1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ HUỲNH THỊ HOA PHƯỢNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyênngành: QuảnlýGiáodục
Mãsố: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngườihướngdẫnkhoahọc: PGS.TS. NguyễnBá Minh
NGHỆ AN, 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lòng
biết ơn sâu sắc đối với:
- Ban Giám hiệu và Phòng Đào tạo Sau đại học, trường Đại học Vinh.
- Các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt thời gian
học tập ở lớp Cao học Quản lý giáo dục, khóa XX.
- PGS.TS Nguyễn Bá Minh, nguyên trưởng khoa Giáo dục, trường Đại
học Vinh; Vụ trưởng vụ Mầm non, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Người thầy,
người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo và động viên tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này.
- Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn:
+ PGS.TS Hà Văn Hùng, nguyên phó Hiệu trưởng trường Đại học Vinh;
+ TS Phan Quốc Lâm, giảng viên chính trường Đại học Vinh;
+ ThS Mai Xuân Bá, tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
Bình Thuận;
+ Cô Nguyễn Thị Bích Hoàn, phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
Bình Thuận;
+ Cô Nguyễn Thị Thiệp, phó phòng Kế hoạch – Tài chính Sở Giáo dục
và Đào tạo Bình Thuận;
+ Thầy Trần Hữu Dung, trưởng phòng và thầy Nguyễn Tuấn Anh,
chuyên viên phòng Giáo dục chuyên nghiệp Sở Giáo dục và Đào tạo Bình
Thuận;
+ Ban Giám đốc và các phòng, ban chuyên môn Sở Giáo dục và Đào tạo
Bình Thuận; Các đồng chí lãnh đạo UBND tỉnh, Phó Chủ tịch UBND phụ
trách khối văn hoá - xã hội huyện; trưởng, phó trưởng phòng GD & ĐT các
huyện; hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường Cao đẳng Cộng đồng Bình
3
Thuận, trường Cao đẳng Y tế, THPT, THCS, TH, MN trong tỉnh; giáo viên;
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan, đơn vị: Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc
hội và HĐND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh,
Liên đoàn Lao động tỉnh, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, Hội cựu chiến binh tỉnh,
Tỉnh đoàn Bình Thuận, Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh, Sở Tài chính, Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội, Sở Y tế, Hội Khuyến học, Công an tỉnh, Bộ chỉ
huy quân sự tỉnh,
+ Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, đóng góp ý kiến, cung
cấp tài liệu và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Bản thân đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn Luận văn cũng không thể
tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn và góp ý./.
4
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Mục lục
Bảng ký hiệu viết tắt
Danh mục các bảng
Mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý xã hội hoá giáo dục 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài 10
1.3. Một số vấn đề về xã hội hoá giáo dục 15
1.4. Quản lý công tác xã hội hoá giáo dục 28
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở tỉnh
Bình Thuận
33
2.1. Khái quát về tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Thuận 33
2.2. Thực trạng quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở tỉnh Bình Thuận 38
2.3. Đánh giá chung về thực trạng 68
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở
tỉnh Bình Thuận.
71
3.1. Một số nguyên tắc đề xuất các giải pháp 71
3.2. Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở tỉnh Bình
Thuận
72
3.3. Đánh giá các giải pháp 92
Kết luận và kiến nghị 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC NGHIÊN CỨU 107
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GD: Giáo dục
GD & ĐT: Giáo dục và Đào tạo
GD - ĐT: Giáo dục - Đào tạo
GDTX: Giáo dục thường xuyên
HĐND: Hội đồng nhân dân
5
MN: Mầm non
NXB: Nhà xuất bản
TH: Tiểu học
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TTGDTX: Trung tâm giáo dục thường xuyên
TTHTCĐ: Trung tâm học tập cộng đồng
UBND: Uỷ ban nhân dân
XHH: Xã hội hoá
XHHGD: Xã hội hoá giáo dục
XHHT: Xã hội học tập
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
2.1
Nhận thức chung về công tác XHHGD trong giai đoạn hiện
nay
49
2.2
Nhận thức chung về tầm quan trọng của công tác XHHGD
50
6
2.3
Mục tiêu và lợi ích mà XHHGD mang lại
50
2.4
Các yếu tố có ảnh hưởng đến việc thực hiện các biện pháp
quản lý XHHGD
52
2.5
Mức độ thực hiện các biện pháp quản lý XHHGD trên địa
bàn tỉnh Bình Thuận
53
3.1
Đánh giá về tầm quan trọng của các giải pháp
93
3.2
Đánh giá về mức độ cấp thiết của các giải pháp
94
3.3
Đánh giá về mức độ khả thi của các giải pháp
95
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là một trong những tư tưởng cốt lõi về giáo
dục (GD) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời là chủ trương, quan điểm xuyên
suốt của Đảng và Nhà nước ta từ thời lập quốc đến nay.
Từ ngày có Đảng, nhất là từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tư
tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của sự học, xem học tập là nhu cầu của cuộc
sống đã được thể hiện một cách nhất quán trong đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu mới giành được độc lập, khi vận mệnh nước nhà
7
đang như ngàn cân treo sợi tóc, Đảng và Bác Hồ đã chủ trương huy động tối đa các
nguồn lực để cùng một lúc chống ba thứ giặc "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm",
xem chống giặc dốt cũng quan trọng, cấp bách như chống giặc đói để dân được ấm no
và chống giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập nước nhà.
Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) ngày nay là yếu tố quyết định tương lai của
mỗi dân tộc, sự phát triển của mỗi quốc gia, trong bối cảnh toàn cầu hoá phát triển
rộng khắp, cách mạng khoa học - công nghệ đạt những bước tiến thần kỳ, cách
mạng thông tin bùng nổ, tri thức của nhân loại có sự tiến bộ không ngừng. Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác GD & ĐT, phát triển GD & ĐT
cùng với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho GD
là đầu tư cho phát triển. Phát triển GD & ĐT là một động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Sự nghiệp GD là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, của
các lực lượng xã hội. Chỉ có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố này mới tạo thành
sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp trồng người thắng lợi.
Nội dung cơ bản của XHHGD bao gồm hai khía cạnh song hành có quan hệ
mật thiết và tác động lẫn nhau một cách biện chứng: Một là, mọi tổ chức, mọi tập
thể, mọi cá nhân theo khả năng của mình đều có thể đóng góp cơ hội học tập cho
cộng đồng. Hai là, mọi người dân trong cộng đồng đều có thể tận dụng cơ hội để
học tập và tham gia phát triển GD, học tập để lập thân, lập nghiệp, nâng cao chất
lượng cuộc sống.
XHHGD là chủ trương, quan điểm cơ bản, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước
ta; là sự đúc kết bài học kinh nghiệm xây dựng nền GD cách mạng và truyền thống
hiếu học của nhân dân ta; là sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng và phát
triển GD của các nước tiên tiến trên thế giới; là xu thế mới, có tính tất yếu trong quá
trình phát triển của loài người đương đại. Định hướng XHHGD được thể hiện rõ qua
các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta:
8
Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII khẳng định: “Giáo dục - Đào tạo
(GD - ĐT) là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân” [31].
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Thực hiện chủ trương XHHGD,
phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến
khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ GD" [32].
Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "… thực hiện "chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá (XHH)", chấn hưng nền GD Việt Nam" [35]. Văn kiện Đại hội
XI của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương XHHGD là: "Hoàn thiện cơ
chế, chính sách XHHGD, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn lực
trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập (XHHT), tạo điều kiện để người
dân được học tập suốt đời" [37].
Ngày 18 tháng 4 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-
CP về đẩy mạnh XHH các hoạt động GD, y tế, văn hoá và thể dục thể thao; ngày 30
tháng 5 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 69/2008/NĐ-CP về chính sách
khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực GD, dạy nghề, y tế, văn hoá,
thể thao, môi trường. Nghị quyết số 05 của Chính phủ xác định: "Qua 7 năm triển
khai thực hiện Nghị quyết 90/1997/NQ-CP và 5 năm thực hiện Nghị định
73/1999/NĐ-CP, công tác XHH các hoạt động GD, y tế, văn hoá và thể dục thể thao
đã thu được những kết quả quan trọng… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện XHH
đã bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Hạn chế lớn nhất là tốc độ XHH còn chậm so
với tiềm năng và chỉ tiêu định hướng của Nghị quyết 90; mức độ phát triển XHH
không đồng đều giữa các vùng miền và cả giữa các tỉnh, thành phố, địa phương có
điều kiện kinh tế - xã hội như nhau". "Công tác quản lý còn bất cập cả trong định
hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện. Việc triển khai thực hiện còn chậm
và nhiều lúng túng. Quản lý nhà nước vừa gò bó, vừa buông lỏng; cơ chế chính sách
chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ, còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng xã hội chưa được tổ chức và phối hợp tốt để
chủ động, tích cực tham gia vào quá trình XHH ". "Nguyên nhân của những hạn
chế trước hết là do nhận thức còn chưa đầy đủ, xem XHH chỉ là biện pháp huy động
9
sự đóng góp của nhân dân trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Tư tưởng và
thói quen bao cấp vẫn còn khá nặng nề" [22].
Bình Thuận là một tỉnh ở miền Đông Nam Bộ với đặc điểm tình hình kinh tế -
xã hội còn nhiều khó khăn; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nông nghiệp còn chiếm
tỷ trọng lớn; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ; việc cụ thể hoá Nghị
quyết số 05/2005/NQ-CP còn nhiều khó khăn, thiếu sót: nhận thức về XHHGD
không đồng đều; chưa có cơ chế, chính sách cụ thể tạo thuận lợi cho công tác
XHHGD; kết quả huy động các nguồn lực xã hội cho sự nghiệp GD còn khiêm tốn
Hiện nay, ở Bình Thuận chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống
về vấn đề XHHGD. Để góp phần phát triển kinh tế - xã hội, huy động có hiệu quả các
nguồn lực xã hội cho sự nghiệp GD, tạo sự chuyển biến quan trọng về chất lượng
nguồn nhân lực tỉnh Bình Thuận đến năm 2018 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII
Đảng bộ Tỉnh (nhiệm kỳ 2010 - 2015), chúng tôi chọn định hướng nghiên cứu “Một
số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở tỉnh Bình Thuận” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp quản lý
công tác XHHGD ở tỉnh Bình Thuận.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác XHHGD.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp quản lý công tác XHHGD ở tỉnh Bình
Thuận.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Để việc nghiên cứu có tập trung, luận văn chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên
cứu một số hoạt động XHHGD ở tỉnh Bình Thuận đến năm 2018. Chúng tôi chỉ tổ
chức khảo sát, đánh giá các giải pháp chứ không tổ chức thử nghiệm.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi thì có
thể nâng cao chất lượng công tác XHHGD ở tỉnh Bình Thuận.
