Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe ở trường cao đẳng nghề kinh tế công nghệ vicet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
*****
HOÀNG THỊ HUỆ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO NGHỀ LÁI XE Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
NGHỀ KINH TẾ - CÔNG NGHỆ VICET
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An - 2014
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
*****
HOÀNG THỊ HUỆ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO NGHỀ LÁI XE Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
KINH TẾ - CÔNG NGHỆ VICET
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Hùng
Nghệ An – 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, Tôi đã nhận được sự hướng dẫn
khoa học, sự chỉ bảo tận tình của Thầy giáo, PGS. TS. Hà Văn Hùng – người đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn Tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin được
kính gửi tới Thầy tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc.
Tôi cũng rất cảm ơn Ban Chủ Nhiệm Khoa Sau đại học, các thầy cô giáo
giảng dạy chuyên ngành Giáo dục học đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
thực hiện đề tài.


Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và người thân đã động viên
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này!
Nghệ An, tháng 4 năm 2014
Tác giả
Hoàng Thị Huệ
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CBGV: Cán bộ giáo viên.
CBQL: Cán bộ quản lý.

CBTS: Cán bộ tuyển sinh.
CĐN VICET: Cao đẳng nghề VICET.
CLĐT: Chất lượng đào tạo.
CNH – HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

CNTT: Công nghệ thông tin.

CSDN: Cơ sở dạy nghề
CSĐT: Cơ sở đào tạo.
CSVC: Cơ sở vật chất.

ĐBCL: Đảm bảo chất lượng.
GTVT: Giao thông vận tải.
HĐGD: Hoạt động giáo dục
HV: Học viên.
ILO: Tổ chức Lao động quốc tế.
KT – XH: Kinh tế xã hội
LĐTBXH: Lao động Thương binh và Xã hội.
NNL: Nguồn nhân lực.


QLCL: Quản lý chất lượng.
QLĐT: Quản lý đào tạo.

QLGD: Quản lý giáo dục.
QTDH: Quá trình dạy học.

MỤC LỤC
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đào tạo nghề cho người lao động có một vị trí quan trọng trong chiến
lược phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia trên thế giới. Thực hiện tốt việc
đào tạo nghề sẽ giúp cho mỗi quốc gia có được đội ngũ công nhân kỹ thuật có
trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi, khắc phục được tình trạng thừa thầy,
thiếu thợ, đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy rõ vai trò quan trọng
của đào tạo nghề. Điều này được thể hiện trong việc hoạch định các chiến lược
KT - XH của đất nước, đó là luôn đặt con người và vấn đề giải quyết việc làm
vào vị trí trọng tâm, lấy lợi ích của người lao động làm điểm xuất phát của mọi
chương trình, kế hoạch phát triển của mình.
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ với diện tích lớn, dân
số đông, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao. Điều kiện tự nhiên - xã hội
của tỉnh rất thuận lợi cho việc giao thương bằng các loại phương tiện vận tải như
ô tô để phát triển kinh tế. Cùng với sự phát triển về kinh tế thì nhu cầu sử dụng ô
tô nói riêng và các phương tiện giao thông vận tải nói riêng ngày càng gia tăng.
Để đáp ứng nguồn nhân lực và nhu cầu của tỉnh, Trường CĐN VICET đã tập
trung đào tạo đội ngũ HV lái xe phục vụ yêu cầu phát triển KT - XH và giải
quyết nhu cầu đi lại của nhân dân trên địa bàn
Lái xe là nghề đặc thù được cả xã hội và hệ thống chính trị quan tâm, tiêu
chí bảo đảm chất lượng trong đào lái xe luôn là yêu cầu cao của các cơ quan

