Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở ở huyện tĩnh gia, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.65 KB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ BÌNH
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
Ở HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ BÌNH
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
Ở HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:TS Phan Quốc Lâm
Nghệ An, năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Với tấm lòng thành kính, tác giả xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới thầy, cô
giáo trong Ban giám hiệu trường Đại học Vinh, các thầy, cô giáo khoa Sau
Đại học đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt hai năm học tại trường.
Đặc biệt tôi xin dành tình cảm chân thành, sâu nặng tới TS. Phan Quốc
Lâm- Người thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành
luận văn này.
Tác giả xin cảm ơn các đồng chí là trưởng các ban, ngành, đoàn thể, chuyên
viên Phòng GD&ĐT huyện Tĩnh Gia, , gia đình, bạn bè, những người đã tạo
điều kiện cho tôi đi học và giúp tôi trong quá trình nghiên cứu luận văn. Cảm


ơn các đồng nghiệp hai nhà trường THCS Triêu Dương, THCS Hải Bình, các
học viên trong lớp Cao học QLGD K20b đã động viên, khích lệ, tạo mọi điều
kiện tốt nhất có thể để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu đề tài song kinh
nghiệm còn ít, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, do vậy sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả rất mong được sự chỉ dẫn, góp ý chân thành của thầy,
cô, bạn bè, đồng nghiệp về nội dung luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tĩnh Gia, tháng 8 năm 2014
Tác giả
Lê Bình
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3
4. Giả thuyết khoa học 3
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Những đóng góp của đề tài 4
8. Cấu trúc luận văn 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC
XHHGD 6
1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu 6
1.2 Các khái niệm cơ bản của đề tài 11
1.3 Một số vấn đề về XHHGD ở trường THCS 20
1.4 Một số vấn đề về quản lý công tác XHHGD ở trường THCS 22
1.5 Một số yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác XHHGD ở trường THCS 26
1.6 Kết luận chương 1 28

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC XHHGD THCS Ở
HUYỆN TĨNH GIA,TỈNH THANH HOÁ 29
2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội và tình hình giáo dục
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá 29
2.2.Thực trạng công tác XHHGD cấp THCS ở huyện Tĩnh Gia 46
2.3. Thực trạng quản lý công tác XHHGD THCS ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hoá 61
2.4. Đánh giá chung về thực trạng quản lý công tác XHHGD THCS ở huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá 68
2.5 Kết luận chương 2 74
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC XHHGD
THCS Ở HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HOÁ 75
3.1.Các nguyên tắc đề xuất giải pháp 75
3.2. Các giải pháp quản lý công tác XHHGD THCS ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hoá 76
3.3. Khảo sát về tính cần thiết, tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất 99
3.4 Kết luận chương 3 104
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 105
1. Kết luận 105
2.Kiến nghị 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
PHỤ LỤC 113
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
TT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT
1 Cán bộ quản lý CBQL
2 Cán bộ quản lý giáo dục CBQLGD
3 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐH
4 Cơ sở vật chất CSVC
5 Giáo dục GD
6 Giáo dục và đào tạo GD&ĐT

7 Giáo viên GV
8 Học sinh HS
9 Hội đồng nhân dân HĐND
10 Huyện ủy HU
11 Kinh tế - xã hội KT-XH
12 Nhân viên NV
13 Phổ cập giáo dục PCGD
14 Quản lý giáo dục QLGD
15 Trung học cơ sở THCS
16 Trung học phổ thông THPT
17 Trung tâm học tập cộng đồng TTHTCĐ
18 Ủy ban nhân dân UBND
19 Xã hội chủ nghĩa XHCN
20 Xã hội hóa giáo dục XHHGD
21 Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở XHHGD THCS
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hoá giáo dục(XHHGD)là một chủ trương có tầm chiến lược của
Đảng và Nhà nước, tạo động lực và phát huy mọi nguồn lực để phát triển một
nền giáo dục tiên tiến, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, cạnh
tranh được với các nền giáo dục trên thế giới. Để đạt được điều đó cần phải có
sự tham gia, chung tay gánh vác của toàn xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hoá, đổi mới và hội nhập Đảng và Nhà nước ta đã
khẳng định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển. Giáo dục là một nhân tố quyết định cho sự phát triển của đất
nước. Giáo dục và Đào tạo(GD&ĐT) không độc lập tự mình làm tốt công tác
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trên quan điểm xã hội học tập, mọi
người cùng tham gia, không chỉ là đóng góp vật chất, sức lực, trí tuệ mà còn
trực tiếp tham gia vào quá trình GD&ĐT.

