Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Một số giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông huyện nghĩa đàn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.21 KB, 131 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHAN VĂN SƠN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HUYỆN NGHĨA ĐÀN TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHAN VĂN SƠN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG HUYỆN NGHĨA ĐÀN TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 01 14
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Như An
NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã được sự giúp đỡ tận tình
của nhiều tổ chức và cá nhân, tác giả xin chân thành cám ơn:
- Tiến sĩ Nguyễn Như An đã hướng dẫn, góp ý hết sức cụ thể, chi tiết để giúp
hoàn thành luận văn này.
- Các thầy, cô giáo phòng đào tạo sau đại học, chuyên ngành quản lý giáo
dục, thư viện trường ĐH Vinh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành chương trình đào tạo và hoàn thành luận văn này.
- BGH, CBGV và HS trường THPT 1-5, trường THPT Cờ Đỏ đóng trên địa
bàn huyện Nghĩa Đàn đã hết sức giúp đỡ và cộng tác.


- Lãnh đạo Huyện Ủy, UBND huyện Nghĩa Đàn, Phòng GD&ĐT Nghĩa Đàn,
lãnh đạo các cơ quan, xí nghiệp trong địa bàn huyện đã tạo điệu kiện giúp
đỡ và cung cấp thông tin quan trọng.
- Các bạn sinh viên, các nhà doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể, hội cha mẹ
học sinh đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
- Đề tài hoàn thành chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các độc giả.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh 2014
Tác giả.
Phan Văn Sơn
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 7
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu. 7
1.2. Một số khái niệm cơ bản. 10
1.3. Nội dung QL công tác GDHN ở trường THPT 25
1.4. Các yếu tố QL ảnh hưởng đến chất lượng công tác GDHN ở
trường THPT
30
Kết luận chương 1. 32
Chương 2: THỰC TRẠNG QL HĐGDHN Ở CÁC TRƯỜNG THPT
HUYỆN NGHĨA ĐÀN, NGHỆ AN
33
2.1. Một số nét về tình hình phát triển kinh tế- xã hội và giáo dục của
huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
33

2.2 .Thực trạng chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
46
2.3. Thực trạng quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường
trung học phổ thông huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
54
2.4. Đánh giá chung về thực trạng quản lý HĐGDHN ở các trường
THPT huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
65
Kết luận chương 2 66
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP QL HĐGDHN Ở CÁC TRƯỜNG
THPT HUYỆN NGHĨA ĐÀN TỈNH NGHỆ AN
68
3.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp 68
3.2. Các giải pháp QL HĐGDHN tại các trường THPT huyện Nghĩa
Đàn, Nghệ An
70
3.3. Mối quan hệ giữa các giải pháp QL HĐGDHN. 98
3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp 99
Kết luận chương 3 102
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 104
4
Tài liệu tham khảo 108
BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BGH Ban giám hiệu
ĐH,CĐ Đại học, Cao đẳng
CM Chuyên môn
CMHS Cha mẹ học sinh
CNH-HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CSVC Cơ sở vật chất

DN Dạy nghề
ĐH Đại học
ĐTN Đoàn thanh niên
GDHN Giáo dục hướng nghiệp
HĐGDHN Hoạt động Giáo dục hướng nghiệp
CTHN Công tác hướng nghiệp
GV Giáo viên
HN Hướng nghiệp
HĐ Hoạt động
HĐNK Hoạt động ngoại khoá
HS Học sinh
KH Kế hoạch
PT Phổ thông
QL Quản lý
QLGD Quản lý giáo dục
SHHN Sinh hoạt hướng nghiệp
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
THCS Trung học cơ sở.
THPT Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
5
Bảng biểu, hình vẽ, sơ đồ
Trang
Sơ đồ 1.1. Quá trình tổ chức HĐGDHN
16
Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa các nội dung HĐGDHN
23
Bảng 2.1. Mạng lưới trường, lớp, HS và chất lượng HS THPT 1-5
43
Bảng 2.2. Mạng lưới trường, lớp, HS và chất lượng HS THPT Cờ

Đỏ
43
Bảng 2.3. Tỷ lệ HS tốt nghiệp THPT và đậu ĐH,CĐ từ 2009-2010
44
Bảng 2.4. Kết quả đánh giá chất lượng công tác hỗ trợ định hướng
nghề nghiệp và tư vấn nghề cấp THPT huyện Nghĩa Đàn năm 2014
46
Bảng 2.5. Về việc chọn nghề và tư vấn chọn nghề
47
Bảng 2.6. Đánh giá hiệu quả công tác tư vấn chọn nghề cho HS
49
Bảng 2.7: Kết quả thi ĐH, khối thi và phân ban
50
Bảng 2.8. Dự định về phân luồng và chọn trường của HS THPT
52
Bảng 2.9. Sự đánh giá của GV và HS về sự hiểu biết của HS đối với
ngành, nghề mà các em định chọn hoặc thi vào.
55
Bảng 2.10. Đánh giá về QL các hình thức GDHN trong nhà trường
60
Bảng 2.11. Đánh giá về việc QL CSVC phục vụ công tác GDHN
61
Bảng 2.12. Đánh giá về sự phối hợp các lực lượng xã hội trong
GDHN
63
Sơ đồ 3.1. Cách tìm miền nghề phù hợp
73
Sơ đồ 3.2. Các bước thực hiện chức năng kế hoạch HĐGDHN
77
Sơ đồ 3.3. nội dung cơ bản của chức năng chỉ đạo

