Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác xấ hội hóa giáo dục trung học cơ sở huyện triệu sơn thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.9 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH THỊ HẰNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN TRIỆU SƠN THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC


NGHỆ AN - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH THỊ HẰNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
HUYỆN TRIỆU SƠN THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN QUỐC LÂM
NGHỆ AN - 2014

LỜI CẢM ƠN
bOa
Bằng những tình cảm chân thành nhất, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến:
- Các vị lãnh đạo trường Đại học Vinh, tập thể các giảng viên, các nhà


khoa học trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu
khoa học, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu. Đặc biệt là TS Phan Quốc Lâm đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Phòng GD&ĐT huyện Triệu Sơn, UBND huyện Triệu Sơn, các trường
trung học cơ sở huyện Triệu Sơn đã cung cấp các tài liệu, số liệu cần thiết sử
dụng trong luận văn.
- Xin chân thành cảm ơn của các bạn học viên Cao học khóa 20, chuyên
ngành Quản lý giáo dục, đồng nghiệp trong ngành, hội cha mẹ học sinh và
người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận
văn.
Cho dù đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng chắc
chắn luận văn không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các đọc giả và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 03 năm 2014
Tác giả
Trịnh Thị Hằng

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1.3.1.2 Cơ sở giáo dục trung học cơ sở 19
Cơ sở giáo dục THCS bao gồm các loại hình công lập và tư thục 19

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ban giám hiệu: BGH

Cán bộ quản lý : CBQL
Cơ sở vật chất: CSVC
Công nghệ thông tin: CNTT
Công nghệ thông tin cà truyền thông: CNTT&TT
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: CNH, HĐH
Cơ sở vật chất: CSVC
Giáo dục và Đào tạo: GD& ĐT
Giáo dục thường xuyên và dạy nghề: GDTX&DN
Hội đồng nhân dân: HĐND
Kinh tế – xã hội: KT-XH
Quản lý giáo dục: QLGD
Tiểu học: TH
Trung học cơ sở: THCS
Trung học chuyên nghiệp; THCN
Trung học phổ thông: THPT
Trung tâm học tập cộng đồng: TTHTCĐ
Trung ương: TW
Uỷ ban nhân dân: UBND
Xã hội hóa: XHH
Xã hội hóa giáo dục: XHHGD

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1.Tổng hợp số lượng đội ngũ cán bộ quản lý THCS huyện Triệu
Sơn 39
Bảng 2.2. Trình độ CBQL THCS huyện Triệu Sơn 39
Bảng 2.3 : Độ tuổi CBQL THCS huyện Triệu Sơn 40
Bảng 2.4: Quy mô giáo dục THCS huyện Triệu Sơn 41
Bảng 2.5. Tổng hợp số lượng cán bộ giáo viên khối THCS 42
Bảng 3.1. Kết quả thăm dò tính cần thiết của các giải pháp 89


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục bắt nguồn từ đời sống xã hội, có bản chất xã hội và không thể
tách rời đời sống xã hội. Giáo dục từ lâu đã trở thành một nhu cầu không thể
thiếu được của xã hội loài người, là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì
nó quyết định tương lai của mỗi con người, của đất nước và làm thức tỉnh
tiềm năng sáng tạo của mỗi con người. Giáo dục còn là điều kiện tiên quyết
để thực hiện nhân quyền, dân chủ, hợp tác, trí tuệ, bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau, là chìa khóa dẫn tới cuộc sống tốt đẹp hơn, một thế giới hòa hợp hơn.
Do đó, giáo dục phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Chỉ có sự tham
gia của toàn xã hội làm công tác giáo dục thì mới đảm bảo cho giáo dục phát
triền và hiệu quả.
“Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt”, là nhân tố đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển xã hội. Giáo dục là chìa khoá tiến tới một xã hội tốt đẹp,
là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ, hợp tác trí tuệ
và tôn trọng lẫn nhau. Chính vì vậy, không chỉ riêng nước ta mà nhiều nước
trên thế giới, Giáo dục được đặt lên vị trí “Quốc sách hàng đầu”. Với các
chức năng đó, giáo dục không thể tách rời đời sống xã hội, giáo dục là sự
nghiệp chung của toàn xã hội.
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược của Đảng
và Nhà nước tạo động lực và phát huy mọi nguồn lực để phát triển một nền
giáo dục tiến tiến, chất lượng ngày càng cao trên cơ sở có sự tham gia của
toàn xã hội. Là một trong những phương thức để người dân đều có cơ hội
được học tập. Nghị quyết TW 4 khóa VII, Nghị quyết TW 2 khóa VIII, kết
luận hội nghị TW 6 khóa IX, Nghị quyết TW khóa X đã khẳng định: "Đẩy
mạnh xã hội hóa giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải
pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục''.
1
Như vậy có thể nói xã hội hóa giáo dục là thực hiện mối liên hệ có tính