10
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề XHHGD.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề XHHGD ở tỉnh Bình Thuận.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở tỉnh Bình Thuận.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nhóm phương pháp này nhằm thu
thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương
pháp nghiên cứu lý luận có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
+ Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nhóm phương pháp này nhằm
thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm
phương pháp nghiên cứu thực tiễn có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
+ Phương pháp điều tra xã hội học;
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm GD;
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả nghiên cứu.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về lý luận
- Khẳng định tầm quan trọng của XHHGD trong sự nghiệp GD, từ đó, nhấn
mạnh sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý XHHGD trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận.
- Xác định cụ thể các yếu tố của quản lý XHHGD cần phải thay đổi để thích
ứng với thực tiễn, hướng công tác quản lý XHHGD đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, chất lượng GD của tỉnh Bình Thuận.
7.2. Về thực tiễn
11
- Chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết về nhận thức và hành động của các
cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về XHHGD; về công tác quản lý XHHGD
trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
- Đề xuất được một số giải pháp khoa học, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý XHHGD, góp phần nâng cao chất lượng GD của tỉnh Bình Thuận
đến năm 2018.
8. Cấu trúc nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục nghiên cứu, đề
tài còn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý xã hội hoá giáo dục.
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở tỉnh Bình Thuận.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở tỉnh Bình
Thuận.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu trong nước
XHHGD là một truyền thống quý báu từ xa xưa của dân tộc Việt Nam, trải
qua lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, truyền thống đó luôn luôn được giữ
gìn và nhân rộng.
Vào thế kỷ XI (1070), Nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám; năm
1075, vua Lý Thánh Tông cho mở khoa thi đầu tiên để lựa chọn nhân tài. Sang thời
12
nhà Hồ, Hồ Quý Ly thể hiện sự quan tâm đến công việc học hành qua chủ trương mở
rộng trường học ở các lộ, châu, phủ. Vào những năm 1420, nhà Lê mở rộng chế độ
GD, thi cử so với các triều đại trước, con em mọi tầng lớp nhân dân đều được tham
gia dự thi. Vào thế kỷ XVIII (năm 1788), triều đại Tây Sơn chủ trương mở rộng nền
GD đến tận thôn, xóm. Với câu nói bất hủ: “Dựng nước, trước tiên phải lo việc học”,
vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) đã ban hành Chiếu lập học, các xã phải lập ra nhà xã
học, chọn người hay chữ và có đức hạnh phụ trách việc giảng dạy (gọi là xã giảng
dụ), cho phép một số địa phương mở một số đền, chùa làm trường học. Những chính
sách nêu trên chứng tỏ vua Quang Trung có hoài bão muốn xây dựng nền học thuật,
GD dân tộc, nâng cao ý thức tự lực, tự cường, thoát khỏi những ràng buộc của nền
GD khuôn sáo cũ [38].
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam mới ra đời. Với sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền GD Việt
Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, hạn chế, thiếu thốn để chuyển mình
sang giai đoạn mới: Phát triển "nền GD của dân, do dân, vì dân". Trong giai đoạn
sau khi thống nhất đất nước đến trước đổi mới (trước năm 1986), với cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, đất nước nói chung và nền GD nước ta nói riêng rơi vào
khủng hoảng, sự nghiệp GD toàn dân có lúc chưa được coi trọng, bản chất xã hội
của GD không quan tâm đầu tư đúng mức, không thu hút được các nguồn lực của
toàn xã hội tham gia vào các hoạt động GD. Cơ sở vật chất GD xuống cấp, lạc hậu,
nền GD nước ta rơi vào tụt hậu nghiêm trọng, không đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế phát triển chung của thời đại.
Trước yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập ngày càng sâu rộng vào các thể
chế kinh tế - xã hội toàn cầu, Đảng ta đã kịp thời ban hành những chủ trương, quyết
sách đúng đắn về GD & ĐT. Từ Đại hội VII đến Đại hội XI của Đảng, Đảng ta luôn
xác định "GD & ĐT là quốc sách hàng đầu", ''XHH'' là một trong những quan điểm,
chủ trương lớn để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội.
Bàn về vấn đề XHHGD, các nhà nghiên cứu, nhà quản lý GD đều có chung
nhận định về vai trò, vị trí, ý nghĩa chiến lược của công tác XHHGD trong sự
nghiệp GD & ĐT ở nước ta.
13
Tác giả Phạm Minh Hạc đã viết: “XHH công tác GD, một con đường phát
triển GD nước ta” [39].