84
Sơ đồ 3.4. các bước thực hiện kiểm tra đánh giá HĐGDHN
86
Sơ đồ 3.5. Phân loại các ngành nghề theo các loại hình
88
Sơ đồ 3.6: QL việc tăng cường CSVC phục vụ cho HĐGDHN
97
Sơ đồ 3.7: Mối quan hệ giữa các giải pháp QL HĐGDHN
99
Bảng 3.8: Kết quả khảo sát về tính cần thiết và tính khả thi của các
giải pháp
100
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hàng năm cả nước ta có hơn một triệu học sinh tốt nghiệp THPT, họ là
nguồn lực lao động to lớn cho đất nước. Thế nhưng để trở thành một “lao động”
đúng nghĩa trong xã hội đang phát triển như hiện nay các em phải đứng trước
một sự lựa chọn mang tính quyết định tương lai cuộc đời và hết sức khó khăn
mà tự bản thân các em không thể tự giải quyết nổi, hầu hết các em đặc biệt là
học sinh vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa không xác định được năng lực bản
thân, giá trị, tính chất của các loại nghề nghiệp, nhu cầu lao động của xã hội, dẫn
đến đã đưa ra những quyết định rất thiếu cơ sở và kết quả là các em phải trả giá,
những tiêu cực từ những sai lầm trong lựa chọn trường, lựa chọn nghề không
những làm lãng phí đi một nguồn lao động rất lớn cho đất nước mà còn tạo ra
những hệ lụy xấu cho xã hội. Làm thế nào để giúp các em chọn đúng con đường
cho mình là một việc rất lớn, đòi hỏi phải có sự chung sức của mọi người, mọi
tổ chức trong xã hội từ nhà trường đến gia đình và toàn xã hội. Một hoạt động
7
trong nhà trường, một nội dung giáo dục của các nhà trường đã được ngành

Giáo dục quan tâm đó chính là hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
Điều 27 chương III Luật giáo dục 2005 khẳng định về mục tiêu của giáo
dục THPT “Giáo dục THPT nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông
thường về kỹ thuật và HN, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn
hướng phát triển, tiếp tục học ĐH, CĐ, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động”
Hiện nay Giáo dục hướng nghiệp là một trong những hoạt động giáo dục
của Chương trình giáo dục phổ thông được ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QĐ-BGD&ĐT, ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
nhằm " Giúp học sinh có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn
nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu
sử dụng lao động của xã hội". Theo đó hiện nay hoạt động giáo dục hướng
nghiệp đã được triển khai trong các trường THPT trên cả nước, theo hướng dẫn
tại công văn số 7475/BGDĐT-GDTrH quy định thời lượng bố trí cho hoạt động
giáo dục hướng nghiệp là 9tiết/năm cho các khối từ lớp10,11 và 12, nội dung
của hoạt động giáo dục hướng nghiệp có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu ngành
nghề phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, sự thay đổi của hệ thống, xu
hướng giáo dục, tình hình phát triển của thị trường tuyển dụng lao động do đó
đòi hỏi công tác quản lý, triển khai hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại các
trường THPT cần thường xuyên đổi mới, cập nhật thông tin, nội dung, phương
pháp. Song việc thực hiện công tác này trong thời gian qua còn nhiều khó khăn
lúng túng bởi nhiều nguyên nhân, có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu
như thiếu tài liệu tham khảo, chưa có giáo viên được đào tạo chuyên trách… và
kể cả là sự thiếu quan tâm và chưa có các giải pháp tích cực của các nhà quản lý,
nhà giáo dục. Trong hoàn cảnh đó việc đưa ra các giải pháp đồng bộ, có tính khả
8
thi nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hoạt động giáo dục hướng nghiệp nói
chung và hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại các trường THPT là rất cần thiết.
Qua thực tế cho thấy hệ thống đào tạo của Việt Nam cũng như một số nước

trên thế giới có hai hướng đó là đào tạo “thầy” (Đào tạo hàn lâm) và đào tạo
“thợ” (Đào tạo nghề) nhưng hiện nay một hiện tượng đang diễn ra rất phổ biến
trên cả nước đó là “Thừa thầy, thiếu thợ”, hiện tượng này dẫn đến một thực
trạng là hiện nay một bộ phận rất lớn Sinh viên khi ra trường không tìm được
việc làm hoặc phải chấp nhận làm những việc trái với ngành nghề đào tạo,
không phù hợp với khả năng của bản thân trong khi đó ở một số nghề lại rất
thiếu những lao động có tay nghề thực sự.
Theo thông kê của Báo Lao Động thì hiện nay đang tồn tại một nghịch lý là
số lượng học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông được tiếp tục đào tạo qua các
trường Cao đẳng, Đại học, THCN tăng mạnh, nhiều em có bằng tốt nghiệp loại
khá và giỏi nhưng đồng thời tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng nhanh. Vậy nguyên
nhân vì đâu?.
Những tồn tại trên có thể kể đến nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ một trong
những nguyên nhân chủ yếu là hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong xã hội
nói chung và trong các trường THPT nói riêng chưa phát huy được hiệu quả,
chưa mang lại cho các em đầy đủ các thông tin dự báo về cơ cấu ngành nghề, dự
báo về nhu cầu lao động trong và ngoài nước, các em chưa có phương pháp, kỷ
năng cần thiết để xác định bản thân hay khả năng chọn được cho mình ngành
nghề vừa phù hợp với năng lực, vừa đáp ứng được nhu cầu lao động trong xã
hội.
Từ tháng 6 năm 2012, tổ chức Hợp tác phát triển và hỗ trợ kỷ thuật vùng
Plamăng, Bỉ (VVOB) cùng với Sở GD&ĐT Nghệ An, Sở GD&ĐT Quảng Nam
cũng đã tổ chức nghiên cứu tài liệu dùng cho giáo viên trong hoạt động giáo dục
hướng nghiệp hện hành (do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành). Qua nghiên cứu
cũng đã chỉ ra được sự cần thiết phải cập nhật thông tin liên quan đến tình hình
9
kinh tế-Xã hội, hệ thống và xu hướng giáo dục và đào tao, xu hướng biến đổi
của thị trường lao động trong và ngoài nước… Qua đó đã phát hành cuốn “Tài
liệu bổ sung Sách Giáo viên hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 10,11 và 12”
và tổ chức một số đợt tập huấn kỷ năng, nghiệp vụ cho cán bộ giáo viên phụ