chức năng. Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng: "Đào tạo
nghề lái xe là một nghề đặc biệt, nếu người làm công tác này không làm bằng
lương tâm và trách nhiệm thì rất dễ đào tạo ra những cỗ máy giết người".
Tại Thanh Hóa, hiện nay có 6 CSĐT nghề lái xe, lưu lượng hàng năm đào
tạo và cấp bằng gần 10 ngàn HV học nghề lái xe. Các trường, trung tâm đào tạo
lái xe được thành lập đã từng bước đáp ứng được nhu cầu của người học. Người
dân có thể lựa chọn CSĐT có uy tín, phù hợp với điều kiện về thời gian, công
1
việc để theo học. Việc đào tạo nghề lái xe bên cạnh việc cung cấp cho mọi người
các kiến thức về luật an toàn giao thông đường bộ khi tham gia điều khiển
phương tiện giao thông còn mang lại cho người lao động có việc làm và góp
phần giải quyết tình trạng thất nghiệp tại Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói
chung. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân, việc đào tạo vì chạy theo số lượng mà
xem nhẹ chất lượng dẫn đến CLĐT tại các trường, trung tâm này vẫn chưa cao,
còn nhiều k hở trong công tác đào tạo, sát hạch lái xe, vẫn còn những bất cập
trong dạy lý thuyết, dạy thực hành và trang bị các kỹ năng cho HV.
Trong thời gian qua, công tác QLĐT nghề lái xe của trường CĐN VICET
đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, tồn tại,
cần phải khắc phục. Vấn đề nghiên cứu các giải pháp quản lý nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo nghề nói chung, đào tạo lái xe nói riêng đang là một
nhu cầu bức thiết, cần nghiên cứu đề tài này vì nó có ý nghĩa quan trọng nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Do đó, nếu xây dựng và đề ra được các giải
pháp quản lý quá trình đào tạo lái xe đúng đắn thì nhà trường sẽ giải quyết tốt
bài toán về chất lượng, góp phần đào tạo đội ngũ lái xe có trình độ, năng lực đáp
ứng nhu cầu xã hội.
Với mong muốn tìm ra một số giải pháp quản lý công tác đào tạo nghề lái
xe nhằm góp phần nâng cao CLĐT đồng thời góp phần giảm thiểu số vụ tai nạn
giao thông tại Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung, chúng tôi đã chọn đề
tài nghiên cứu: "Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề
lái xe ở trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET".

2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe
ở trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Các hoạt động quản lý đào tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh
tế - Công nghệ VICET.
2
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe ở
trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET .
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp quản lý đảm bảo tính khoa học, đồng bộ
và khả thi thì sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo nghề lái xe ở trường Cao
đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống cơ sở lý luận về công tác quản lý nâng cao chất lượng đào
tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
5.2. Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý nâng cao
chất lượng đào tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế -
Công nghệ VICET.
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái
xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Tập hợp, phân loại tài liệu, nghiên cứu các tri thức khoa học có trong các
văn bản của Đảng, Nhà nước, của ngành giáo dục đào tạo và các tài liệu khoa
học liên quan.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra: áp dụng phương pháp An – két

Sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi để thu thập ý kiến từ các
khách thể khảo sát về vấn đề: thực trạng QLĐT của trường; tính cấp thiết và khả
thi của các biện pháp được đề xuất.
6.2.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục nghề nghiệp
Thông qua các báo cáo tổng kết, kế hoạch năm học của ngành và của
Trường CĐN VICET thời gian vừa qua để khái quát bài học kinh nghiệm trong
QLĐT của trường.
3
6.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm đầu ra
Nghiên cứu các sản phẩm hoạt động dạy nghề lái xe của nhà quản lý và
ban điều hành như Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng khoa, giáo viên và HV
học nghề lái xe.
6.2.4.Phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia
Xin ý kiến của các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực có liên quan.
6.3. Nhóm các phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu
7. Những đóng góp của luận văn
* Về mặt lý luận: Cung cấp cho trường Cao đẳng nghề VICET những cơ
sở lý luận để xác định mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe ở trường
Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
* Về mặt thực tiễn:
- Đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động nâng cao chất lượng đào tạo
lái xe ở trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
- Là một trong những tài liệu tham khảo cho trường dạy nghề lái xe.
. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2. Thực trạng nâng cao chất lượng quản lý đào tạo nghề lái xe ở trường
Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe tại

trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Đào tạo nghề là quá trình tổ chức dạy và học nhằm truyền đạt một khối
lượng kiến thức, kỹ năng, thái độ về một nghề nghiệp cụ thể nào đó người học
có thể sử dụng trong quá trình lao động theo sự phân công lao động xã hội [9].
Nghề sinh ra và phát triển theo tiến bộ xã hội, của khoa học kỹ thuật.
Ngày nay, do sự nhanh chóng của khoa học, công nghệ, nhiều nghề trở nên lạc
hậu, bị mai một, nhiều nghề mới phát sinh và phát triển. Vì vậy, đào tạo nghề trở
thành một nhu cầu quan trọng, thường xuyên trong mọi xã hội.
Đào tạo nghề là vấn đề đã và đang thu hút rất nhiều sự quan tâm của các
nhà khoa học và những người hoạch định chính sách. Đã có nhiều công trình
khoa học, các hội thảo khoa học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của các nhà khoa
học không chỉ trong nước mà còn trên thế giới nghiên cứu về vấn đề đào tạo
nghề cho người lao động ở nhiều góc độ, phạm vi rộng hẹp khác nhau. Thực tiễn
lịch sử loài người cho thấy, từ khi con người biết hợp sức nhau lại để tự vệ hoặc
mưu sinh thì lao động của số đông con người cần có sự phối hợp và điều khiển trở
thành một tất yếu khách quan để thực hiện được mục tiêu chung đã định. Khi
nghiên cứu về hiện tượng này C. Mác đã viết: "Bất cứ lao động xã hội hay cộng
đồng trực tiếp nào, được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần một chừng mực
nhất định đến sự quản lý, quản lý xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá thể và
hoàn thành chức năng chung xuất hiện trong sự vận động của các bộ phận riêng rẽ
của nó". Như vậy, hoạt động quản lý đã xuất hiện rất sớm và khoa học quản lý cũng
như hoạt động nghiên cứu khoa học quản lý sớm hình thành và phát triển, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về QLCL và quản lý CLĐT nghề của
nhiều tác giả của các quốc gia khác nhau trên thế giới tiến hành.
Tác giả Freeman (1994), trong tác phẩm “Đảm bảo chất lượng trong giáo

5
dục và đào tạo”, ĐBCL là một cách tiếp cận mà công nghiệp sản xuất sử dụng
nhằm đạt được chất lượng tốt nhất… ĐBCL là một cách tiếp cận có hệ thống
nhằm xác định nhu cầu thị trường và điều chỉnh các phương thức làm việc nhằm
đáp ứng được các nhu cầu đó [39].
Trên lĩnh vực đào tạo nghề Navigation, search (1997), trong công trình
“Cơ quan ĐBCL giáo dục đại học” cho rằng mỗi CSDN có một qui trình ĐBCL
nội bộ riêng. Cơ quan ĐBCL thực hiện đánh giá và kiểm soát chất lượng bên
ngoài bằng cách viếng thăm các CSDN, để đưa ra báo cáo về các ưu điểm và
các khuyến nghị để cho các CSDN tự cải thiện [40].
Danielle Colardyn (1998), trong công trình “Đảm bảo chất lượng CSĐT
trong dạy nghề thường xuyên” khẳng định: ào tạo nghề thường xuyên trong
khuôn khổ học tập suốt đời cũng nhấn mạnh đặc biệt về ĐBCL. Trước tiên, mỗi
quốc gia phát triển theo cách tiếp cận riêng của mình về ĐBCL. Thứ hai, các
tiêu chí ĐBCL chung được sử dụng như là một điểm tham chiếu ở từng quốc
gia. Thứ ba, các tiêu chí sẽ trả lời bằng những câu hỏi khác nhau và sự cần thiết
của “bên thứ ba” để cung cấp các đánh giá một cách khách quan [38].
Theo Abd Jamil Abdullah (2000), ĐBCL đạt được trên thực tế so với lí
thuyết phụ thuộc nguồn lực và sử dụng các nguồn lực hiện có của tổ chức đó
[36].
Theo Paul Watson (2002), mô hình QLCL Châu Âu (EFQM), đó là một
khung tự đánh giá những điểm mạnh và và điểm yếu trong lĩnh vực QLCL để
cải thiện hoạt động của một tổ chức, nhằm cung cấp một dịch vụ hoặc sản phẩm
xuất sắc cho khách hàng hoặc các bên liên quan. Mỗi tổ chức có thể sử dụng nó
theo cách riêng của mình để quản lí, cải tiến và phát triển [41].
Tổ chức các Bộ trưởng giáo dục Đông Nam Á (2003), trong công trình
“Khung đảm bảo chất lượng trong khu vực” đã chỉ ra: Hệ thống ĐBCL đào tạo
bao gồm cơ cấu tổ chức, các thủ tục, các quá trình và các nguồn lực cần thiết
của các CSĐT dùng để thực hiện quản lí đồng bộ, nhằm đạt được những tiêu
chuẩn, tiêu chí và các chỉ số cụ thể do nhà nước ban hành, để nâng cao và liên