Tác giả cho rằng, XHHGD là "Làm cho xã hội nhận rõ trách nhiệm đối với
GD, GD phục vụ đắc lực cho phát triển KT - XH, thực hiện việc kết hợp GD trong
nhà trường và ngoài nhà trường, tạo điều kiện để GD kết hợp với lao động, học đi
đôi với hành; XHHGD có quan hệ hữu cơ với dân chủ hoá GD". “XHH công tác
GD là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối chiến lược, một con
đường phát triển GD của nước ta… Sự nghiệp GD không chỉ là của Nhà nước mà
là của toàn xã hội, mọi người cùng làm GD, nhà nước và xã hội, Trung ương và địa
phương cùng làm GD” [40].
Theo tác giả Lê Ngọc Lan: “Trong thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam,
khái niệm XHHGD ngày càng được mở rộng và phong phú hơn. Đây không phải là
giải pháp tình thế nhằm tháo gỡ khó khăn của nước nghèo. Ngay khi chúng ta đạt
được mức tăng trưởng nhiều lần so với hiện nay thì tư tưởng XHHGD vẫn giữ được
giá trị chủ đạo cơ bản” [45].
Tác giả Đặng Quốc Bảo quan niệm: “XHHGD phản ánh bản chất của luận
đề: GD cho tất cả mọi người, tất cả cho sự nghiệp GD”. Vậy, huy động toàn xã hội
làm GD, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền GD quốc dân dưới
sự quản lý của Nhà nước không phải là một ý tưởng mới lạ. PGS.TS Đặng Quốc
Bảo nhấn mạnh: “Không có xã hội nào có thể tồn tại nếu không có sự GD và mọi sự
GD đều hướng tới sự tiến bộ của xã hội. Như vậy là luôn luôn tồn tại nền GD xã
hội” [13].
Tác giả Vũ Văn Phúc (Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản) khẳng định: "Đẩy
mạnh XHHGD, huy động mọi nguồn lực để phát triển sự nghiệp GD và xây dựng
XHHT… XHHGD vừa là mục tiêu vừa là một trong những giải pháp chủ yếu để
phát triển GD & ĐT" [50].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt (Chủ tịch, Tổng giám đốc, Invest Consult
Group) cho rằng: "XHHGD là tinh thần, là nội dung quan trọng nhất của cải cách
GD, bảo đảm sự thành công của cải cách GD". Ông cũng cho rằng: "XHHGD có ý
14
nghĩa là nhà nước phải tạo ra không gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc
hình thành một khu vực GD mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp GD,
thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng GD, tức là GD phải thuộc về xã hội" và
"XHHGD không chỉ là đa dạng hoá hình thức và các nguồn đầu tư cho GD & ĐT,
mà quan trọng nhất là đa dạng hoá nội dung hay đa dạng hoá, hiện đại hoá chương
trình GD thích ứng với những đòi hỏi của xã hội" [15].
Nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp cho rằng:
"Sức mạnh tổng hợp của ngành GD & ĐT được đo bằng thước đo XHH… XHH
cũng là con đường tốt nhất để tiếp cận các bài học thành công của nền GD các
quốc gia tiên tiến trên thế giới để vận dụng sáng tạo, đúng đắn, sát thực vào thực
tiễn Việt Nam, theo hướng đi tắt, đón đầu, bứt phá nhanh hơn với hiệu quả cao
nhất" [43].
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu như tác giả
Nguyễn Mậu Bành, Trần Quang Nhiếp, Hồ Thiệu Hùng… có nhiều bài viết về
XHHGD. Bộ GD & ĐT, Viện Khoa học GD Việt Nam đã và đang tiến hành hệ
thống hoá các đề tài nghiên cứu về XHHGD, đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn quản
lý để phát triển lý luận và đề xuất chính sách nhằm hoàn thiện hệ thống cơ sở lý
luận, ban hành các văn bản hướng dẫn địa phương, các đơn vị GD thực hiện nhiệm
vụ công tác XHHGD. Trên cơ sở kết quả công tác XHHGD giai đoạn 2006 - 2010,
Bộ GD & ĐT đã đề xuất với Chính phủ ban hành Đề án đẩy mạnh công tác
XHHGD và đào tạo giai đoạn 2012 - 2016 [63].
Ngoài ra, được sự hướng dẫn của các nhà khoa học, nhiều luận văn thạc sĩ,
luận văn tiến sĩ trong nước đã đề cập đến vấn đề XHHGD ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Trên địa bàn tỉnh, cũng có nhiều nghiên cứu về vấn đề XHHGD ở cấp huyện.
Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn công tác XHHGD của địa phương, hầu hết các
nghiên cứu đã đề xuất được giải pháp quan trọng, có tính khả thi để đẩy mạnh công
tác quản lý XHHGD ở địa phương mình, song, hạn chế chung nhất của các nghiên
cứu này là chưa tập trung đề xuất vấn đề mấu chốt, cốt lõi, có tính chi phối hiệu quả
công tác quản lý XHHGD: Đề xuất cơ chế, chính sách đẩy mạnh công tác XHHGD.
15
1.1.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Cũng như nước ta, các nước phát triển trên thế giới đều coi trọng chính sách
XHHGD, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GD phát triển và quan tâm sâu sắc đến
hiệu quả GD mang lại cho nền kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia chú trọng phát huy
sức mạnh tổng hợp của xã hội trong cải cách GD để bảo đảm ai cũng học tập, ai
cũng được hưởng thụ GD, ai cũng tham gia phát triển GD.
