leger, 1909)
Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà nhà, gà rừng ở các nước thuộc
Đông và Đông Á: Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, các bang thuộc
12


khu vực Bắc Mỹ. Vật chủ trung gian của L. caulleryi là các loài dĩn thuộc
giống Culicoides như: C. arakava, C. circumscriptus, C. odibilis.
* L. sabrazeis (Leger, 1910)
Loài này ký sinh và gây bệnh cho gà và chim hoang dã ở các nước
Đông Nam Á: Philippine, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam.
Vật chủ trung gian của L. sabrazeis: các loài dĩn thuộc giống Culicoides
spp và Simulium spp.
* L. simondi (Mathis et Leger, 1910)
L. simondi ký sinh và gây bệnh cho vịt nhà và vịt trời, ngỗng nhà và
ngỗng trời, các loài thuỷ cầm nuôi và hoang dã ở Mỹ, Canada, các nước vùng
Balkan và Việt Nam.Vật chủ trung gian: các loài dĩn thuộc giống Simulium spp.
* L. smithi (Laveran et Lucet, 1905)
Loài này ký sinh ở gà tây tại các bang thuộc vùng Đông Mỹ (Bắc
Dakota, Nebraska), CHLB Đức, các nước vùng Balkan Vật chủ trung gian
của L. smithi là các loài dĩn thuộc giống Simulium spp.
Lương Văn Huấn và Lê Hữu Khương (1997) [5] cho biết loài L.
caullergyi có đặc điểm như sau: cơ thể đơn bào hình hơi tròn, kích thước 15,0
-15,5 µm. Tế bào vật chủ cũng tròn, kích thước 20 µm. Ở trong cơ thể dĩn -
véc tơ truyền bệnh, Zygote có dạng tròn đường kính 14 µm, sau đó kéo dài,
kích thước 21µm, chúng xuyên qua vách ruột tạo thành Oocyst hình gần tròn,
kích thước 4 -14 x 5-14 µm. Oocyst phát triển thành thoi trùng (Sporozoite).
Các thoi trùng đến tuyến nước bọt của dĩn có kích thước 7 - 11 x 1 - 2 µm.
Tuổi mắc bệnh: Gà ở các lứa tuổi đều bị bệnh. Tuổi gà càng cao tỷ lệ
và cường độ nhiễm bệnh càng tăng.
Mùa vụ: Gà mắc bệnh ở tất cả các mùa trong năm, nhưng nhiễm nhiều
và nặng ở mùa Hè và mùa Xuân.
Điều kiện vệ sinh thú y: Điều kiện vệ sinh thú y đối với chuồng trại và
khu vực xung quanh chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi là một
trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới khả năng nhiễm bệnh Leucocytozoon

của gà. Điều này có liên quan mật thiết với sự tồn tại và phát triển của các loài
dĩn hút máu - véc tơ truyền bệnh.
13

Yếu tố stress: Các yếu tố strees như chuồng trại chật chội, khí hậu ẩm,
thấp, thức ăn kém dinh dưỡng đóng vai trò thúc đẩy mức độ và tốc độ lây
lan bệnh Leucocytozoon ở gà.
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh của bệnh Leucocytozoon
Bệnh lây truyền từ gà bệnh sang gà khoẻ qua đường máu nhờ vật chủ
trung gian là các loài dĩn thuộc họ Culicoides spp. và Simulium spp Dĩn hút
máu của gà bệnh có đơn bào ký sinh trong máu. Vào cơ thể dĩn, đơn bào phát
triển qua 3 giai đoạn, cuối cùng thành bào tử nằm ở tuyến nước bọt của dĩn.
Khi dĩn mang mầm bệnh hút máu gà khoẻ, bào tử sẽ được truyền cho gà khoẻ
và gây bệnh cho gà.
Các bào tử xâm nhập vào các tế bào nội quan như: gan, lách, phổi,
thận, tổ chức cơ để trở thành bào tử (Schizont); các bào tử vào hồng cầu phát
triển thành tiểu thể (Merozoite), giao tử thể (Gametocyte), đại giao tử
(Marcrogametocyte) và tiểu giao tử (Mircrogametocyte). Chúng phát triển,
phá huỷ tế bào hồng cầu và gây hoại tử các cơ quan tổ chức, đặc biệt là lách
và gan. Đồng thời chúng tiết ra chất anti-erythrocyte làm tan hồng cầu.
2.1.2.4. Triệu chứng và bệnh tích bệnh Leucocytozoon
* Triệu chứng bệnh Leucocytozoon
Orlov F. M. (1975) [22] cho biết: gà tây thường mắc bệnh trước 12 tuần
tuổi. Gà bệnh bỏ ăn, suy yếu toàn thân, ít vận động, rối loạn vận động. Gà tây
bắt đầu chết từ 2 - 3 ngày sau khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên.
Theo tài liệu của Viện Thú y Quốc gia (2001) [30]; (2002) [31], triệu
chứng chủ yếu của gà mắc bệnh do đơn bào Leucocytozoon gây ra là:
- Ho ra máu và chết đột ngột
- Thiếu máu, đặc biệt mào và tích do thiếu máu nên có màu tím tái
- Nhịp thở nhanh