Để thể hiện vai trò quan trọng đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách về xã hội hoá công tác giáo dục: Nghị quyết Trung ương
4(Khoá VII)Nghị quyết Trung ương 2(Khoá VIII). Kết luận Hội nghị Trung
ương 6(Khóa IX)Nghị quyết Trung ương khoá X đã khẳng định: “ Đẩy mạnh
xã hội hoá giáo dục coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp
quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục”. Điều 11 luật giáo dục (2005) ghi
rõ: “Mọi tổ chức gia đình và công dân có trách nhiệm lo sự nghiệp giáo dục,
xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp
với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong sự nghiệp phát triển giáo dục thực hiện đa dạng hoá các loại hình nhà
trường và các loại hình giáo dục, khuyến khích, huy động tạo điều kiện để
các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục ”[31,tr12]
7
Đất nước đang bước vào thời kì đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) đòi hỏi phải đào tạo một nguồn nhân lực rất lớn, có chất lượng
cao. Vì vậy phải phát triển mạnh mẽ quy mô giáo dục đào tạo, đáp ứng nhu
cầu học tập ngày càng cao trong xã hội. Từ thực tế đó Nhà nước chưa đủ sức
và không thể bao cấp toàn bộ sự nghiệp phát triển giáo dục thì XHHGD là
một phương thức cơ bản để phát triển giáo dục.
Song song với việc tăng cường đầu tư cho giáo dục từ nguồn ngân sách Nhà
nước cần phải có sự góp sức của các nguồn lực khác từ bên ngoài, tạo động
lực, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, vững chắc cho nền giáo dục Việt Nam.
Là những người trực tiếp quản lý giáo dục các đơn vị nhà trường, phải chịu
trách nhiệm về chất lượng giáo dục trước lãnh đạo,chính quyền địa phương và
các cấp quản lý Nhà nước. Muốn làm tốt chất lượng giáo dục (GD)ở các đơn
vị nhà trường không thể không làm tốt công tác XHHGD. Trong đó khâu
quản lý huy động XHHGD là hết sức quan trọng, do đó phải tìm ra được
những giải pháp phù hợp để huy động, tổ chức các lực lượng xã hội tham gia
và đứng trong quá trình GD để thực hiện thắng lợi các mục tiêu GD đề ra.
Thực tiễn cho thấy huyện Tĩnh Gia nói chung và Phòng GD&ĐT huyện

Tĩnh Gia nói riêng đã, đang tích cực chỉ đạo và tham gia vào công tác
XHHGD cụ thể như: Đã huy động được nhiều nguồn lực bên ngoài, các cá
nhân, tập thể, các tổ chức hảo tâm đóng góp để xây dựng cơ sở vật chất nhà
trường, trang thiết bị dạy học, công tác khuyến học, khuyến tài, công tác xây
dựng trường chuẩn quốc gia…Tuy nhiên việc đầu tư, hỗ trợ cho công tác
XHHGD còn hạn chế, nhận thức ở một số cán bộ, nhân dân và những người
làm công tác GD còn phiếm diện, chưa đầy đủ nên việc huy động các nguồn
lực cho giáo dục còn chưa đúng với tiềm lực vốn có của nó. Làm sao để toàn
xã hội cùng tham gia, phối hợp trong công tác GD là một việc làm cần thiết
và nam giải. Vấn đề này đòi hỏi các cấp quản lý, các nhà lãnh đạo phải nghiên
8
cứu, có các giải pháp hợp lý để công tác XHHGD được phát huy một cách
hiệu quả, thiết thực, biến các chủ trương, chính sách của GD phải đi vào đời
sống nhân dân và xuất phát từ lợi ích của nhân dân.
Trên địa bàn huyện Tĩnh Gia thực sự chưa có một công trình khoa học
nghiên cứu nào một cách có hệ thống cả về lý thuyết và thực tiễn vấn đề quản
lý XHHGD để từ đó định hướng cho các trường quản lý, triền khai, thực hiện
hiệu quả vấn đề này.
Xuất phát từ thực tế và kinh nghiệm làm công tác quản lý ở cấp Trung học cơ
sở(THCS)chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp
quản lý công tác xã hội hoá giáo dục THCS ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hoá”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác
XHHGD cấp THCS trên địa bàn huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, từ đó góp
phần nâng cao chất lượng GD&ĐT của huyện Tĩnh Gia.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Quản lý công tác XHHGD cấp THCS trên địa bàn huyện Tĩnh Gia
3.2 Đối tượng nghiên cứu

Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục cấp THCS tại huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được những giải pháp quản lý có cơ sở khoa học và có tính khả
thi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác XHHGD THCS ở huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hoá.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
9
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác XHHGD THCS
- Phân tích thực trạng quản lý công tác XHHGD THCS tại huyện Tĩnh Gia,
tỉnh Thanh Hoá.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả công tác XHHGD cấp
THCS tại huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc quản lý công tác XHHGD THCS ở huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá từ năm 2008-2015.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các loại tài liệu gồm các công trình nghiên cứu, các văn bản, các
nghị quyết, các báo cáo tổng kết… của tỉnh Thanh Hoá của Ngành GD cũng
như các tài liệu khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài nghiên
cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận, định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn.
6.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp dùng phiếu điều tra tình hình thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp đàm thoại.
Nhằm phát hiện thực trạng quản lý XHHGD THCS và thăm dò tính cần thiết
và tính khả thi của các giải pháp đề xuất.

6.3.Nhóm các phương pháp thống kê toán học
Để xử lý các số liệu thu được về mặt định lượng.
7. Những đóng góp của đề tài
7.1. Hệ thống hoá, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề về quản lý
XHHGD cấp THCS trên địa bàn huyện.
10
7.2. Chỉ ra và đánh giá đúng được thực trạng quản lý công tác XHHGD
THCS tại huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
7.3. Đề xuất được một số giải pháp quản lý công tác XHHGD THCS tại
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục luận
văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác XHHGD
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác XHHGD THCS ở huyện Tĩnh Gia,
tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hoá giáo dục THCS ở
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XHHGD
1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Ngoài nước
Trong thời đại ngày nay, không chỉ riêng Việt Nam mà nhiều nước trên
thế giới, kể cả các nước đang phát triển cũng như các nước có nền kinh tế
phát triển đều nhấn mạnh chính sách phát triển đất nước dựa vào GD&ĐT,
dựa vào khoa học và công nghệ. Có thể nói tùy thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa - giáo dục mà mỗi nước có những
đặc điểm về cơ cấu hệ thống, loại hình đào tạo, phân chia thời gian bậc học,
yêu cầu chất lượng bậc học, cấp học khác nhau. Nhưng nhìn chung hệ thống

GD các nước đang phát triển theo hướng hiện đại hóa và xu hướng hội nhập
GD&ĐT, kinh tế - xã hội giữa các nước, khu vực và toàn thế giới. Trong sự
phát triển GD công tác XHHGD được các nước chú trọng số một và xem nó
là con đường dẫn đến sự phát triển bền vững của GD&ĐT. Tùy theo hoàn
cảnh, điều kiện của từng quốc gia mà công tác XHHGD thực hiện khác nhau.
Từ năm 1972, UNESCO đã đưa ra quan điểm: Giáo dục suốt đời, giáo dục
phải hướng mục tiêu đào tạo những người có đủ tri thức và kỹ năng, năng lực
và phẩm chất với tinh thần, trách nhiệm đầy đủ của người công dân tham gia
vào cuộc sống lao động. Có thể thấy phương pháp GD của các nước trên thế
giới trong thế kỉ XXI là; tích cực chuyển từ nền GD sang hệ thống học tập
suốt đời. Chương trình GD hướng mạnh vào tính cá nhân làm cho hệ thống
giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại. Các nước có nền GD phát
triển mạnh trên thế giới như: Mĩ, Thụy Điển, Hàn Quốc, Pháp, Singapo đều
thực hiện tốt công tác XHHGD và nền giáo dục của các nước này đã góp một
12
phần lớn vào sự phát triền kinh tế - xã hội, đáp ứng được nhu cầu xã hội học
tập theo đúng quan niệm về XHHGD.
Ở Trung Quốc: Chính phủ đặt ra chiến lược “Làm cho đất nước giàu
mạnh thông qua khoa học và giáo dục.” Chính sách phát triển của Trung
Quốc hiện nay là: Đầu tư chi phí cho GD được coi là chính sách quốc gia
hàng đầu, đầu tư cho GD được xem như đầu tư cho phát triển sản xuất. Phát
triển GD chuyên nghiệp theo hướng đáp ứng nhu cầu nhân lực đủ chuẩn, phát
triển GD theo hoàn cảnh địa phương. Đảm bảo sự tham gia rộng rãi của cộng
đồng vào quản lý GD và đầu tư cho GD.
Nhật Bản đã đạt được những thành tựu “khổng lồ” về mặt kinh tế, khoa học
công nghệ chủ yếu là do nước Nhật đã huy động cao độ, mạnh mẽ nội lực của
toàn dân tộc thông qua chính sách GD&&ĐT.
Nước Mỹ là quốc gia tiên phong trong XHHGD, năm 2010 toàn nước Mỹ
đã xây dựng các cộng đồng tiến hành GD phạm vi ngoài nhà trường. Mô hình
GD mới ưu tiên cho tập thể cộng đồng, giới doanh nghiệp và lao động. Ngày