Năm 1947, Nhật Bản đặt GD vào vị trí hàng đầu của các chính sách quốc
gia. Nhật Bản đẩy mạnh cải tổ hệ thống GD nhằm tạo ra một hệ thống GD mở với
mục đích tạo cho học sinh lòng ham học, tự chủ trong suy nghĩ, phát triển những
năng lực khác nhau nhằm tạo cơ hội thích hợp với nhu cầu học tập và nghề nghiệp
của học sinh, luôn dành cho địa phương và nhà trường quyền tự chủ. Năm 1971,
Nhật Bản thành lập Bộ GD, đề ra chính sách: Đối với các trường TH bắt buộc thì
"sự bình đẳng'' là nguyên tắc tối cao. Còn đối với các trường sơ trung và cao trung
thì nguyên tắc "tài năng" là cao nhất. Quan điểm này không những xoá bỏ sự bất
bình đẳng trong xã hội về GD, mà còn tạo ra cơ hội cho sự phát triển tiềm năng của
con người.
Để xây dựng XHHT, Chính phủ Nhật Bản đã lập ra Uỷ ban Quốc gia về GD
suốt đời. Ở Nhật Bản có hai hệ GD: GD nhà trường và GD xã hội. GD nhà trường
chính là hệ GD ban đầu, gồm trường mẫu giáo, trường phổ thông và các loại hình
trường đào tạo nghề từ trung cấp đến đại học. Nhật Bản rất quan tâm đến hệ GD xã
hội (GD tiếp tục) vì đây là hệ GD có tác dụng quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Đối với Hàn Quốc, vai trò tư nhân trong GD là nhân tố quan trọng thúc đẩy
nền GD phát triển mạnh mẽ, tạo ra sự công bằng, dân chủ trong thụ hưởng chính
sách GD. Hàn Quốc tập trung mạnh các nguồn lực xã hội cho GD dựa trên đầu tư
của nhà nước kết hợp với nguồn lực của tư nhân.
Chính phủ Hoa Kỳ đầu tư mạnh cho hiện đại hoá GD, thực hiện mục tiêu
học tập suốt đời và đề cao việc học để đạt trình độ học vấn cao. Để đạt được điều
này, một trong những giải pháp quan trọng là Chính phủ chủ trương đa dạng hoá
16
các loại hình trường học nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển GD dựa trên nền
tảng công nghệ thông tin, đón đầu sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong thế kỷ
XXI.
Ở Inđônêxia, ngoài hệ thống GD nhà trường, còn coi trọng các loại hình
GD ngoài nhà trường: ở gia đình, xã hội, các doanh nghiệp, các trường đại học mở,
phục vụ nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân.
Chính phủ Vương quốc Thái Lan đã và đang thực hiện chính sách đa dạng
hoá các loại hình đào tạo, đào tạo nghề nghiệp - kỹ thuật, tổ chức nhiều loại hình
nghề nghiệp chính quy và phi chính quy để thích ứng với nhu cầu nhân lực của thị
trường lao động trong quá trình phát triển đất nước.
Như vậy, chúng ta thấy rằng các nước có đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội
nhưng đều có điểm chung trong phương thức XHHGD: Đó là huy động mọi tiềm
lực của cộng đồng cho GD. Ở nhiều quốc gia, XHHGD là sự lựa chọn ưu tiên, có
tính chất quyết định cho mô hình phát triển GD của riêng mình.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Xã hội hoá giáo dục
1.2.1.1. Xã hội hoá:
Có nhiều cách hiểu, định nghĩa XHH khác nhau:
- XHH là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội.
- XHH là sự tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người, của
cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội.
- Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm XHH được hiểu là "Làm cho một việc
gì, một cái gì đó thành của chung xã hội”.
Kể từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ
máy Nhà nước theo hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, thì thuật ngữ "XHH" được sử dụng khá phổ biến trong các văn kiện, hội
nghị, hội thảo…
Nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về XHH có các cách lý giải khác
nhau, song, tựu trung lại có thể khẳng định: Bản chất của XHH là cách làm, cách
17
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng bằng con đường tuyên truyền, huy động
và tổ chức sự tham gia của cộng đồng, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp
đồng bộ giữa các ngành, các cấp một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý
thống nhất của Nhà nước, làm cho việc giải quyết các vấn đề xã hội mang lại lợi ích
cho nhân dân, thực sự "của dân, do dân và vì dân".
1.2.1.2. Xã hội hoá giáo dục:
XHHGD được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể nhân dân, toàn thể xã
hội tham gia vào sự nghiệp GD. XHHGD là làm cho hoạt động GD trở thành hoạt
động chung của toàn xã hội. XHHGD là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa
hoạt động GD và cộng đồng xã hội, là làm cho GD phù hợp với sự phát triển của xã
hội, thích ứng với xã hội. XHHGD là duy trì sự cân bằng động giữa hoạt động GD
và xã hội sẽ tạo động lực cho việc huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát
triển GD.
XHHGD là cách nói gọn của "XHH công tác GD" với nội hàm là phương
thức, cách thức, phương châm, cách làm GD, tổ chức và quản lý GD. Đảng và Nhà
nước ta chủ trương XHHGD là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận quan trọng
trong đường lối, chính sách GD.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng xác định: “Đẩy mạnh XHH GD & ĐT. Rà
soát, sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề. Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng trường công lập; bổ
sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm
GD cộng đồng” [35].
Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP của Chính phủ xác định khái niệm XHHGD
là: "Vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào
sự phát triển sự nghiệp GD" [19].
Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999 về chính sách
khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực GD, y tế, văn hoá, thể thao
ghi rõ: "XHH hoạt động GD là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân
dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp GD nhằm từng bước nâng cao
18
mức hưởng thụ về GD trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của nhân dân"
[20].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, XHHGD là: "Làm cho xã hội nhận rõ trách
nhiệm đối với GD, GD phục vụ đắc lực cho phát triển KT - XH, thực hiện việc kết
hợp GD trong nhà trường và ngoài nhà trường, tạo điều kiện để GD kết hợp với lao
động, học đi đôi với hành; XHHGD có quan hệ hữu cơ với dân chủ hoá GD" [40].
Tác giả Trần Quang Nhiếp đưa ra một hệ thống các khái niệm về XHHGD:
"XHHGD là làm cho các hoạt động mang tính GD của xã hội được huy
động vào quá trình GD một cách tích cực, có hiệu quả; là xã hội tham gia giải
quyết một cách phù hợp những vấn đề GD đang đặt ra; là đa dạng hoá các loại
hình GD; là mở rộng quy mô đáp ứng yêu cầu GD của xã hội; là xây dựng cơ cấu
ngành học, cấp học hợp lý; là kiểm soát được chất lượng đào tạo toàn diện và ngày
càng nâng lên; là hướng tới đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội; là quá trình tiếp
thu có chọn lọc những tri thức, những thành tựu văn minh, tiến bộ của thời đại, của thế
giới làm cho GD cập nhật với xã hội hiện đại XHHGD là phát huy vai trò của các
chủ thể trọng yếu mà nền GD nước nhà đã tổng kết thành phương châm: GD nhà
trường kết hợp với GD gia đình và GD xã hội" [48].
XHHGD, theo chúng tôi phải được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể xã
hội tham gia vào sự nghiệp GD, làm cho hoạt động GD trở thành hoạt động chung
của toàn xã hội.
1.2.2. Quản lý và quản lý giáo dục
1.2.2.1. Quản lý
Từ khi xã hội loài người xuất hiện, con người có sự hợp tác với nhau thì hoạt
động quản lý đã được hình thành. Ở đâu có nhóm xã hội thì ở đó cần đến hoạt động
quản lý. Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng quản lý vào trong việc tổ chức hoạt
động của mình.
Quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Do đối tượng quản lý phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực
19
hoạt động cụ thể, từng giai đoạn phát triển của xã hội mà có những cách hiểu khác
nhau về quản lý.
Theo Từ điển Tiếng Việt “Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định” [64].
Frederics William Taylor (1856 - 1915) cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật
biết rõ ràng, chính xác cái gì cần phải làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương
pháp tốt nhất, rẻ nhất” [26].
Các Mác khẳng định: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào
được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần ở chừng mực nhất định đến sự
quản lý. Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình thành
những chức năng chung, xuất hiện trong toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận
động của bộ phận riêng lẻ của nó” [46].
Có tác giả lại hiểu quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng và thực hiện một cách sáng tạo các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo, kiểm tra. Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng:
“Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản
lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức đó vận hành và đạt được mục đích của mình” [18].
Tóm lại, quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động của một nhóm (hay nhiều
nhóm xã hội) cùng nhau thực hiện những nhiệm vụ và mục đích chung. Quản lý có
vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động của xã hội.
1.2.2.2. Quản lý GD
Quản lý GD là một bộ phận của quản lý xã hội, là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống
GD đạt tới kết quả mong muốn.
Quản lý GD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy
luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức, điều khiển và quản lý hoạt động GD của
những người làm công tác GD.
20
Quản lý GD cũng có các chức năng cơ bản: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra và đánh giá quá trình GD.
Nội dung của quản lý GD là quản lý các yếu tố cấu thành quá trình GD tổng
thể, bao gồm: mục tiêu GD, nội dung GD, phương pháp GD, nhà GD, người được
GD, kết quả GD, đồng thời quản lý các cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, GD, môi
trường GD, các lực lượng GD.
Như vậy, quản lý GD là quản lý quá trình sư phạm, quá trình dạy học GD
diễn ra ở tất cả các cấp học, bậc học và cơ sở GD, làm cho quá trình đó vận hành
đúng đường lối, quan điểm GD của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.2.3. Quản lý Xã hội hoá giáo dục
Quản lý XHHGD được hiểu là quá trình chỉ đạo, điều hành công tác XHHGD,
là hệ thống những tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật
của chủ thể quản lý đến các lực lượng trong và ngoài ngành GD nhằm thực hiện có
chất lượng và có hiệu quả mục tiêu GD.
Quản lý XHHGD đòi hỏi phương pháp mềm dẻo, linh hoạt, tạo được những
phong trào, định hướng được phong trào, phát huy dân chủ trong nhân dân, tăng
cường nguồn lực của xã hội và cộng đồng nhằm thực hiện mục tiêu GD: “Nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
1.2.4. Giải pháp quản lý
Theo Từ điển tiếng Việt, "giải pháp" là cách giải quyết một vấn đề nào đó
[49].