- Phân có mầu xanh
- Giảm sản lượng trứng và trứng có vỏ mỏng (với gà mái đẻ)
- Xuất huyết da chân
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2009) [11] cho biết: Bệnh thường xảy ra
thành dịch tại một số khu vực vùng núi và trung du thuộc các nước Đông
14

Nam Á, nhất là vào mùa hè và mùa xuân, khi mà các loài dĩn - véc tơ truyền
bệnh phát triển và hoạt động mạnh.
Thời gian ủ bệnh từ 4 - 7 ngày.
Gà bệnh thể hiện các triệu chứng đặc trưng sau:
Thể cấp tính: gà ở lứa tuổi từ 1 - 3 tháng chết đột ngột do xuất huyết
các nội tạng, hồng cầu tan vỡ hàng loạt, gây bần huyết cấp tính; ỉa chảy nặng,
phân có màu xanh lá cây, thường có lẫn máu. Gà mái đang đẻ bị bệnh sẽ giảm
đẻ hoặc ngừng đẻ do đơn bào tác động vào cơ quan sinh sản. Gà trưởng thành
mắc bệnh sẽ giảm tăng trọng, gầy yếu nhanh, nhưng chết ít hơn gà con. Gà ở
lứa tuổi từ 1 - 3 tháng bị bệnh sẽ chết sau 3 - 6 ngày với tỷ lệ cao.
Lê Văn Năm (2001) [21] cho biết, triệu chứng của gà bị bệnh
Leucocytozoon gồm các thể như sau:
- Thể quá cấp:
Trong suốt thời gian ủ bệnh, gà bị sốt cao nhưng có thể vẫn ăn uống
bình thường nên người chăn nuôi hầu như không để ý, hoặc không quan sát
thấy những biểu hiện bất thường của đàn gà. Bệnh bỗng dưng bùng phát lẻ tẻ
khi gặp các yếu tố strees bất lợi, với các triệu chứng điển hình như: đột nhiên
ho hoặc hắt hơi, mào, tích tái nhợt, ộc máu ra miệng, mũi, đôi khi ở cả hậu
môn rồi chết. Một số khác lại có triệu chứng lừ đừ hoặc có triệu chứng thần
kinh, nhảy sốc lên rồi rơi xuống nền dãy dụa và chết. Cả hai trường hợp trên
đều do dập vỡ gan, hoặc xuất huyết não bởi sự phát triển quá mạnh của các
Leucocytozoon trong các cơ quan đó.
Số gà chết như mô tả trên không xảy ra ồ ạt, nhưng tăng dần qua mỗi

ngày. Nếu không được chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời, tỷ lệ chết sẽ rất cao.
- Thể cấp tính:
Đây là thể bệnh phổ biến nhất và gắn liền với thời tiết ẩm ướt do mưa
phùn kéo dài. Khí hậu ẩm thấp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, sinh
sôi, nảy nở của véc tơ truyền bệnh.
Trong những đàn gà mắc bệnh ở thể này, lúc đầu chỉ thấy một số ít gà
có biểu hiện sốt cao, mào thâm tái, sau vài ngày trở nên trắng bệch. Khi cắt
tiết gà thấy máu rất loãng, khó đông.
15

Gà bị bệnh giảm ăn, ít vận động, đi lại không vững. Gà bị tiêu chảy,
phân có màu xanh đậm.
Gà bệnh gầy sút nhanh, yếu dần và rất khó thở, thở khò khè, phải vươn
cổ ra để thở. Nếu độ ẩm không khí cao, chuồng nuôi ẩm thấp thì gà bệnh càng
khó thở và rất dễ chết. Tuy nhiên, gà chết không ồ ạt, nhưng tỷ lệ chết tăng
dần qua mỗi ngày. Lúc đầu gà chỉ chết vào ban đêm, về sau chết bất kỳ lúc
nào, tỷ lệ chết có thể lên đến 70%. Bệnh nặng hơn nếu gà bị bệnh ghép với
CRD, Newcastle
Ở gà mái: triệu chứng thường thấy là giảm sản lượng trứng, đồng thời
khối lượng trứng của gà bệnh cũng giảm rõ rệt, vỏ trứng mềm, dễ vỡ, hoặc
ngược lại vỏ rất dầy. Khi cho ấp trứng của những đàn gà đẻ bị mắc bệnh
Leucocytozoon thì tỷ lệ ấp nở giảm, gà mới nở bị chết yểu trong 3 - 5 ngày
đầu chiếm tỷ lệ rất cao.
- Thể á cấp tính:
Đây là thể bệnh được chuyển sang từ thể cấp tính, ở những gà có sức đề
kháng tốt hoặc ở gà trên 1 năm tuổi. Bệnh thường thấy ở gà đang vào thời kỳ
đẻ tốt nhất. Bệnh cũng có thể xảy ra ở thủy cầm, hoang cầm và ít thấy ở gia
cầm khác nuôi trên cạn.
Gà bệnh sốt cao, giảm ăn, tiêu chảy, ho hen, chết rải rác. Tỷ lệ chết
ngày càng tăng và có thể lên đến 30 - 40 % tổng đàn.