4/2/1997, tổng thống Mỹ đã đọc thông điệp trước Thượng viện nói đến hiện
đại hóa nền GD và mục tiêu học tập suốt đời, yêu cầu nâng cao việc học và
trình độ học vấn, giảm trừ các loại thuế để dành tiền cho đóng học phí vào các
trường Cao đẳng, Đại học
Xét dưới góc độ lý luận chủ nghĩa Mác – Lenin, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, thì công tác XHHGD chính là sự phát triển của một chủ trương GD
đã được thực hiện sâu rộng ở các nước. Sự nghiệp GD cũng là sự nghiệp cách
mạng cần có sự tham gia của tất cả các lực lượng xã hội, bất cứ quốc gia nào
muốn tồn tại và phát triển đều phải bắt đầu từ phát triển giáo dục đại chúng.
1.1.1 Trong nước
Giáo dục là sản phẩm của xã hội, đồng thời cũng là một trong những yếu
tố quan trọng đánh dấu trình độ văn minh của các thời đại lịch sử. Sự tồn tại
13
và phát triển của của GD chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế - xã hội và
ngược lại với chức năng của mình GD có vai trò hết sức to lớn trong việc tái
sản xuất sức lao động cho xã hội; khơi dậy, thức tỉnh và phát huy tiềm năng
sáng tạo của mỗi con người, tạo ra môi trường sự phát triển kinh tế - xã hội.
Do vậy mối quan hệ biện chứng giữa GD và cộng đồng xã hội thường xuyên
diễn ra cùng quá trình phát triển xã hội loài người. Chức năng đầu tiên, chức
năng nguyên thủy của GD là xã hội hóa. Trong GD tất cả mọi cái đều mang
tính xã hội , bất kì xã hội nào đều là xã hội hóa GD.
Với tầm quan trọng như vậy, GD luôn được xem là quốc sách hàng đầu của
nhiều quốc gia trên thế giới. Việc quan tâm, huy động mọi nguồn lực và mọi
điều kiện cho phát triển GD là sách lược lâu dài của nhiều quốc gia. Mặc dù
bản chất GD ở các nước khác nhau nhưng đều cho thấy XHH sự nghiệp GD
là cách làm phổ biến, là sự lựa chọn số một cho sự phát triển và tồn tại bền
vững của một đất nước.
Ở Việt nam chủ trương XHHGD được thực hiện trong những năm qua.
Với tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, là sức mạnh tiềm tàng cho

sự phát triển GD nước nhà.
Dưới thời Phong kiến và Pháp thuộc, giai cấp thống trị và thực dân chỉ mở
rất ít trường học. Trường học chủ yếu mở ra cho con em giai cấp thống trị học
tập còn con em giai cấp công, nông, binh muốn học phải tự lo dưới nhiều hình
thức học, đa số phải chịu cảnh mù chữ.
Cách Mạng Tháng Tám thành công Đảng và Nhà nước thực hiện quan
điểm “GD là sự nghiệp của quần chúng”. Ngay khi nước Việt nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Chống giặc đói, giặc
dốt”. Đặc biệt là chống giặc dốt bởi sau độc lập có trên 90% dân ta không biết
14
đọc biết viết. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch cả nước đã trở thành
một xã hội học tập. Tiêu biểu nhất là phong trào “Bình dân học vụ” từ thành
thị đến nông thôn, nhà nhà đi học, người người đi học, học ở mọi nơi, mọi
lúc. Tư tưởng GD “ai ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thực sự đi vào cuộc sống, thể hiện được tinh thần, truyền thống hiếu học của
dân tộc ta.
Đất nước thống nhất, cả hai miền Nam- Bắc cùng thực hiện một hệ thống
GD và đạt được những thành tựu đáng kể. Song do cơ chế tập trung, quan lưu
bao cấp lúc bấy giờ làm cho nền GD nước ta không khai thác hết được sức
mạnh toàn dân tộc để phát triển GD. Thay vì thực hiện “Quản lý GD của nhà
nước”, chúng ta đã “Nhà nước hóa GD” do vậy tình trạng cơ sở vật chất GD
xuống cấp, lạc hậu, sự phát triển GD không kịp đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Sự phát triển tất yếu của kinh tế - xã hội đặt ra những cơ hội và thách thức
với sự phát triển GD và đòi hỏi GD&ĐT cũng phải đổi mới cách nhìn nhận về
vị trí, vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Việc đa dạng hóa
phát triền GD, huy động toàn xã hội làm GD là việc làm cần thiết và vô cùng
quan trọng. Đảng ta khẳng định “Xã hội hóa” là một trong những quan điểm
để hoạch định hệ thống chính sách xã hội.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định “Đẩy mạnh

xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Rà soát sắp xếp lại mạng lưới các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đổi mới cơ chế quản lý,
nâng cao chất lượng các trường công lập; bổ sung chính sách ưu đãi để phát
triển các trường ngoài công lập và trung tâm giáo dục cộng đồng”[7,tr. 208].
Để thực hiện chủ trương XHH, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/CP
ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động
15
giáo dục, y tế, văn hóa; Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách XHH,
nhằm khuyến khích, huy động các nguồn lực trong nhân dân, trong các tổ
chức thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển các hoạt động XHH lĩnh vực
giáo dục, y tế, thể dục, thể thao. Ngày 18/4/2005 Chính phủ ban hành nghị
quyết số 05/2005/NĐ-CP về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục. Ngày
24/6/2005, Bộ GD&ĐT ban hành quyết định số 20/2005/QĐ- BGD&ĐT phê
duyệt đề án “Quy hoạch phát triển XHHGD giai đoạn 2005-2010”.
Cùng với các Văn kiện, Nghị định, Thông tư, Nghị quyết của Đảng và Nhà
nước về công tác giáo dục; các cơ quan Liên Bộ, các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu, quản lý giáo dục đã họp bàn và nghiên cứu về vấn đề XHHGD đã
đưa ra các luận điểm quan trọng. GS.TS Phạm Minh Hạc đã khẳng định: “Xã
hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của
đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo dục nước ta” [35,tr. 16].
PGS.TS Đặng Quốc Bảo quan niệm “Không xã hội nào có thể tồn tại nếu
không có sự giáo dục và mọi sự giáo dục đều hướng tới sự tiến bộ của xã hội.
Như vậy là luôn luôn tồn tại nền giáo dục xã hội”[2,tr 6]. Ngoài ra còn rất
nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề XHHGD như Phạm Tất Dong, nhóm tác
giả Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình trong cuốn “Xã hội
hóa giáo dục nhận thức và hành động”. Các nhà nghiên cứu Nguyễn Mậu
Bành, Thái Duy Tuyên, Đào Huy Ngân cũng đã đề cập đến những vấn đề lý
luận và thực tiễn công tác XHHGD.
Như vậy, vấn đề XHHGD đã được nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn
một cách sâu rộng ở trong nước và trên thế giới. Công trình nghiên cứu công

tác quản lý XHHGD THCS trên địa bàn huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa là
một sự tìm tòi mới đóng góp vào sự phát triển chung của nền GD Việt nam
trong xu thế hội nhập toàn cầu.
16
1.2 Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Xã hội hoá
Theo từ điển xã hội học: “Xã hội hóa là quá trình tương tác giữa cá nhân và
xã hội, trong đó cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kĩ năng và
phương pháp cần thiết để hội nhập với xã hội”.
Xã hội hóa là một trong những vấn đề cơ bản của xã hội học. Xã hội hóa
thường được hiểu theo hai nghĩa: Xã hội hóa cá nhân và xã hội hóa một hoạt
động.
1.2.1.1 Xã hội hoá cá nhân
Xã hội hóa cá nhân là quá trình con người tiếp thu nền văn hóa của xã hội
trong đó con người được sinh ra, quá trình mà nhờ đó con người đạt được
những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử được
coi là thích hợp trong xã hội.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình tiếp thu và tái tạo những kinh nghiệm xã
hội của cá nhân thông qua hoạt động và giao lưu. Xã hội hóa cho phép con
người nhận thức toàn diện hiện thực xã hội xung quanh, chiếm lĩnh những kĩ
năng những hoạt động của cá nhân và tập thể trong môi trường xã hội mà
mình sinh sống. Xã hội hóa là quá trình liên tục, quá trình đó còn gọi là quá
trình học hỏi xã hội, tiếp thu xã hội, thích ứng xã hội[39,tr.18]
1.2.1.2 Xã hội hóa một hoạt động
Xã hội hóa một hoạt động là sự tham gia rộng rãi của xã hội (các cá nhân,
nhóm, tổ chức, cộng đồng ) vào một hoạt động hoặc một số hoạt động mà
trước đó chỉ một đơn vị, một bộ phận hay một ngành chức năng nhất định
thực hiện.[34,tr.112]
Với quan điểm này, XHH thường được dùng thông dụng trong xã hội. Đây
chính là quá trình phối hợp hoạt động một cách có kế hoạch của các lực lượng