Giải pháp có 02 loại: giải pháp hành chính và giải pháp quân sự. Giải pháp
quản lý GD là loại giải pháp hành chính nhằm giải quyết một vấn đề nào đó trong
công tác quản lý GD, để chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý theo mục
tiêu đào tạo của nhà trường.
Giải pháp là hệ thống những tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên các
thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của
đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.
1.3. Một số vấn đề về xã hội hoá giáo dục
21
1.3.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh
về xã hội hoá giáo dục
1.3.1.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xã hội hoá giáo dục
Tư tưởng chỉ đạo và các hoạt động XHH giáo dục ở nước ta đã có từ khá
sớm. Nhận định về XHHGD, Bác Hồ và Đảng ta đã đúc kết và phổ biến phương
châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm GD”. Nguyên lý kết hợp “Nhà trường -
gia đình - xã hội” đã phổ biến sâu rộng đến các cấp uỷ, tổ chức đảng, các đoàn thể,
chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện.
Tháng 7 năm 1950, Hội đồng Chính phủ thông qua Đề án cải cách GD lần
thứ I, xác định: “Tính chất của nền GD của ta là nền GD của dân, do dân và vì dân,
được xây dựng trên nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng”.
Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 19 tháng 01 năm 1979 của Bộ Chính trị khoá
IV về cải cách GD khẳng định: “Phối hợp những cố gắng đầu tư của Nhà nước với
sự đóng góp của nhân dân, của các ngành, các cơ sở sản xuất và sức lao động của
thầy trò trong việc xây dựng trường sở, phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn
trường…” [65].
Ngày 19 tháng 3 năm 1982, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số
124/CP về việc thành lập Hội đồng GD ở các cấp chính quyền địa phương.
Ngày 09 tháng 12 năm 1982, Bộ trưởng GD ra Quyết định số 1765/QĐ về
ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Hội đồng GD của các cấp chính quyền
địa phương.
Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng (tháng 12 năm 1986) xác định:
"Ngoài ngân sách của nhà nước, cần quy định rõ sự đóng góp của các ngành và
các địa phương, các tổ chức kinh tế, xã hội và các gia đình cho sự nghiệp GD" [27].
Tháng 01 năm 1989, Bộ GD tổ chức Hội nghị mô hình phát triển GD gắn với
kinh tế - xã hội ở các tỉnh phía Nam tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 7 năm 1989, Bộ GD và Công đoàn GD Việt Nam mở Cuộc vận động
dân chủ hoá quản lý nhà trường theo hướng tự quản xã hội chủ nghĩa tại Nha Trang.
22
Ngày 10 tháng 10 năm 1990, Bộ GD và Công đoàn GD Việt Nam ban hành
Thông tư liên tịch số 35/TT/LĐ về việc tham mưu mở Đại hội GD cấp cơ sở.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 01 năm 1991) của Đảng
nêu: "Bằng vốn ngân sách và các nguồn khác, tăng kinh phí cho GD & ĐT"…. "Khai
thác mọi tiềm năng của toàn xã hội tham gia phát triển GD & ĐT" [28].
Tháng 01 năm 1992, Bộ GD và Công đoàn GD Việt Nam tổ chức Hội thảo
Đại hội GD cấp cơ sở tại Hà Nội; tháng 3 năm 1992 tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh (dành cho khu vực phía Nam).
Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14 tháng 01 năm 1993 của Hội nghị Trung
ương 4 khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD & ĐT khẳng định: "Huy động
toàn xã hội làm GD, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền GD
quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước" [29].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 7 năm
1996) nêu rõ: “Các vấn đề về chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần XHH.
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham
gia và giải quyết những vấn đề xã hội” [30].
Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (tháng 12 năm 1996) tiếp tục
khẳng định: “GD - ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi
người chăm lo cho GD. Các cấp uỷ và tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách
nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp GD - ĐT, đóng góp trí tuệ, nhân lực,
vật lực, tài lực cho GD - ĐT. Kết hợp GD nhà trường, GD gia đình và GD xã hội,
tạo nên môi trường GD lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể”
[31].
Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 khoá IX khẳng định: "Đẩy mạnh XHHGD,
coi GD là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển
GD" [33].
23
Văn kiện Đại hội X của Đảng (tháng 4 năm 2006) khẳng định: "Thực hiện
XHHGD, huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự
nghiệp GD. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành GD với các ban ngành, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp … để mở mang GD, tạo điều kiện học tập
cho mọi thành viên trong xã hội" [35].
Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định mục tiêu XHHGD trong thời
gian tới là: "Hoàn thiện cơ chế, chính sách XHHGD, đào tạo trên cả ba phương
diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng
đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng XHHT, tạo
điều kiện để người dân được học tập suốt đời" [37].
"… Đổi mới căn bản, toàn diện nền GD Việt Nam theo hướng chuẩn hoá,
hiện đại hoá, XHH, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý GD, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt". "…
Xây dựng môi trường GD lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia
đình và xã hội". "… Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng
XHHT; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các TTHTCĐ,
TTGDTX. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong
GD" [37].