trách công tác dạy nghề, công tác giáo dục hướng nghiệp trên địa bàn hai tỉnh
này. Tuy nhiên qua tìm hiểu, khảo sát hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại các
trường THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, mặc dù kết quả cho thấy công tác
hoạt động giáo dục hướng nghiệp đã được các nhà trường triển khai hàng năm,
hiện các trường đã thành lập ban hoạt động giáo dục hướng nghiệp do một cán
bộ quản lý làm trưởng ban, mỗi nhà trường cũng đã cử một số đồng chí cán bộ
giáo viên có năng lực phụ trách công tác tuyển sinh nhằm làm nhiệm vụ liên
quan đến tuyển sinh trong nhà trường đồng thời hỗ trợ công tác hướng nghiệp
cung cấp thông tin tuyển sinh đến với học sinh, ban hoạt động Giáo dục hướng
nghiệp và các tổ chức trong nhà trường đã khá tích cực bám sát nội dung chương
trình của Bộ GD&ĐT, tổ chức một số các hoạt động mang tính hướng nghiệp
song kết quả vẫn còn hết sức hạn chế, chưa đáp ứng được mục đích yêu cầu.
Qua tìm hiểu vẫn còn đến trên 70% học sinh cuối cấp lựa chọn ngành nghề cho
mình một cách rất tự phát, họ chưa được tiếp cận hoặc tiếp cận không đầy đủ và
các kỷ năng tự khám phá bản thân, hiểu biết không đầy đủ về thế giới nghề
nghiệp, thiếu khả năng xây dựng kế hoạch nghề nghiệp cho riêng mình và đặc
biệt là họ rất thiếu các thông tin, cùng với đó là nhận thức về công tác hướng
nghiệp trong các nhà trường chưa cao, năng lực các nhà quản lý, nhà tổ chức
hoạt động giáo dục hướng nghiệp còn hạn chế, các hình thức hoạt động chưa
thực sự đa dạng, chưa thu hút được các em tham gia, các tổ chức, đơn vị, các
trường chuyên nghiệp, các doanh nghiệp ngoài nhà trường chưa có sự phối
hợp nhiều với nhau để mang lại hiệu quả cho hoạt động, cơ sở vật chất, thiết bị
phương tiện phục vụ hoạt động hướng nghiẹp còn hạn chế, công tác kiểm tra
đánh giá chưa đầy đủ, chưa kịp thời.
10
Nhiều học sinh khi chọn ngành nghề cho mình chỉ khai thác thông tin duy
nhất qua cuốn những điều cần biết về tuyển sinh các trường ĐH,CĐ, lý do mà
họ chọn ngành nghề cho mình cũng rất đơn giản có thể chỉ vì “nghe bảo ngành
này, nghề này hót, có thu nhập cao” hay “ Em thi vào ngành này vì năm trước
điểm chuẩn vào ngành này thấp, dễ đậu” hay em chọn nghề này vì “nhàn”…

Thậm chí là “học vì theo bạn bè”.
Từ những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số giải pháp quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT huyện Nghĩa Đàn tỉnh
Nghệ An”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp nâng
câo chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh tại các trường
THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Vấn đề quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại các trường THPT trên
địa bàn huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng
nghiệp tại các trường THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp đảm bảo tính khoa học, phù hợp với lý luận
và thực tiễn, có tính khả thi thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hướng
nghiệp, góp phần giải quyết các bất cập trong công tác chọn ngành, chọn nghề
của học sinh tại các trường THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về QL hoạt động hướng nghiệp cho học sinh ở
11
các trường THPT.
- Đánh giá thực trạng về hoạt động hướng nghiệp, quản lý hoạt động hướng
nghiệp tại các trường THPT huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
- Đề xuất và khảo sát các giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hướng nghiệp cho học sinh các
trường THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An.

5.2. Phạm vi nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu về hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại các trường THPT
trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn (Gồm 2 trường THPT 1-5 và THPT Cờ Đỏ) từ
năm học 2008-2009 đến nay.
Khách thể điều tra:
- Học sinh đã và đang học tại hai trường THPT 1-5 và THPT Cờ Đỏ
- Các thầy giáo, cô giáo, các cán bộ phụ trách công tác hướng nghiệ, công
tác tuyển sinh. Các cán bộ quản lý phụ trách công tác hướng nghiệp, công tác
tuyển sinh tại các trường THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
- Các phụ huynh học sinh có con, em đã và đang học tập tại trường THPT
trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn và một số đối tượng khác.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các nhóm phương pháp:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phương pháp phân tích và
tổng hợp lý thuyết, phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát,
phương pháp điều tra, phương pháp chuyên gia, phương pháp tổng kết kinh
nghiệm.
6.3. Phương pháp hỗ trợ: sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu.
7. Những đóng góp của luận văn
Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo
dục hướng nghiệp trong trường THPT, từ đó đề xuất được các giải pháp quản lý
12
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này ở các trường THPT huyện Nghĩa Đàn,
Nghệ An.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kiến nghị, đề tài nghiên cứu có nội dung
chính gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
trường THPT

Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường THPT huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An
Chương 3: Các giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường THPT huyện Nghĩa Đàn tỉnh Nghệ An
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Hoạt động hướng nghiệp trên thế giới đã có một lịch sử ra đời và phát
triển trên 100 năm. Hệ thống HN học đường và nghề nghiệp đã có những mức
phát triển rất cao ở các nước Châu Âu và Châu Mỹ
Vào năm 1848 Pháp xuất bản cuốn sách "Hướng dẫn chọn nghề", với nội
dung bàn đến vấn đề phát triển đa dạng của nghề nghiệp do sự phát triển công
nghiệp và việc nhất thiết phải giúp đỡ thanh niên trong sự lựa chọn nghề nghiệp
nhằm sử dụng có hiệu quả năng lực lao động của thế hệ trẻ. Các nhà tâm lý học
ở Pháp là những người sáng lập ra trào lưu định hướng và Viện Quốc gia Định
hướng nghề (INOP) thành lập năm 1928 do ba nhà khoa học thay nhau lãnh đạo:
J.Fontegne, H. Labbé và H. Périon. Năm 1939 viện này đổi tên là Viện Quốc gia
nghiên cứu về Lao động và HN (INETOP). Các bài dạy của Viện do các giáo sư
13
tầm cỡ trong ngành đảm nhiệm, trong đó GS.JM. Lahy giảng dạy về hướng
nghiệp, chọn nghề, GS. H. Luc giảng dạy về triết lý hoạt động hướng nghiệp.
Hoạt động hướng nghiệp được thể chế hoá bằng sắc lệnh năm 1938 liên quan tới
HS rời ghế nhà trường lúc 14 tuổi.
Tại Bruxelles-Bỉ, năm 1939 O. Decroly là người sáng lập ra Trung tâm
hướng nghiệp.
Ở Thuỵ Sỹ, Claparede đã phát triển công tác hướng nghiệp và chủ trì hội
nghị quốc tế đầu tiên về hướng nghiệp tại Genevé năm 1920. Năm 1922, GS.
Claparede đăng bài nghiên cứu nhan đề "Hướng nghiệp - vấn đề và các phương
pháp" theo đơn đặt hàng của Tổ chức Lao động Quốc tế.

Năm 1918-1919 V.I. Lenin đã yêu cầu cần cho HS phổ thông làm quen
với khoa học kỹ thuật, với các cơ sở sản xuất hiện đại. Luận điểm của V.I. Lenin
đã được N.K. Crupxkaia làm sáng tỏ và cụ thể hóa vào thực tiễn trong bài viết
“Tự do chọn nghề” (năm 1929). Theo bà, thông qua HĐHN, mỗi HS đều phải
nhận thức sâu sắc hướng phát triển kinh tế của đất nước, những nhu cầu của nền
sản xuất cần được thoả mãn, những nhiệm vụ của thanh, thiếu niên phải đáp ứng
được yêu cầu mà xã hội đề ra trước các em trong lĩnh vực lao động sản xuất.
Mặt khác HĐHN lại phải giúp cho các em phát triển được hứng thú và năng lực
nghề nghiệp, giáo dục cho các em thái độ lao động đúng đắn, động cơ chọn nghề
trong sáng. Từ đó, thanh thiếu niên có thái độ tự giác trong việc chọn nghề.
1.1.2. Ở Việt Nam
Căn cứ các nguồn tư liệu được biết từ năm 1977 đến năm 1980. Dựa trên
kết quả thực nghiệm đưa công tác HN vào trường phổ thông của bộ phận Tâm lí
học lao động, HĐHN thuộc Viện KHGD (lúc đó là các tác giả Phạm Minh Hạc,
Phạm Tất Dong tiến hành tại huyện Thanh Oai tỉnh Hà Sơn Bình, trường PTCS
Bắc Lí, Hà Nam Ninh (cũ) và một số trường PT ở Hà Nội), Bộ giáo dục đã cho
sửa chữa, bổ sung và ban hành chương trình sinh hoạt hướng nghiệp tạm thời
cùng với tài liệu sinh hoạt hướng nghiệp của lớp cuối cấp THCS và THPT để
14
các trường thực hiện, rút kinh nghiệm.
Năm học 1980-1981, đồng chí trưởng ban khoa giáo trung ương Bùi
Thanh Khiết và Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình đến thăm các cơ sở thực
nghiệm, thấy có kết quả tốt đã cho phép nhóm thực nghiệm lập đề án trình Uỷ
ban cải cách giáo dục Trung ương để mở rộng, đưa công tác HĐHN vào các
trường phổ thông.
Dựa trên các công trình đã nghiên cứu, các tác giả Phạm Tất Dong, Phạm
Huy Thụ, Nguyễn Trọng Bảo, Nguyễn Thế Quảng, Đoàn Chi đã góp phần tích
cực xây dựng đề án "HN và sử dụng hợp lý HS ra trường".
Ngày 19 tháng 3 năm 1981, Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định số
126/CP: "Về công tác HN trong trường PT và việc sử dụng hợp lý HS phổ thông