17
trong xã hội theo một định hướng, một chiến lược quốc gia để giải quyết một
vấn đề nào đó của xã hội. XHH hoạt động cần được coi là một tư tưởng chiến
lược có tính lâu dài và toàn diện, là một giải pháp xã hội có tính liên ngành
cao nhằm huy động các lực lượng xã hội tham gia một cách tích cực để giải
quyết một vấn đề xã hội nào đó.
XHH hoạt động dưới góc nhìn của các nhà lãnh đạo, quản lý là một quá
trình tổ chức, quản lý và huy động nhiều lực lượng xã hội cùng tham gia để
giải quyết một vấn đề của xã hội theo một chiến lược xác định và có kế
hoạch. Đối với từng lực lượng xã hội, XHH được hiểu là một quá trình phối
hợp, lồng ghép các hoạt động của mình với hoạt động của các lực lượng khác
trong xã hội có liên quan để tạo ra hoạt động có tính liên ngành cao, trong đó
có sự phân công rõ trách nhiệm của từng lực lượng. Đối với mỗi cộng đồng,
mỗi gia đình, mỗi người dân, XHH hoạt động được hiểu là một quá trình
trong đó cần huy động sự tham gia hưởng ứng của nhiều người, của cộng
đồng và các cuộc vận động nhằm động viên, thúc đẩy họ hành động một cách
chủ động, tích cực vì mục đích mở rộng, tích cực vì mục đích mở rộng và
nâng cao chất lượng một hoạt động xã hội nào đó. XHH hoạt động xã hội còn
được hiểu như là việc biến một nhiệm vụ, một công việc thuộc trách nhiệm
của một chủ thể thành nhiệm vụ, công việc của một số chủ thể, của nhiều chủ
thể hay của toàn bộ xã hội. XHH với nghĩa tương đồng với việc huy động sức
lực, trí tuệ của cả cộng đồng cho việc hoàn thành một nhiệm vụ xã hội nào đó.
Ở đây huy động sức người, sức của, tài chính, phương tiện, vật chất…là
những cái cần huy động, tổng hợp, phân bổ và sử dụng cho việc hoàn thành
nhiệm vụ. XHH theo nghĩa này như một phương thức huy động xã hội, thông
qua công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động xã hội là chính.
Mà trong nhiều trường hợp XHH theo cách này đã huy động được không nhỏ
18
sức lực, trí tuệ của cả xã hội cho việc thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ
xã hội.

XHH các hoạt động không chỉ là tăng cường huy động cộng đồng mà coi
nhẹ trách nhiệm Nhà nước hoặc trách nhiệm các chủ thể chính, mà ngược lại
đây chính là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm của Nhà nước, của
các cơ quan chủ quản với cộng đồng, làm cho các nguồn lực được huy động
đến mức tối đa và sử dụng hiệu quả nhất. Đây mới là mục tiêu thực chất của
XHH hoạt động.
Như vậy, XHH hoạt động được đề cập ở đây là quá trình biến nhiệm vụ của
một ngành, một chủ thể thành nhiệm vụ của nhiều ngành, nhiều chủ thể xã hội
hay của toàn xã hội bằng cách thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục
thuyết phục nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của từng đối tượng, sự
quản lý, điều hành của các nhà lãnh đạo, các cơ quan chức năng góp phần
tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng xã hội để thực hiện
nhiệm vụ xã hội đang đặt ra.
1.2.2. Giáo dục và XHH giáo dục
1.2.2.1 Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong lịch sử nhân loại, là một
trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển nền
văn hoá xã hội, văn minh của nhân loại. Đảng ta chủ trương phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn nhân lực - yếu
tố cơ bản để xã hội phát triển nhanh và bền vững. Giáo dục vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển xã hội, văn hoá, kinh tế, chính trị.
1.2.2.2 Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục là một quá trình mà cộng đồng và xã hội cùng tham
gia vào giáo dục. trong đó mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm
19
chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo
dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
Xã hội hóa giáo dục là: “Huy động xã hội làm giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của
Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập”[21,tr.237]