phổ biến, có tính quy luật giữa cộng đồng với xã hội. Thiết lập được mối quan
hệ này là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển xã hội "Mỗi người dân
đều nhận thấy đó là trách nhiệm của mình, nên đều tự nguyện và tích cực phối
hợp hành động, đồng thời chính họ là người hưởng thụ mọi thành quả của
hoạt động đó đem lại"
Tuy nhiên, công tác xã hội hóa giáo dục còn gặp không ít khó khăn, trở
ngại. Trước đây chúng ta có một thời gian dài sống trong cơ chế nhà nước bao
cấp về mọi mặt, cơ chế tạo tâm lý thu động, trông chờ ỷ lại vào nhà nước.
Vì vậy cùng với việc tăng cường đầu tư cho giáo dục từ nguồn ngân sách
nhà nước, cần làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ và toàn diện và vững chắc đối với sự nghiệp giáo dục, thể hiện quan
điểm của Đảng "Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu".
Triệu Sơn là một huyện bán sơn địa nằm ở phía Tây - Nam của Châu thổ Sông
Mã, Sông Chu của tỉnh Thanh Hoá, tiếp giáp với các huyện miền núi Thường Xuân
và Như Thanh nên Triệu Sơn đã hình thành hai dạng địa hình cơ bản đó là:
Địa hình trung du - miền núi gồm 8 xã
Địa hình đồng bằng gồm 28 xã, thị trấn
Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 16.73,0% tổng dân số, nghề nghiệp chủ yếu của
người dân là nông nghiệp, lâm nghiệp.
Giáo dục Triệu Sơn và việc triển khai công tác XHHGD đã có bước phát
triển hơn so với một số huyện của Tỉnh Thanh hoá. Tuy vậy, so với tiềm năng
và yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo thì vẫn chưa đáp ứng được, chất lượng
giáo dục còn nhiều hạn chế, nhiều khó khăn thách thức mới nảy sinh, nhận
thức của nhân dân, kể cả các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể và một
bộ phận nhà giáo về công tác GD&ĐT, công tác XHHGD còn nhiều hạn chế.
2
Để tiếp tục phát triển giáo dục nói chung và giáo dục THCS nói riêng,
việc tìm ra "Một số giải pháp tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục THCS
huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa" trong giai đoạn hiện nay là một việc rất
quan trọng và cần thiết.

Với những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài "Một số giải pháp
quản lý công tác xã hội hóa giáo dục Trung học cơ sở huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hóa".
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác XHHGD THCS huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hoá, nhằm nâng cao hiệu quả công tác và qua đó góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục huyện nhà.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục Trung học cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Các giải pháp quản lý công tác XHHGD huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hoá.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực thi được những giải pháp quản lý có cơ sở khoa học,
khả thi sẽ nâng cao được hiệu quả của công tác XHHGD, qua đó nâng cao
chất lượng giáo dục THCS huyện Triệu Sơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác XHHGD.
5.2. Thu thập thông tin, phân tích và đánh giá thực trạng quản lý công tác
XHHGD huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý công tác
XHHGD THCS huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
3
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phân tích, tổng hợp lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu, các văn bản có
liên quan tới GD&ĐT và XHHGD.
- Khái quát hoá các nhận định độc lập.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát

- Phương pháp điều tra
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động
6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Điều tra lấy số liệu sử lý bằng phương pháp thống kê toán học.
7. Đóng góp của đề tài
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận của các vấn đề
XHHGD và nâng cao hiệu quả quản lý công tác XHHGDTHCS.
- Đánh giá được thực trạng quản lý công tác XHHGD THCS huyện Triệu
Sơn, Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể trong việc nâng cao hiệu quả quản lý
công tác XHHGD THCS ở huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, luận văn gồm có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về Xã hội hóa giáo dục
Chương 2: Thực trạng công tác XHHGD Trung học cơ sở ở huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác XHHGD THCS huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, từ lâu rất nhiều nước đã quan tâm đến việc xây dựng và
củng cố các tổ chức trực tiếp phục vụ cho giáo dục với quan điểm coi con
người là trung tâm của sự phát triển. Ngay từ năm 1947, Nhật Bản đã đặt giáo
dục vào vị trí hàng đầu của chính sách quốc gia. Trung Quốc đã xác định:
“Đưa giáo dục vào vị trí ưu tiên cho sự phát triển”. Ấn Độ cũng huy động xã
hội tham gia công tác giáo dục gắn với phát triển nông thôn, huy động cộng