cơ sở và phổ thông trung học tốt nghiệp ra trường".
Năm 1984 khi sơ kết 3 năm thực hiện quyết định số 126/CP của Hội đồng
Chính phủ, Bộ Giáo dục đã nêu vấn đề: Tiếp theo HN phải DN cho HS phổ
thông để nếu không tiếp tục học lên, HS ra đời dễ tạo công ăn việc làm, sẵn sàng
tham gia lao động sản xuất ở địa phương. Chủ trương này đã được đưa ra toàn
ngành thảo luận và được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội 6 Đảng Cộng sản
Việt Nam (1986): Trường phổ thông phải chuyển mạnh theo hướng dạy kiến
thức phổ thông cơ bản, lao động, kỹ thuật tổng hợp, HN và DN.
Từ năm 1987-1990 do sáp nhập Bộ, phải thu gọn đầu mối. Ban GDHN
sáp nhập vào Vụ Giáo dục phổ thông, không còn đủ sức mạnh để triển khai các
HĐ HN, hậu quả là phong trào HĐHN ở các địa phương sa sút nghiêm trọng,
công tác tư vấn nghề tạm thời bị dừng lại.
Tháng 3 năm 1991, trước yêu cầu của thực tiễn, Bộ trưởng GD&ĐT Trần
Hồng Quân cho khôi phục đầu mối tổ chức chỉ đạo hoạt động lao động – Hướng
nghiệp của toàn ngành, đã thành lập Trung tâm Lao động – Hướng nghiệp trực
thuộc Bộ GD&ĐT. Nhờ quyết định đúng đắn của Bộ trưởng, chỉ 1 năm sau,
Trung tâm Lao động – Hướng nghiệp đã khôi phục được công tác HĐHN cho
15
HS phổ thông. Gần đây nhất, trong chương trình Khoa học - Công nghệ cấp Nhà
nước KX - 05, đề tài KX - 05 - 09, các tác giả Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền,
Bùi Văn Quân đã công bố các công trình: "Một số vấn đề về HN cho HSPT" và
"Một số kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và HN trên thế giới". Theo đó,
nhiều giải pháp và kinh nghiệm giáo dục phổ thông và HĐHN trên thế giới đã
được tổng hợp, phân tích nhằm góp phần hiện thực hoá mục tiêu HĐHN cho HS
THCS và THPT ở Việt Nam.
Năm 2001 nghị quyết số 40 của Quốc hội khoá X, chiến lược phát triển
giáo dục 2001-2010, các văn kiện đại hội Đảng lại một lần nữa nhấn mạnh đến
việc GDHN cho HS THPT nhưng vẫn chưa được các cấp lãnh đạo quan tâm
đúng mức vì họ chưa thấy rõ được tầm quan trọng của GDHN. Vì thế GDHN ở
nước ta còn nhiều hạn chế. Cho nên công văn số 8410/ BGD&ĐT-VP về việc

hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục lao động - HN năm học 2007-2008 lại
một lần nữa nhắc nhở các Sở GD&ĐT: “Nghiêm túc triển khai thực hiện đủ HĐ
GDHN ở các trường THCS, THPT ” và “Đẩy mạnh công tác tư vấn hướng
nghiệp để góp phần phân luồng và chuẩn bị cho HS lớp 9 lựa chọn các ban học
ở trường THPT hợp lý và giúp HS lớp 12 lựa chọn học lên hoặc đi vào cuộc
sống lao động”.
Những vấn đề GDHN ở trường THPT đã được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm (Phạm Tất Dong [32], Trần Khánh Đức [35], Hà Thế Truyền [15,16], Đặng
Danh Ánh [11,12], Nguyễn Bá Minh [27], Nguyễn Đức Trí [23,24], Nguyễn
Văn Lê - Hà Thế Truyền- Bùi Văn Quân [28]) và đề cập tới ở nhiều góc độ khác
nhau trong thời gian qua.
Như vậy, vấn đề HĐGDHN và QL công tác HĐGDHN đã được các tác
giả trong và ngoài nước quan tâm, tuy nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu các
giải pháp QL nhằm nâng cao chất lượng HĐGDHN ở các trường THPT trên địa
bàn huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
16
1.2.1. Quản lý
Tuỳ theo cách tiếp cận mà ta có thể hiểu QL theo nhiều cách khác nhau:
- "QL là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định." [18, 772]
- Paul Hersey và Ken Blanc Hard “QL là quá trình cùng làm việc thông
qua các cá nhân, các nhóm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các mục
đích tổ chức”. [30,12]
- Tác giả Đặng Quốc Bảo quan niệm: “QL là quá trình tác động gây ảnh
hưởng của chủ thể QL đến khách thể QL nhằm đạt được mục tiêu chung”.[13,
17]
- Tác giả Trần Quốc Thành xác định: “QL là sự tác động có ý thức của
chủ thể QL để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và
HĐ của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà QL phù hợp
với qui luật của khách quan”. [37, 40]

Nhìn chung ta có thể hiểu: QL là sự tác động hợp qui luật của chủ thể QL
đến khách thể QL để điều khiển, hướng dẫn các hành vi, HĐ của họ nhằm đạt
được mục tiêu của tổ chức.
Chức năng của QL: là dạng HĐ QL thông qua đó chủ thể QL tác động
vào khách thể QL nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, nó gồm 4 chức năng:
kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá.
- Kế hoạch: Là HĐ dựa trên các thông tin về thực trạng của tổ chức như
nhân lực, tài lực, vật lực, các chỉ thị từ cấp trên và các điều kiện khác để đề ra
mục tiêu, dự kiến các nguồn lực, phân bổ thời gian, huy động phương tiện, đề
xuất giải pháp để đạt mục tiêu.
- Tổ chức: Là việc thiết lập cấu trúc bộ máy, bố trí nhân lực và xây dựng
cơ chế HĐ; đồng thời ấn định chức năng nhiệm vụ cho các bộ phận và cá nhân,
huy động, sắp xếp và phân bổ nguồn lực nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra.
- Chỉ đạo: Là việc hướng dẫn công việc, liên kết, liên hệ, động viên, kích
thích, giám sát các bộ phận, cá nhân trong tiến trình thực hiện kế hoạch theo
17
đúng dụng ý trong bước tổ chức.
- Kiểm tra: Là theo dõi, giám sát, đánh giá các HĐ bằng nhiều cách thức
(trực tiếp hoặc gián tiếp, thường xuyên hoặc định kỳ ) nhằm so sánh kết quả
với mục tiêu để nhận biết về chất lượng và hiệu quả của các HĐ, tìm ra những
sai lệch để kịp thời đưa ra những quyết định điều chỉnh.
Các chức năng nêu trên luôn được chủ thể QL liên tiếp thực hiện, đan xen
vào nhau, phối hợp với nhau và bổ sung cho nhau tạo thành một quá trình QL.
Để thực hiện các chức năng QL thì người QL phải có thông tin. Vì thế trong quá
trình QL thì thông tin đóng một vai trò rất quan trọng, nó tạo sự liên kết giữa
chủ thể QL và khách thể QL. Thông tin là bước khởi đầu vì thiếu thông tin
không thể xây dựng kế hoạch, nó có thể được coi là một chức năng đặc biệt
trong quá trình QL cùng với bốn chức năng QL đã nêu và nó luôn luôn chiếm vị
trí trung tâm. Không có thông tin không thể tiến hành QL và điều khiển bất cứ
hệ thống nào.