XHHGD thuật ngữ này cho dù ở cấp độ nào đó đồng nghĩa với thuật ngữ “Xã
hội học tập”. Hai thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo của
UNESCO có tựa đề “Học để tồn tại; thế giới giáo dục hôm nay và ngày
mai”. Thứ nhất: Mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân theo khả năng của
mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cộng đồng. Thứ hai: Mọi người dân
trong cộng đồng đều có thể tận dụng cơ hội để có thể có cơ hội học tập và
tham gia phát triển giáo dục cộng đồng, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
cho bản thân.
Nghị quyết 90-CP của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ ký ngày 21/8/1997
đã xác định khái niệm XHHGD như sau:
- Là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội
vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục.
- Là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân và Đảng bộ,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của
từng người dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế xã hội lành
mạnh thuận lợi cho hoạt động giáo dục.
- Là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực
và tài lực trong xã hội (kể cả từ nước ngoài); phát huy và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực này.
20
XHHGD là một tư tưởng cách mạng chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà
nước ta. Điều 12, Luật giáo dục 2005 ghi rõ: “Phát triển giáo dục, xây dựng
xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân; thực hiện đa dạng
hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động
và tạo điều kiện để tôt chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
Nguyên Bộ trưởng Phạm Minh Hạc trong cuốn Giáo dục Việt nam trước
ngưỡng cửa của thế kỉ XXI đã khẳng định: “Sự nghiệp giáo dục không phải
chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục,
Nhà nước và xã hội, trung ương và địa phương cùng làm giáo dục”. “Làm

cho xã hội nhận rõ trách nhiệm đối với giáo dục, giáo dục phải phục vụ đắc
lực cho phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện việc kết hợp trong nhà trường và
ngoài nhà trường, tạo điều kiện để giáo dục kết hợp với lao động, học đi đôi
với hành; xã hội hóa giáo dục có quan hệ hữu cơ với dân chủ hóa giáo
dục”[14,tr17-18].
Hội nghị lần thứ 2 BCHTW Đảng (khóa VIII) đã xác định “Phát triển giáo
dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và của mỗi cộng đồng, của
từng gia đình và mỗi công dân. Kết hợp tốt giáo dục học đường với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội, xây dựng môi trường lành mạnh, người lớn làm
gương cho trẻ con noi theo. Phát động phong trào khắp toàn dân học tập,
người người đi học, học ở trường, lớp và tự học suốt đời, người biết dạy cho
người chưa biết, người biết nhiều dạy cho người biết ít, mỗi người phải
không ngừng tự nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ. Tiếp tục
đa dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại hình trường lớp phù hợp với
đòi hỏi của tình hình mới với nhu cầu học tập của tuổi trẻ và toàn xã
hội”[17,tr 9].
XHHGD đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, nó không ngừng
vận động và phát triển. Đảng và Nhà nước ta luôn xem XHHGD là một tư
21
tưởng chiến lược. Bản thân tư tưởng đó qua mỗi giai đoạn phát triển, mở rộng
phong phú cả về hình thức và nỗi dung. Trong điều kiện nước ta hiện nay
XHHGD là nhân tố quan trọng, đã và đang phát huy sức mạnh đối với sự
nghiệp phát triển GD, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước. Chính XHH công tác GD lại tạo ra những điều kiện,
những tác nhân làm xuất hiện những nhân tố mới trong quá trình đi lên của
phong trào GD. Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện XHHGD,
trên cơ sở đó nâng cao sự đổi mới tư duy GD, giải quyết kịp thời những vấn
đề đặt ra của sự nghiệp phát triển GD&ĐT.
1.2.3. Quản lý và quản lý công tác xã hội hoá giáo dục
1.2.3.1 Quản lý

Quản lý là một dạng lao động xã hội gắn liền và phát triển cùng với lịch sử
phát triển của loài người. Quản lý là một dạng lao động đặc biệt, nó có tính
khoa học và nghệ thuật cao, nhưng đồng thời nó là sản phẩm có tính lịch sử,
tính đặc thù của xã hội. Khi đề cập đến cơ sở khoa học của quản lý, Các Mác
viết: “Bất cứ lao động nào có tính xã hội, cộng đồng được thực hiện ở quy mô
nhất định đều cần ở chừng mực nhất định sự quản lý, giống như người chơi
vĩ cầm một mình thì tự điều khiển còn một dàn nhạc thì phải có nhạc
trưởng”[tr28].
Có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về nội dung thuật ngữ
“Quản lý”, có thể nêu một số định nghĩa sau:
Theo Đại bách khoa toàn thư Liên Xô xuất bản năm 1997, quản lý là chức
năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau(xã hội,
sinh vật, kĩ thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ
hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động.
22
Theo lý luận Chủ nghĩa Mác - Lenin về quản lý “Quản lý xã hội một cách
khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay
những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận
dụng đúng đắn những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo cho
nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra”[tr28].
Kotter(1990) cho rằng “Quản lý là một hệ thống các quá trình có thể góp
phần duy trì một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều nguồn nhân lực và kĩ
thuật trong sự vận hành hiệu quả. Các khía cạnh quan trọng nhất của quá
trình quản lý bao gồm lập kế hoạch, chi tiêu ngân sách, tổ chức, tuyển dụng,
kiểm soát và giải quyết vấn đề”.
Theo frederics William Taylor - Mỹ (1856-1915) cho rằng “Quản lý là nghệ
thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và cái đó như thế nào bằng
phương pháp tốt nhất, rẻ nhất”.
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mĩ Lộc cho rằng: Quản lý là sự tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí(người quản lý) đến