đồng phát triển giáo dục phi chính phủ.
Đặc biệt, trong những năm cuối thế kỷ XX, các nước Châu Á - Thái Bình
Dương có hai cuộc hội thảo lớn và các lớp tập huấn, chung quy đều hướng về
huy động cộng đồng tham gia làm giáo dục với mục đích vì lợi ích cộng đồng,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Khác hẳn với nền kinh tế nông nghiệp dựa vào lao động cơ bắp của con
người và nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự khai thác tài nguyên thiên nhiên,
nền kinh tế tri thức của thế kỷ XXI là nền kinh tế dựa trên công nghệ cao, đây
là nét đặc trưng tiêu biểu của nền văn minh hậu công nghiệp, sản phẩm của
cuộc cách mạng thông tin, cách mạng tri thức, giáo dục càng có vai trò quan
trọng hơn. Trên thế giới đã có những thay đổi căn bản về đối tượng giáo dục
và mục tiêu giáo dục. Trước đây đối tượng giáo dục chỉ giới hạn ở trẻ em
trong độ tuổi đi học, bây giờ đã mở rộng ra đối với tất cả mọi người.
Hoa Kỳ : Từ năm 1991, đã đưa ra một số nét lớn của chiến lược phát
triển giáo dục, trong đó khẳng định việc biến nước Mỹ thành quốc gia của
những học sinh và biến các cộng đồng dân cư thành các cộng đồng học tập.
Đến năm 2010, Mỹ đã xây dựng được các cộng đồng giáo dục ngoài phạm vi
5
nhà trường. Đây là mô hình nhà trường kiểu mới mà vị trí đặc biệt trong thiết
kế thuộc về tập thể cộng đồng, giới doanh nghiệp và lao động. Nhà trường trở
thành trung tâm đời sống cộng đồng, tạo điều kiện cho việc học tập của mọi
người không phải chỉ ở nhà trường mà còn ở gia đình. Tổng thống Bill
Clintơn đã có thông điệp nói đến hiện đại hóa nền giáo dục, mục tiêu học tập
suốt đời và đề cao việc học tập để đạt trình độ học vấn cao. Ông cũng nói đến
việc mở rộng các biên giới của việc học suốt đời để người Mỹ ở độ tuổi nào
cũng có cơ hội học tập, yêu cầu khấu trừ thuế lên tới 10.000 USD/năm cho
toàn bộ học phí ở cao đẳng và đại học để mọi gia đình không phải đóng thuế
với khoản tiền mà họ tiết kiệm được để giành đóng học phí vào đại học và
cao đẳng.
Tuy phải đối phó với nhiều vấn đề nhưng trong chiến lược phát triển giáo

dục của mình, nước Mỹ đặc biệt quan tâm đến yêu cầu một nền giáo dục được
xây dựng trên nền tảng công nghệ thông tin và xã hội tri thức để đón đầu sự
phát triển của nền kinh tế Mỹ trong thế kỷ XXI.
Hàn Quốc là một quốc gia có hệ thống trường học hiện đại. Học sinh
bắt buộc phải học tiểu học và THCS nhưng không phải trả chi phí giáo dục,
ngoại trừ một khoản phí nhỏ gọi là "Phí hỗ trợ hoạt động của nhà trường".
Khoản phí này khác nhau tùy theo từng trường học. Chương trình đánh giá
học sinh quốc tế - do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thế giới (OECD)
khởi xướng và chỉ đạo - hiện đang xếp hạng giáo dục khoa học của Hàn Quốc
tốt thứ ba trên thế giới và cao hơn mức trung bình của OECD.
Hiện nay, giáo dục Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ, đứng vào những nước
có tỷ lệ mù chữ thấp nhất thế giới. Ngân sách Nhà nước về giáo dục thay đổi
theo từng năm tài chính, nhưng trên nguyên tắc chiếm 22,7% tổng nguồn chi
của Chính phủ và chiếm 3-4% tổng thu nhập quốc dân. Giáo dục tiểu học là
bắt buộc và miễn phí. Ở các vùng nông thôn Hàn Quốc, giáo dục bắt buộc kéo
6
dài thêm 3 năm (Tức là học sinh phải học hết lớp 9), hệ thống giáo dục bậc
trung học phổ thông được cải cách lại vào năm 1974, xóa bỏ việc thi chuyển
cấp. Do vậy, số lượng học sinh THPT tăng lên đáng kể. Hàn Quốc có 152
trường dạy nghề với gần 1 triệu học sinh theo học, 80% trường dạy nghề
thuộc sự điều hành của tư nhân, tuy nhiên vẫn nằm trong sự kiểm soát của Bộ
Giáo dục Hàn Quốc. Giáo dục phi chính quy được phổ biến ở hai loại hình:
Các chương trình giáo dục tiếp tục cho thanh niên, người trưởng thành chưa
hoàn thành giáo dục chính quy và các khóa học ngắn hạn đào tạo bổ sung cho
những người mới ra đi làm không nằm trong nhóm học sinh, sinh viên .
Năm 1993, các trường tư thục ở Hàn Quốc tiếp nhận tới 61% số lượng
học sinh phổ thông trung học và 81% các bậc cao đẳng, đại học. Vai trò to lớn
của khu vực tư nhân trong giáo dục đã đặt ra những vấn đề quan trọng về tính
công bằng trong tiếp cận giáo dục. Hàn Quốc tập trung các nguồn lực cộng
đồng cho giáo dục cơ sở và lựa chọn thêm trong việc kết hợp nguồn lực Nhà