1.2.2. Quản lý giáo dục
QLGD là một loại hình QL xã hội. Đã có một số định nghĩa tiêu biểu về
QLGD như sau:
- Theo tác giả Đặng Quốc Bảo “QLGD theo nghĩa tổng quan là điều
hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục
thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi
người. Cho nên, QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân”
[13, 31].
Còn theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “QLGD là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL (hệ giáo dục)
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội
tụ là quá trình dạy học- giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự
18
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất". [25,7]
Do đó QLGD là thực hiện các chức năng của quá trình QL trong công tác
GD, công tác QLGD còn được hiểu theo khía cạnh nội dung QL, là QL các yếu
tố cấu thành quá trình giáo dục, bao gồm QL các yếu tố: mục tiêu giáo dục, nội
dung giáo dục, phương pháp giáo dục, tổ chức giáo dục, người dạy, người học,
trường sở, môi trường giáo dục và các lực lượng giáo dục
Mục tiêu QLGD là chất lượng giáo dục của người học với các mặt: chính
trị tư tưởng, đạo đức, văn hoá, khoa học kỹ thuật, phát triển trí tuệ, thể chất, hiểu
biết và thích ứng nghề nghiệp theo yêu cầu của xã hội.
Như vậy: QLGD là hệ thống những tác động có hướng đích, hợp qui luật
của chủ thể QL đến khách thể và đối tượng quản lý nhằm làm cho hệ giáo dục
được QL vận hành theo đúng đường lối quan điểm của Đảng, thực hiện các mục
tiêu giáo dục đã đề ra bằng các hình thức giáo dục phù hợp.
1.2.3. Hướng nghiệp
1.2.3.1. Khái niệm.

- Hướng nghiệp trong giáo dục là hệ thống các biện pháp tiến hành
trong và
ngoài nhà trường để giúp HS có kiến thức về nghề nghiệp và có khả
năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá
nhân vớ
nhu cầu sử dụng lao động của xã hội. [21.6]
- Hướng nghiệp cho HSPT là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở
tâm lí
học, sinh lí học, giáo dục học, xã hội học và nhiều khoa học khác để
giúp HS lựa chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời thỏa mãn tối đa
nguyện
vọng và sự thích hợp với năng lực, sở trường và các đặc điểm tâm lí của
cá nhân
để họ có thể phát triển tới đỉnh cao trong nghề nghiệp, cống hiến được
nhiều
cho xã hội cũng như tạo dựng được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân
Mục đích chủ yếu của CTHN trong GD là phát hiện, bồi dưỡng tiềm
năng sáng
tạo của cá nhân, giúp họ hiểu mình và hiểu yêu cầu của nghề, chuẩn
bị cho thanh niên sự sẵn sàng tâm lí đi vào những nghề mà các thành phần kinh
19
tế trong xã hội đang cần nhân lực, trên cơ sở đó đảm bảo sự phù hợp nghề cho
mỗi cá nhân.[2.10]
Như vậy, thực chất của HĐGDHN trong nhà trường PT không phải là sự
quyết định
nghề cho mỗi cá nhân mà là sự điều chỉnh động cơ, hứng thú nghề
nghiệp của thế hệ trẻ nhằm giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa
cá nhân với nghề, GD sự lựa chọn nghề một cách có ý thức nhằm đảm bảo cho
con người hạnh phúc trong lao động và đạt năng suất lao động cao. Vì vậy, có thể
nói: HN là định hướng phát triển con người trong nghề nghiệp để họ có khả năng

phát triển bản thân một cách tốt nhất, đóng góp toàn diện nhất cho gia đình và xã
hội.
1.2.3.2. Vai trò của hướng nghiệp
HN cho HSPT là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình phát triển
nguồn nhân lực. Trên bình diện cá nhân HN giúp HS chọn nghề phù hợp với
nhu cầu của xã hội, đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với năng
lực, sở trường và điều kiện tâm lý, sinh lý cá nhân để họ có thể phát triển tới
đỉnh cao trong nghề nghiệp, cống hiến thật nhiều cho xã hội cũng như tạo lập
được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân. Trên bình diện xã hội, HN nhằm góp phần
phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn nhân lực, vốn quí của đất
nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội, mang lại phồn vinh cho đất
nước.
Như vậy HN là quá trình nhận thức về bản thân, nhận thức về thế giới nhành
nghề, về nhu cầu lao động, định hướng phát triển kinh tế - xã hội để có định
hướng nghề nghiệp đúng đắn hơn, hiệu quả hơn. HN vừa là HĐ dạy của thầy
vừa là HĐ học của trò, có nghĩa là trong công tác HN, GV là người tổ chức,
người hướng dẫn còn HS là người chủ động tham gia vào HĐ để tiếp cận với hệ
thống nghề nghiệp. Kết quả cuối cùng của quá trình HN là sự có đầy đủ thông
tin và sự tự định hướng của HS trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
1.2.4. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp
20
1.2.4.1. Khái niệm
Theo tài liệu HN của Australia thì “GDHN liên quan đến sự phát triển
kiến thức, kỹ năng và thái độ thông qua một chương trình hoạch định sẵn và sẽ
giúp HS có quyết định về sự lựa chọn nghề trong trường học và sau khi tốt
nghiệp, giúp HS làm việc có hiệu quả hơn”.
HĐGDHN là hệ thống các giải pháp giáo dục của nhà trường, gia đình và
xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ về tâm lý, tri thức, kỹ năng để họ có thể sẵn
sàng đi vào ngành nghề, lao động sản xuất và cuộc sống. HĐGDHN góp phần
phát huy năng lực, sở trường của từng người, đồng thời góp phần điều chỉnh