khách thể quản lý(người bị quản lý) trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức. Các tác giả còn phân định rõ về hoạt
động quản lý: Là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng
các hoạt động(chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo(lãnh đạo) và kiểm
tra.
Có quan điểm cho rằng: Quản lý = quản+lý, trong đó quản là coi sóc, cai
quản, chăm lo, còn lý là sử lý, biện lý. Quản mà không có lý thì sẽ dẫn đến trì
trệ, lý mà không có quản sẽ dẫn đến sự rối ren. Như vậy trong quản có lý,
trong lý có quản nhằm tạo cho sự việc, hệ thống tổ chức nào đó luôn ở trong
tình trạng: ổn định, thích ứng, tăng trưởng, phát triển.
23
Từ các quan niệm về quả lý trên, có thể hiểu: Quản lý là quá trình thực
hiện các công việc xây dựng kế hoạch hành động (bao gồm cả xác định mục
tiêu cụ thể, chế định kế hoạch, quy định tiêu chuẩn đánh giá và thể chế hóa),
sắp xếp tổ chức(bố trí tổ chức, phối hợp nhân sự, phân công công việc, điều
phối nguồn lực tài chính và kĩ thuật ), chỉ đạo, điều hành, kiểm soát và đánh
giasd kết quả, sửa chữa sai sót (nếu có) để đảm bảo hoàn thành mục tiêu của
tổ chức đã đề ra.
1.2.3.2 Quản lý công tác XHHGD
Đó là hệ thống những tác động có hướng đích của chủ thể quản lý các cấp
đến các đối tượng quản lý nhằm làm cho công tác XHHGD đạt được các mục
tiêu dự kiến.
Điều 12 Luật giáo dục(2005), ghi rõ: “Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều
có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và
môi trường giáo dục lành mạnh….Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát
triển sự nghiệp giáo dục, thực hiện đa dạng hóa các loại hình nhà trường và
các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức,
cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”[7,tr10]
Việc quản lý XHHGD bao gồm ba vấn đề: Hình thành thể chế XHHGD(văn
bản, chế định pháp luật); tổ chức, chỉ đạo thực hiện XHHGD; giám sát, đôn

đốc, kiểm tra việc triển khai và thực hiện XHHGD. Thực hiện tốt ba vấn đề
này giúp quản lý công tác XHHGD có hiệu quả và thuyết phục mọi tầng lớp
nhân dân tham gia vào công tác XHHGD.
1.2.3.3 Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
- Quản lý giáo dục
24
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của lao động xã hội. Đây là một
hoạt động chuyên môn nhằm thực hiện quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử xã hội qua các thế hệ, đồng thời là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Quản lý giáo dục có thể hiểu là: Sự tác động có tổ chức, có
định hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ
thống giáo dục đạt tới mục tiêu đã định.
- Quản lý nhà trường
Trường học nằm trong hệ thống giáo dục và hệ thống xã hội, đặc điểm
thể chế là có sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa đặc điểm nhà nước và đặc đi
ểm xã hội. Bản chất của công tác quản lý trường học là quá trình chỉ huy,
điều khiển vận động của các thành tố, đặc biệt là mối quan hệ giữa các
thành tố. Như vậy, công tác quản lý trường học bao gồm sự quản lý các cơ
quan hệ nội bộ (bên trong) của nhà trường và quan hệ giữa trường học với
(bên ngoài) xã hội.
Tóm lại: Quản lý trường học về bản chất là quản lý con người, do đó công
tác quản lý con người (của người cán bộ quản lý) đối với người cán bộ, giáo
viên và học sinh là khâu trung tâm của quản lý trường học, là động lực thúc
đẩy sự phát triển của nhà trường.
1.2.4. Giải pháp và giải pháp quản lý công tác XHHGD
1.2.4.1 Giải pháp
Theo từ điển Tiếng việt: “Giải pháp là phương pháp giải quyết một vấn đề cụ
thể”[38,tr376]
Theo Nguyễn Văn Đạm, “Giải pháp là toàn bộ những ý nghĩ có hệ thống

cùng những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới sự khắc phục một khó
khăn”[12,tr 325].
1.2.4.2 Giải pháp quản lý công tác XHHGD
25

×