- Thể mạn tính:
Đây là thể bệnh thường gặp ở gà bị nhiễm số lượng Leucocytozoon ít.
Ngoài ra, các loài chim hoang dã, gia cầm sống sót sau khi mắc bệnh hoặc
những gia cầm, thủy cầm được chăn nuôi quảng canh cũng có thể bị bệnh ở
thể mạn tính.
Bệnh có những biểu hiện không rõ ràng, gà vẫn ăn uống bình thường,
đôi khi giảm ăn tức thời. Các triệu chứng như ủ rũ, động kinh hoặc đi lại
không vững đều ngắt quãng, không xuất hiện liên tục. Gà bệnh thiếu máu, lờ
đờ, tỷ lệ chết không đáng kể nhưng chúng mang mầm bệnh trong nhiều năm
và trở thành nguồn bệnh tiềm tàng nguy hiểm.
16

* Bệnh tích bệnh Leucocytozoon
Mổ khám gà bệnh thấy: xuất huyết đỏ sẫm ở tất cả các phủ tạng (tim,
lách, phổi, thận) và tổ chức cơ. Đôi khi cũng có các điểm hoại tử trắng trên mặt
gan giống như bệnh tụ huyết trùng gia cầm. Ngoài ra, có thể thấy bệnh tích ở
đường tiêu hóa như: niêm mạc đường tiêu hoá bị tổn thương và xuất huyết.
Olsen O. W. (1986) [43] cho biết, gà bị nhiễm đơn bào Leucocytozoon
ở cường độ nặng có các bệnh tích điển hình thì tỷ lệ tử vong cao. Các cơ quan
nội tạng ký chủ có số lượng đơn bào ký sinh khác nhau. Các đơn bào ký sinh
trong các cơ quan được bao bọc bởi một lớp do tế bào lympho và bạch cầu
đơn nhân lớn tạo nên thể Megaloschizont.
Theo Lâm Thị Thu Hương (2005) [7], khi mổ khám và quan sát bằng
mắt thường, thấy trên cơ thể gà có những nốt mầu trắng đục hay vàng, đỏ
hoặc chuyển sang đen, có kích thước từ 0,2 - 0,5 mm, đôi khi lên đến 1 mm.
Những nốt này là bệnh tích do một giai đoạn phát triển của đơn bào L.
caulleryi gây ra. Đơn bào Leucocytozoon được phát hiện ở nhiều vị trí trên cơ
thể gà. Một gà có thể nhiễm Leucocytozoon cùng lúc trên 6 cơ quan phủ tạng.
Sự nhiễm Leucocytozoon thường gặp nhiều nhất ở các cơ quan như phổi, gan,
thận, mô cơ.

Lê Văn Năm (2001) [21] cho biết: bệnh tích đại thể của bệnh do đơn
bào Leucocytozoon gây ra ở gà rất điển hình, được quan sát thấy trong nhiều
cơ quan nội tạng như: gan, lách, thận, tim, phổi, ruột non, não, buồng trứng và
ống dẫn trứng Những biến đổi đại thể ở các cơ quan nội tạng như sau:
Gan: sưng to, mềm nhũn và dễ vỡ, trên bề mặt gan thấy nhiều điểm
trắng. Đây là kết quả của các thể phân lập của Leucocytozoon ở gan tạo nên,
làm giòn, xốp và tắc nghẽn các mao mạch, dẫn đến xuất huyết tràn lan, thậm
chí vỡ mao mạch, dẫn đến vỡ gan, chảy máu vào xoang bụng.
Lách: sưng to, giòn, dễ vỡ, trên bề mặt lách có nhiều điểm xuất huyết
hoặc hoại tử.
Thận: sưng to, xuất huyết.
Buồng trứng và ống dẫn trứng: buồng trứng bị viêm, thoái hóa; ống dẫn
trứng sưng, dầy lên và có nhiều điểm xuất huyết.

×