nguyện vọng của cá nhân sao cho phù hợp với nhu cầu phân công lao động trong
xã hội. Có thể nói "HĐGDHN là quá trình hướng dẫn cho HS ngay khi còn ngồi
trên ghế nhà trường sớm có ý thức về một nghề mà sau này các em sẽ chọn”.
[33, 115]
HĐGDHN cho HS THPT là công việc của tập thể sư phạm nhà trường
nhằm giúp HS lựa chọn nghề một cách có ý thức trên cơ sở hiểu biết về sự phát
triển kinh tế-văn hoá-xã hội, về các HĐ, yêu cầu của nghề nghiệp, những đòi hỏi
về phẩm chất đạo đức, năng lực của người lao động đối với nghề nghiệp, những
điều kiện phát triển của nghề nghiệp. HĐGDHN cho HS THPT không những chỉ
tạo ra cơ hội cho việc tuyển chọn lao động mà còn góp phần vào việc phân công,
sử dụng hợp lý HS tốt nghiệp ra trường. Đặc biệt đối với các nước nghèo, nền
kinh tế còn thấp, mạng lưới ngành nghề chưa mở rộng, nhất là đối với các nước
còn thừa thầy, thiếu thợ như nước ta hiện nay. Từ đó ta thấy rằng thực chất
HĐGDHN trong trường PT là nhằm thực hiện nhiệm vụ hình thành nhân cách
nghề nghiệp cho HS, trên cơ sở điều chỉnh động cơ hứng thú nghề nghiệp, chuẩn
bị cho HS có ý thức chọn nghề đảm bảo năng suất và hiệu quả lao động cao
mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và xã hội. Từ đó tư vấn giúp HS chọn nghề
thích hợp.
1.2.4.2. Tính chất của hoạt động giáo dục hướng nghiệp
21
Qua nghiên cứu các tài liệu lý luận, chúng tôi nhận thấy HĐGDHN có
những tính chất cơ bản sau:
a, Tính đồng bộ:
Để làm tốt công tác HĐGDHN trong trường THPT đòi hỏi phải có sự kết
hợp của gia đình- nhà trường- xã hội. Ngoài ra HĐGDHN còn thể hiện tính hai
mặt của một vấn đề. Một mặt phản ánh qui luật của sự vận hành và phát triển
KT-XH nhất định. Mặt khác, phản ánh qui luật hoàn thiện con người và các qui
tắc hành vi của mỗi cá nhân có chú ý đến những đặc điểm nhân cách từng người
cụ thể.
b, Tính hệ thống.

HĐGDHN là một quá trình giáo dục liên tục từ những năm học ở trường
THCS, THPT đến quá trình học nghề, hành nghề của mỗi cá nhân trong tất cả
các giai đoạn sau này của cuộc đời
Ta thấy tâm lý của con người luôn luôn thay đổi (nhất là đối với lứa tuổi
HS), dưới sự giáo dục của nhà trường và sự rèn luyện của bản thân. Do vậy năng
lực, nguyện vọng của cá nhân cũng thay đổi theo nên tổ chức HĐGDHN cho HS
là quá trình liên tục, lâu dài: giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, giáo dục lao
động, thông tin định hướng nghề nghiệp là quá trình theo dõi, phát hiện, bồi
dưỡng tri thức, kỹ năng và thái độ cần thiết, quá trình rèn luyện và củng cố sức
khoẻ và các khả năng tâm sinh lý để định hướng nghề cho các em.
Việc tổ chức HĐGDHN cho HS không chỉ dừng lại ở trường THPT mà
nó còn được tiến hành trong các trường ĐH, trường CĐ, trường TCCN. Nhất là
trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế tri thức và công nghệ
thông tin truyền thông, giai đoạn mà “một nửa lực lượng lao động của thế giới
đã phát triển làm việc ở bên ngoài của tổ chức. Các tổ chức truyền thống nay
chỉ sử dụng 55% lực lượng lao động ở mức toàn thời gian. Số còn lại là lao
động thời vụ, bán thời gian, hoặc theo hợp đồng” [6,37] thì HĐGDHN còn phải
tiến hành trong cả quá trình làm việc, lao động để người lao động có khả năng
22
thích nghi và thay đổi việc làm với cơ chế lao động mới. Trên bình diện xã hội
quá trình HN được thể hiện qua sơ đồ 1.1