nước và tư nhân cho giáo dục bậc cao.
Trung Quốc hiện đang đẩy mạnh tốc độ phát triển giáo dục kỹ thuật
hướng nghiệp, giáo dục cao đẳng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ
sau trung học. Mở rộng hệ thống giáo dục người lớn từ tiểu học đến đại học
(bên cạnh hệ thống giáo dục chính quy cho thế hệ trẻ). Từ năm học 2003 -
2004, Bộ Giáo dục Trung Quốc đã ban hành một quyết định hỗ trợ học sinh,
sinh viên nghèo (gọi là Lối Xanh). Theo quyết định này, các trường đại học có
nhiệm vụ: Hướng dẫn sinh viên nghèo vay nợ để đóng học phí; tháng 8 hàng
năm, các trường đại học phải gửi danh sách vay nợ tới mỗi sinh viên cùng với
giấy báo nhập học; không một trường đại học nào được từ chối sinh viên
nghèo. Nếu báo chí phát hiện những vi phạm thì Hiệu trưởng bị cách chức
ngay lập tức.
7
Singapore, Chính phủ tham gia khá mạnh mẽ vào hoạt động và tài trợ
cho giáo dục ở tất cả các cấp học. Các trường tư thục có chi phí cho giáo dục
thấp hơn hệ thống trường công. Chính phủ đã đưa ra một loạt các chương
trình đào tạo, ví dụ: Chương trình giáo dục cơ bản đào tạo kỹ năng triển khai
từ năm 1883; chương trình đào tạo kỹ năng theo học phần triển khai từ năm
1987. Vào những năm 1990, Singapor thành lập các cơ sở đào tạo có chuyên
môn hóa và cơ sở liên doanh với các doanh nghiệp tư nhân.
Như vậy, mỗi nước có một đặc điểm riêng về kinh tế xã hội nhưng đều
có điểm chung trong phương thức XHHGD là huy động mọi tiềm lực của
cộng đồng cho giáo dục. Nhưng ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào các điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội và văn hóa của mình đều có sự lựa chọn mô hình
XHHGD thích hợp.
1.1.2 Những nghiên cứu ở trong nước
Trong nền quân chủ chuyên chế, các triều đại phong kiến, các bậc minh
quân, các bậc hiền tài…cũng đã không ngừng chăm lo đến sự học của dân
chúng,“ Hiền tài là nguyên khí Quốc gia”. Mở nhiều trường dạy học, mở
nhiều khoa thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình), coi trọng nghề dạy học và người

dạy học “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”.
Trong thời đại ngày nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Giáo dục
phải cung cấp cho cán bộ kinh tế, kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ
được. Nếu kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không phát triển được.
Giáo dục không phát triển thì không có đủ cán bộ kinh tế phát triển. Hai việc
đó liên quan mật thiết với nhau”.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02/09/1945 nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm xây dựng
nền giáo dục Việt Nam mới - Nền giáo dục của toàn dân, trong suốt những
8
năm chiến tranh chống giặc ngoại xâm, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng
Đảng và Nhà nước vẫn dành sự quan tâm đặc biệt cho GD&ĐT.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90
ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng và chủ trương XHH các hoạt
động giáo dục nhằm cụ thể hóa chủ trương, nội dung, biện pháp XHH hoạt
động GD& ĐT.
Vấn đề XHHGD đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu
trong nước. Tác giả Phạm Minh Hạc là người đã viết nhiều tài liệu về
XHHGD, có nhiều bài phát biểu chỉ đạo phong trào XHHGD.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:
“Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đổi mới cơ
chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập; bổ sung chính sách ưu
đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm giáo dục cộng
đồng”. [20, 208].
Tác giả Phạm Tất Dong trong cuốn “Xã hội hóa công tác giáo dục” đã
làm rõ nội hàm khái niệm xã hội hóa công tác giáo dục và coi xã hội hóa là
một khái niệm đã vận động trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam,
qua mỗi giai đoạn khái niệm đó lại được phát triển thêm, nội hàm phong phú
hơn.

Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, tác
giả Phạm Minh Hạc một lần nữa khẳng định: “Sự nghiệp giáo dục không phải
chỉ là của Nhà nước, mà là của toàn xã hội: mọi người cùng làm giáo dục,
Nhà nước và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên
một cao trào tập trung trong toàn dân”. [23]
Bên cạnh chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước nêu trên, các
nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục ở nước ta đã nêu lên một số luận điểm
9
quan trọng. GS.TS Phạm Minh Hạc khẳng định: “Xã hội hóa công tác giáo
dục, một con đường phát triển giáo dục nước ta.” [22, 16].
Viện khoa học giáo dục Việt Nam đã triển khai nhiều năm một hệ thống
đề tài về XHHGD, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ chế
XHHGD. Năm 1999, cuốn sách “Xã hội hóa công tác giáo dục – nhận thức
và hành động” của Viện do tập thể tác giả Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang,
Nguyễn Thanh Bình là một bước hoàn thiện về nhận thức lý luận và hướng
dẫn thực tiễn. Bộ GD&ĐT cũng đã có “Đề án XHHGD&ĐT” đánh giá thực
trạng và đưa ra những giải pháp XHHGD ở tầm vĩ mô, nhằm tạo ra những
chuyển biến cơ bản trong GD&ĐT, chuẩn bị tốt nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong hai chục năm đầu thế kỷ XXI.
1.2 Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1 Giáo dục và Xã hội hóa giáo dục
1.2.1.1 Giáo dục
Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng: “Là một lĩnh vực của hoạt động xã hội
nhằm truyền đạt những kinh nghiệm xã hội, lịch sử chuẩn bị cho thế hệ trẻ trở
thành lực lượng tiếp nối sự phát triển xã hội, kế thừa và phát triển nền văn hoá
của loài người và dân tộc. Đây là một bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể.
Trong đó, bằng tác động chủ đạo của nhà giáo dục, nhằm phát huy tính
tích cực tự giác ở học sinh, để hình thành và phát triển ở họ ý thức tình cảm
và hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực của xã hội đã quy định”.
Hiểu theo nghĩa hẹp đó là: “Quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức

và có kế hoạch của thầy và trò, để sao cho dưới tác động chủ đạo của thầy,
học sinh tự giác tích cực và độc lập, hình thành những quan điểm, niềm tin,
định hướng giá trị, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những động cơ, thái độ, kỹ
năng, kỹ xảo và các thói quen của các hành vi đúng đắn trong các quan hệ
chính trị, đạo đức, pháp luật,… thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội”.
10
Theo PGS.TS Phạm Minh Hùng thì khái niệm Giáo dục được hiểu ở
nhiều cấp độ khác nhau:
Ở cấp độ rộng nhất: Giáo dục là quá trình hình thành nhân cách dưới ảnh
hưởng của tất cả các tác động (bao gồm các tác động tự giác tích cực xen lẫn
các tác động tự phát tiêu cực, các tác động khách quan lẫn các tác động chủ
quan). Đây chính là quá trình xã hội hóa con người;
Ở cấp độ thứ hai: Giáo dục là hoạt động có mục đích của các lực lượng
xã hội nhằm hình thành các phẩm chất nhân cách. Đây chính là quá trình giáo
dục xã hội;
Ở cấp độ thứ ba: Giáo dục là một hoạt động có kế hoạch, có nội dung và
bằng phương pháp khoa học của các nhà sư phạm trong các tổ chứ giáo dục,
trong nhà trường đến học sinh nhằm giúp họ phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm
mỹ, thể chất… Đây chính lá quá trình sư phạm tổng thể;
Ở cấp độ thứ tư: Giáo dục là quá trình hình thành ở học sinh những phẩm
chất đạo đức, những thói quen hành vi. Đây chính là quá trình giáo dục thói
quen theo nghĩa hẹp;
Theo nghĩa chung nhất, khát quát nhất: Giáo dục là quá trình truyền đạt
và lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm
chuẩn bị cho con người bước vào cuộc sống lao động và sinh hoạt xã hội; là
một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của con người và xã hội.
1.2.1.2 Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hoá công tác giáo dục “Là huy động xã hội làm giáo dục, động
viên mọi tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự

quản lý của nhà nước” .
Xã hội ngày một phát triển, cũng như giáo dục qua các thời đại lịch sử
ngày càng tiến xa bản chất xã hội vốn có từ ban đầu. Trải qua các quá trình
11
thay đổi về mối quan hệ sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyên môn hoá,
giai cấp hoá, nhà nước hoá đi đến độc quyền và đơn độc. Chất lượng giáo dục
thấp, cơ sở vật chất cho giáo dục còn nhiều bất cập, có nhiều nguyên nhân từ
những vấn đề này. Những vấn đề còn tồn tại của giáo dục sẽ dần được khắc
phục khi giải quyết tốt bản chất xã hội liên quan mật thiết tới giáo dục. Đảng
ta đã khẳng định quan điểm “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. Hội
nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa IX đã chỉ rõ: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn
ngành giáo dục cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những định hướng
chiến lược về giáo dục trong Nghị quyết TW 2 (Khoá VIII). Đẩy mạnh
XHHGD nhằm tạo nguồn nhân lực có số lượng và chất lượng đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
Qua đó chúng ta thấy rằng, XHHGD không chỉ đơn thuần là huy động
sức mạnh tổng hợp của các ngành các cấp vào sự phát triển sự nghiệp giáo
dục mà còn có chiều ngược lại: Giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có số lượng
và chất lượng đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ mới.
Có con người là có giáo dục, ngoài xã hội loài người, ngoài mối quan hệ
giữa con người với con người thì không có hiện tượng giáo dục. Giáo dục có
ở tất cả các chế độ xã hội, chế độ chính trị và trong mọi thời đại lịch sử, giai
đoạn lịch sử…Vì thế giáo dục được xem là một hiện tượng phổ quát và vĩnh
hằng. Xã hội muốn tồn tại và phát triển phải có quá trình truyền thụ kinh
nghiệm của các thế hệ đi trước cho các thế hệ đi sau. Điều này thể hiện tính
chất truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội của giáo dục. Trong xã hội có
giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và bảo vệ quyền
lợi của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thực hiện quyền của mình đối với
giáo dục thông qua mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học
trong các nhà trường. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng,

cho nên giáo dục mỗi nước có những nét độc đáo, sắc thái riêng thể hiện trong
mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện giáo dục.
12
Xã hội đóng vai trò quyết định đối với giáo dục, ngược lại giáo dục có
tác động to lớn đối với xã hội. Nhờ có giáo dục mà kho tàng tri thức, kinh
nghiệm cuộc sống của xã hội loài người ngày càng được bảo tồn, bổ sung và
phát triển.
Giáo dục theo nghĩa hẹp là tạo ra nguồn nhân lực có trình độ, phẩm chất
cung cấp cho mọi ngành nghề, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế.
Ngược lại, khi nền kinh tế xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi (đầu tư
ngân sách, phương tiện, kỹ thuật ) thúc đẩy giáo dục phát triển. Như vậy
giữa giáo dục và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
Mối quan hệ cùng tồn tại này là do con người và vì con người. Với ý nghĩa
đó, đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển GD&ĐT là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và
bền vững”.
Nhà trường phải gắn liền với cộng đồng, phát triển vì mục tiêu của cộng
đồng, chính vì thế phương châm giáo dục của chúng ta gắn nội dung giáo dục
của nhà trường phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa nhà trường và cộng đồng, huy động tối đa các nguồn lực cộng đồng để
xây dựng và phát triển nhà trường.
Từ sau Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII,
XHHGD là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Văn kiện Hội nghị
này đã nêu rõ XHHGD là “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các
tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý
của nhà nước”.
Nghị quyết 90- CP của Chính phủ do Thủ tướng ký ngày 21-8-1997 đã
xác định khái niệm XHHGD với những nội dung sau đây: “Tạo ra phong trào

học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức; vận động toàn dân,
13
trước hết là những người trong độ tuổi lao động, thực hiện học tập suốt đời để
làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, làm cho xã
hội ta trở thành một xã hội học tập; Vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ,
tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong
nhà trường với giáo dục ở gia đình và giáo dục ngoài xã hội; tăng cường trách
nhiệm của cấp uỷ Đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các đoàn thể
quần chúng, các doanh nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục; Nâng cao ý thức
trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân đối với giáo dục nhằm củng cố, tăng
cường hiệu quả của hệ thống giáo dục để phục vụ tốt việc học tập của nhân
dân” .
Theo Từ điển Giáo dục học, “XHHGD là chủ trương, biện pháp biến sự
nghiệp giáo dục trong nhà trường thành công việc chung của toàn xã hội để
thu hút mọi thành phần, thành viên trong xã hội tích cực tham gia vào hoạt
động giáo dục thế hệ trẻ tùy theo chức năng, điều kiện của mình”
Như vậy, XHHGD là quá trình đổi mới phương thức tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực GD&ĐT, tạo cơ chế và động lực phát triển giáo dục, thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục, đáp ứng kịp thời yêu cầu CNH-HĐH đất
nước trong thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
1.2.2 Quản lý và quản lý xã hội hóa giáo dục
1.2.2.1 Quản lý
Quản lý là một khái niệm được thường xuyên sử dụng trong nghiên cứu
khoa học về lĩnh vực xã hội.
F.W. Taylo cho rằng "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì
cần phải làm và cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất"
Các Mác khẳng định: "Tất cả mọi người lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cần có một sự
lãnh đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện chức năng chung
14