Quan điểm của Đảng được thể hiện bằng pháp luật của Nhà nước, cơ sở pháp
lý thực hiện XHHGD chính là Luật Giáo dục. Điều 12 của Luật Giáo dục (năm
2005) quy định: “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp GD;
thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình thức GD; khuyến khích,
huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp GD.
Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp GD, phối hợp
với nhà trường thực hiện mục tiêu GD, xây dựng môi trường GD lành mạnh và an
toàn” [52].
Hệ thống quan điểm của Đảng và các chính sách của Nhà nước ta về
XHHGD nhằm khẳng định tư tưởng chiến lược của Đảng trong quá trình phát triển
GD & ĐT, mang tính chất lâu dài, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển GD, làm
24
cho GD đáp ứng yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung và của từng địa phương nói riêng.
1.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội hoá giáo dục
Vị trí, vai trò của GD được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định là "quốc sách
hàng đầu", được thể hiện xuyên suốt và nhất quán trong tất cả các tư tưởng, quan
điểm, phát biểu của Người kể từ những ngày đầu đất nước ta mới giành được độc
lập cho đến lúc Người đi xa.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Hồ Chủ tịch vẫn luôn dành sự quan tâm sâu sắc
cho sự nghiệp GD. Một ngày sau khi đọc Bản Tuyên ngôn độc lập (ngày
03/9/1945), Người đã chủ trì phiên họp của Chính phủ và nêu ra Những nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cần giải quyết, trong đó, có
nhiệm vụ thứ hai là "Mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ" - chống giặc dốt.
Người coi GD là "quốc sách", là vấn đề trọng tâm phải thường xuyên chăm lo.
Trong Thư gửi anh, chị em giáo viên bình dân học vụ (tháng 5/1946), Người viết:
“… Chương trình của Chính phủ là làm thế nào cho toàn quốc đồng bào ai cũng có
ăn, có mặc, có học hành. Vậy, khẩu hiệu của chúng ta là: Tăng gia sản xuất, chống
nạn mù chữ”.
Ngày 10 tháng 8 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh
146/SL, trong đó, khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người xác
định mù chữ và sự dốt nát là một thứ giặc, một quốc nạn: “Giặc đói, giặc dốt là bạn
đồng minh của giặc ngoại xâm”. Người kêu gọi “Toàn dân tham gia diệt giặc dốt
theo phương châm: Người biết dạy cho người chưa biết… Ai cũng phải học”. Người
xác định 03 nguyên tắc căn bản của nền GD nước nhà là: “Đại chúng hoá, dân tộc
hoá, khoa học hoá”. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của GD, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn chú trọng một nền GD mới - một nền GD mà mục tiêu, nội dung và phương
pháp phải hướng đến việc phát triển con người toàn diện, cũng như động viên mọi
lực lượng, tầng lớp tham gia tích cực vào sự nghiệp GD. Trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, hiếm có vị lãnh tụ nào quan tâm đến sự nghiệp GD một cách toàn diện
25
và sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nêu rõ: "Mọi người Việt Nam đều
phải được GD, phải có kiến thức để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà".
Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng xây dựng nền GD mở và chỉ
ra phương cách thực hiện chính sách mở trong GD, thông qua con đường XHHGD.
Phát biểu tại Đại hội sơ kết công tác bình dân học vụ 6 tháng đầu năm 1956 (ngày
16/7/1956), Người đề nghị: “Những người biết chữ hãy dạy cho những người không
biết chữ, người biết chữ nhiều dạy người biết chữ ít, mỗi xóm cử một người đi học,
học mấy hôm về dạy mấy hôm, hết chữ rồi trở lại học, thầy vừa dạy vừa học”. Hoặc
như trong Bài “Chống nạn thất học” (đăng trên Báo Cứu quốc, số 58, ngày
04/10/1945), Người chỉ dẫn: “Các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho
người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm
mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình”.
Trong bài viết đăng trên báo Nhân dân (Số 183, ngày 09 - 11/5/1954), Người
dặn dò: “… Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi
người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến
thức mới có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết
đọc, biết viết chữ Quốc ngữ” và “… có đồng chí nói: Nông thôn bận việc nhiều, khó
học tập. Chính vì công việc nhiều mà càng cần phải học tập để làm cho đảng viên
và cốt cán tư tưởng thông, lập trường vững, làm đúng chính sách của Đảng và
Chính phủ, đi đúng đường lối quần chúng. Học càng khá thì giải quyết các vấn đề
càng dễ dàng, công việc trôi chảy…”. Nói chuyện với lớp Nghiên cứu Chính trị
khoá I, trường Đại học Nhân dân (ngày 21 /7/1956), Người khẳng định: “… Học là
một việc phải tiếp tục suốt đời, suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”.
Trên báo Nhân dân số ra ngày 16 tháng 10 năm 1968, bàn về mục tiêu của
GD, Người cho rằng GD là để “đào tạo những con người kế tục sự nghiệp cách
mạng to lớn của Đảng và Nhân dân ta”. Người cũng chỉ rõ rằng, GD phải được
thực hiện theo nguyên lý “Lý luận gắn chặt với thực hành, học tập ở nhà trường
gắn liền với xã hội với gia đình…”.