Sơ đồ 1.1: Quá trình tổ chức HĐGDHN
c, Tính lịch sử-xã hội: Về mặt xã hội HN có tác dụng điều chỉnh sự phân công
lao động xã hội, tạo ra cân bằng trong sự phân bố dân cư. HN kết hợp chặt chẽ
với lao động sản xuất và DN có tác dụng làm ổn định xã hội, góp phần giúp xã
hội sử dụng hết sản phẩm đào tạo của trường phổ thông.
d, Tính giáo dục:
HĐGDHN là bộ phận của giáo dục XHCN. Về phương diện này,
HĐGDHN giúp điều chỉnh động cơ chọn nghề của HS, điều chỉnh hứng thú

nghề nghiệp của các em theo xu thế phân công lao động xã hội. HN cụ thể hoá
mục tiêu đào tạo ở trường Phổ thông. Quá trình HN trong nhà trường không
dừng lại ở sự giáo dục ý thức lao động nghề nghiệp mà còn hướng HS đi vào
nghề cụ thể.
1.2.4.3. Nhiệm vụ của hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ
thông
Theo chỉ thị số 33/2003/CT-BGD&ĐT thì:
“Giáo dục hướng nghiệp
(GDHN) cho HSPT có nhiệm vụ giáo dục thái độ lao
động và ý thức đúng đắn
với nghề nghiệp; cho HS làm quen với một số nghề phổ biến trong xã hội và các
Thích ứng
nghề
Học nghề
Phù hợp
nghề
Hành nghề
Bồi dưỡng
Đào tạo lại
Định
hướng
nghề
23
nghề truyền thống của địa phương; tìm hiểu năng khiếu,
khuynh hướng nghề
nghiệp của từng HS để khuyến khích, hướng dẫn và bồi
dưỡng khả năng
nghề nghiệp thích hợp nhất; động viên HS đi vào những nghề,
những nơi đang
cần”[2 ]

Ngoài ra, nhiệm vụ của GDHN là phải làm cho HS có thể thích ứng với sự
dịch chuyển của cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động trong xã hội và địa
phương, nâng cao hiểu biết về an toàn lao động. Song song với nó còn rèn luyện
kỹ năng nghề nghiệp, thao tác kỹ thuật, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng tính toán
và khả năng vận dụng kỹ thuật vào thực tiễn cho HS.
1.2.4.4. Đặc điểm của hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ
thông
- Được hợp thành bởi nhiều hoạt động giáo dục hướng nghiệp khác nhau.
Mỗi
HĐ có mục tiêu, nội dung và cách thức thực hiện khác nhau. Kết quả
HĐGDHN là tổng hợp các kết quả thực hiện của từng HĐ và được thể hiện ở
năng lực
HN mà HS đạt được sau quá trình được HN. Do vậy, cán bộ QLHN
cần quản
lí và chỉ đạo thực hiện đầy đủ các HĐGDHN đã được quy định trong
các văn bản của Chính phủ và Bộ GD&ĐT;
- Được đưa vào kế hoạch dạy học ở cấp THCS và THPT, gồm HĐGDHN,
hoạt động giáo dục nghề phổ thông,
hoạt động tích hợp nội dung HN vào các
môn học và hoạt động tham quan,
ngoại khóa. Do vậy, HN không chỉ là trách
nhiệm của GV hướng dẫn HĐGDHN
và HĐGDNPT mà còn là trách nhiệm của
toàn bộ tập thể sư phạm trong nhà
trường;
- Không chỉ được tiến hành trong nhà trường PT mà còn được tiến hành ở
các
CSGD khác như TT KTTH-HN, TTGDTX-HN, TT dạy nghề;
- Không chỉ được tiến hành bởi các lực lượng CB, GV và HS trong nhà
trường mà còn được tiến hành và hỗ trợ bởi các tác nhân khác ngoài nhà

trường như
Sở GD&ĐT; Phòng GD&ĐT; Sở và Phòng Lao động - Thương binh
và Xã hội; Hội LHPN; cha mẹ HS; cộng đồng xã hội ;
24
- Kết quả đạt được của CTHN trong GD chịu sự chi phối của nhiều yếu tố
như
mục tiêu, nội dung, phương pháp HN, các nguồn lực cho HN, sự phối hợp,
hỗ trợ của các tác nhân tham gia HN trong và ngoài nhà trường Yếu tố đóng
vai trò quyết định và mang tính “đột phá” là yếu tố QLHN.
1.2.4.5. Các con đường hướng nghiệp
Để đạt được mục đích trên, HĐGDHN trong trường PT được thực hiện qua
bốn con đường:
a, Hướng nghiệp thông qua việc dạy các môn văn hóa
Các môn khoa học cơ bản như Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Địa lí v.v
có chức năng cung cấp một hệ thống những khái niệm làm nền tảng cho sự hình
thành tư duy lí luận, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng cũng
như tạo ra ở HS những kĩ năng thực hành, ứng dụng những tri thức vào cuộc
sống sinh động hàng ngày. GDHN qua các môn học là một nguyên tắc đặt ra
cho nhà giáo. Điều này có nghĩa là, những kiến thức mới, những thông tin mới
mà bài học mang lại cho HS đều phải có tác dụng GDHN. Những khả năng HN
qua các môn học gồm:
- Hình thành sự định hướng nghề nghiệp qua các bài giảng cụ thể, giúp cho
HS có biểu tượng tương đối rõ ràng về hệ thống nghề đang cần phát triển.
- Xây dựng cho HS phương pháp làm việc và tác phong công tác phù hợp
với nghề định chọn.
- Phát hiện năng khiếu, tài năng của HS qua các giờ học, từ đó tiến hành
công tác tư vấn nghề nghiệp cho HS.
- Giáo dục ý thức lao động XHCN đối với nghề nghiệp tương lai, từng bước
hình thành ở HS sự sẵn sàng tâm lí đi vào lao động sản xuất.
b, Hướng nghiệp thông qua việc dạy môn công nghệ và dạy nghề phổ thông

HĐ dạy học môn công nghệ, dạy nghề PT có tác dụng to lớn trong tổ chức
HĐGDHN cho HS, góp phần tích cực thực hiện 4 nhiệm vụ HN đã nêu trong
25

×