phát sinh từ mọi vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động
của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm thì tự điều
khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng".
Tóm lại, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm
năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến
động của môi trường, làm cho tổ chức vận hành (hoạt động) có hiệu quả.
1.2.2.2 Quản lý Xã hội hóa giáo dục
Quản lý xã hội hóa giáo dục là xây dựng kế hoạch phù hợp với hoạt động
giáo dục và điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị trên cơ sở những chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, căn cứ vào điều kiện thực tế để cụ
thể hóa trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục và XHHGD ở từng địa
phương, đơn vị với các biện pháp khả thi và thường kiểm tra đánh giá bằng
tiêu chí rõ ràng.
Tổ chức thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương này trở thành một cuộc vận động lớn mang
lại hiệu quả tích cực cho nền giáo dục Việt Nam. Vì vậy, khâu tổ chức thực
hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo những nguyên tắc và nội
dung của công tác XHHGD là chỉ đạo, chỉ huy, điều phố chỉ dẫn thành viên
trong đơn vị thực hiện các công tác công việc đề ra về xã hội hóa giáo dục;
Điều phối, điều chỉnh các nhiệm vụ để công việc tiến hành nhịp nhàng; Kiểm
tra, đánh giá một trong những chức năng quản lý quan trọng. Vì vậy, công tác
XHHGD sau khi triển khai thực hiện cần được tổng kết, đánh giá, kiểm tra
chặt chẽ theo định kỳ.
Thông tin là thể nền của quản lý, không có thông tin, không thể thực hiện
được các mục tiêu của quản lý nói chung và quản lý xã hội hóa giáo dục nói
riêng một cách có hiệu quả.
15
Quản lý xã hội hóa giáo dục trước hết là xây dựng cơ chế vận hành của
hoạt động xã hội hóa tạo hành lang để hoạt động xã hội hóa đi đúng quỹ đạo

theo mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Quản lý xã hội hóa giáo dục đòi
hỏi phương pháp mềm dẻo, linh hoạt tạo được phong trào định hướng được
phong trào, phát huy dân chủ trong nhân dân tăng cường nguồn lực của xã hội
và cộng đồng cho giáo dục và đào tạo.
1.2.3 Giải pháp và giải pháp quản lý xã hội hóa giáo dục
1.2.3.1. Giải pháp
Theo Từ điển tiếng Việt, “giải pháp được xem là phương pháp giải quyết
một, công việc, một vấn đề cụ thể”.
Còn theo Nguyễn Văn Đạm, “giải pháp là toàn bộ những ý nghĩa có hệ
thống cùng với những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới sự khắc phục
một khó khăn”.
Để hiểu rõ hơn khái niệm giải pháp, chúng ta cần phân biệt với một số
khái niệm tương tự như: phương pháp, biện pháp. Điểm giống nhau của các
khái niệm này đều nói về cách làm, cách tiến hành, cách giải quyết một công
việc, một vấn đề. Còn điểm khác nhau ở chỗ, biện pháp chủ yếu nhấn mạnh
đến cách làm, cách hành động cụ thể, trong khi đó phương pháp nhấn mạnh
đến trình tự các bước có quan hệ với nhau để tiến hành một công việc có mục
đích.
Theo Nguyễn Văn Đạm, “phương pháp được hiểu là trình tự cần theo
trong các bước có quan hệ với nhau khi tiến hành một công việc có mục đích
nhất định”.
Về khái niệm biện pháp, theo Từ điển tiếng Việt, đó là “cách làm, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Như vậy, khái niệm giải pháp tuy có những điểm chung với các khái
niệm trên nhưng nó cũng có điểm riêng. Điểm riêng cơ bản của thuật ngữ này
16
là nhấn mạnh đến phương pháp giải quyết một vấn đề, với sự khắc phục khó
khăn nhất định, trong đó một giải pháp có thể có nhiều biện pháp.
1.2.3.2. Giải pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục
Giải pháp thực hiện XHHGD là hệ thống các cách thức thực hiện

XHHGD.
Từ đó, đề xuất các giải pháp thực hiện XHHGD thực chất là đưa ra các
cách thức thực hiện XHHGD.
1.3 Một số vấn đề về công tác xã hội hóa giáo dục Trung học cơ sở.
1.3.1 Trường Trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trung học cơ sở là một bậc học trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện
nay, nó sau bậc Tiểu học và trước bậc trung học phổ thông. Trung học cơ sở
kéo dài 4 năm (từ lớp 6 đến lớp 9). Thông thường, độ tuổi học sinh ở trường
trung học cơ sở là từ 11 đến 15. Trước đây, để tốt nghiệp trung học cơ sở, học
sinh phải vượt qua một kỳ thi tốt nghiệp vào cuối lớp 9 nhưng kể từ năm 2006
nó đã chính thức bãi bỏ.
Trường Trung học cơ sở được bố trí tại từng xã, phường, thị trấn. Tuy
nhiên trong thực tế vẫn có một số xã không có trường trung học cơ sở. Đó
thường là các xã ở vùng sâu, vùng xa hoặc hải đảo. Theo quy định trong luật
ngân sách nhà nước, đầu tư xây dựng trường trung học cơ sở cũng như trường
tiểu học thuộc trách nhiệm của chính quyền cấp huyện.
Luật giáo dục đã khẳng định mục tiêu giáo dục THCS là: “Giáo dục
THCS nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục
tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu
về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề hoặc
đi vào cuộc sống lao động”.
XHHGD là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước thể hiện ở tất cả
các bậc học. Xã hội hóa giáo dục bậc trung học cơ sở là một bộ phận của công
tác xã hội hóa giáo dục. Cụ thể:
17
- Khuyến khích phát triển trường trung học cơ sở ngoài công lập ở khu
vực thành phố, thị xã và các vùng kinh tế phát triển.
- Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân
dân đóng góp kinh phí, đất đai để xây dựng trường trung học cơ sở đạt chuẩn
Quốc gia.

- Thực hiện chính sách ưu tiên ngân sách cho vùng đồng bào dân tộc,
vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và khó khăn thực
hiện phổ cập trung học cơ sở. Đảm bảo đủ ngân sách cho giáo dục phổ cập.
Theo Luật Giáo dục 2005, mục tiêu giáo dục THCS là "nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ
thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động".
1.3.1.1 Nhiệm vụ giáo dục trung học cơ sở
Trường THCS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Tổ chức giảng
dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác của chương trình giáo dục phổ
thông; Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều
động giáo viên, cán bộ, nhân viên; Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận
động học sinh đến trường, quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo; Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng; Huy
động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục, phối hợp với
gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục; Quản lý, sử
dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của Nhà nước;
Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội; Tự
đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ
quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục; Thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
18
1.3.1.2 Cơ sở giáo dục trung học cơ sở
Cơ sở giáo dục THCS bao gồm các loại hình công lập và tư thục.
- Trường công lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành
lập và Nhà nước trực tiếp quản lý. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và
kinh phí cho chi thường xuyên, chủ yếu do ngân sách nhà nước bảo đảm.
- Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cho phép. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động
của trường tư thục là nguồn ngoài ngân sách nhà nước.
1.3.2 Một số vấn đề về xã hội hóa giáo dục THCS
1.3.2.1 Mục tiêu xã hội hóa giáo dục THCS
Xã hội hóa giáo dục sẽ "mở cửa" nhà trường với xã hội bên ngoài, tạo
điều kiện xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa nhà trường và nhân dân, làm cho
nhân dân có thể thực hiện tốt quyền làm chủ của mình đối với giáo dục,
không những đóng góp xây dựng nhà trường mà còn giám sát, kiểm tra nhà
trường trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục. Đó là mục tiêu giáo dục,
đào tạo con người phát triển toàn diện. Mục tiêu cao nhất của giáo dục là xã
hội hóa cá nhân đáp ứng yêu cầu xã hội do đó nội dung giáo dục trong nhà
trường phải theo yêu cầu của xã hội.
1.3.2.2 Nội dung và hình thức chủ yếu của XHHGD
Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình
thức, vận động toàn dân, trước hết là những người trong độ tuổi lao động thực
hiện học tập suốt đời để làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống
tốt đẹp hơn, làm cho xã hội ta trở thành xã hội học tập.
Vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ, tạo môi trường giáo dục tốt lành,
phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục ở gia đình và
ngoài xã hội; tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, Hội đồng nhân dân,
19

×