6
tục cải tiến CLĐT nhằm thỏa mãn yêu cầu của người học và đáp ứng nhu cầu thị
trường lao động.
Theo Petros Kefalas và các cộng sự (2003), một hệ thống ĐBCL bao gồm
các tiêu chuẩn chất lượng: chương trình học tập hiệu quả, đội ngũ CBGV, khả
năng sử dụng cơ sở hạ tầng sẵn có, phản hồi tích cực từ HV và sự hỗ trợ từ các
bên liên quan và thị trường lao động [42].
Trong “Sổ tay hướng dẫn và thực hiện” (2004) của tổ chức ĐBCL mạng
lưới chất lượng các nước Đông Nam Á đã nêu rõ: Mô hình ĐBCL ở các nước
Đông Nam Á rất đa dạng. Nhưng điểm chung là hầu hết các cơ quan ĐBCL
quốc gia đều do nhà nước thành lập, được nhà nước cấp kinh phí và chủ yếu
thực hiện nhiệm vụ kiểm định [37].
Anna Maria Tammaro (2005), trong báo cáo về các mô hình ĐBCL trong
LIS cho biết: Ba mô hình ĐBCL xuất hiện từ các hướng dẫn và các tiêu chuẩn
khác nhau của LIS đó là: Định hướng chương trình; Định hướng quá trình giáo
dục; Định hướng kết quả học tập [35].
Tại Việt Nam, đào tạo nghề có lịch sử phát triển khá lâu dài, gắn liền với
sự phát triển của các làng nghề, cơ sở sản xuất nông nghiệp. Khoa học quản lý
tuy được nghiên cứu muộn nhưng tư tưởng về quản lý cũng như "Phép trị nước
an dân" đã có từ lâu đời. Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
đã viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" đủ thấy rằng các minh quân nước Việt
Nam từ xa xưa đã biết lấy dân làm gốc trong quản lý đất nước.
Lịch sử công tác đào tạo nghề ở Việt Nam được chia thành các giai đoạn:
- Giai đoạn 1969 - 1975: Đây là giai đoạn bắt đầu hình thành một số trường
dạy nghề ở miền Bắc. Tính đến hết năm học 1974 - 1975, miền Bắc đã có 185
trường dạy nghề với quy mô đào tạo hệ dài hạn lên đến 160.000 học sinh.
- Giai đoạn 1975 - 1986: Trong giai đoạn này đào tạo nghề Việt Nam đã có
những bước tiến đáng kể: Hệ thống các trường sư phạm kỹ thuật và hệ thống
trung tâm dạy nghề ở các tỉnh, quận, huyện trong phạm vi cả nước được hình
thành…để đào tạo nghề ngắn hạn cho người lao động theo phương châm: "Nhà

7
nước, tập thể và người dân cùng chăm lo sự nghiệp dạy nghề". Tính đến hết năm
học 1985 - 1986 cả nước đã có 05 trường sư phạm kỹ thuật, 298 trường dạy nghề,
220 trung tâm dạy nghề với quy mô đào tạo dài hạn 113.000 học sinh.
- Giai đoạn 1986 - 1998: Trong giai đoạn này, quy mô đào tạo được chú ý,
CLĐT được nâng lên. Tính đến năm học 1997 - 1998, cả nước đã có 05 trường sư
phạm kỹ thuật dạy nghề, 151 trường Dạy nghề, 150 trung tâm dạy nghề, quy mô
đào tạo hệ dài hạn là 90.234 học sinh. Điều nổi bật nhất trong giai đoạn này là
đào tạo nghề ngắn hạn phát triển nhanh, đồng thời xuất hiện xu hướng chuyển
một số trường dạy nghề lên bậc Trung học Chuyên nghiệp
- Giai đoạn từ năm 2001 - 2010: Trong mười năm 2001 - 2010, công tác
đào tạo nghề ở Việt Nam đã phục hồi và có bước phát triển mạnh, từng bước đáp
ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH - HĐH và
hội nhập quốc tế.
Cũng đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực đào tạo nghề
và các vấn đề liện quan: Trong tác phẩm “Giáo dục nghề nghiệp đáp ứng thị
trường lao động”, tác giả Nguyễn Đức Trí (2008), cho rằng: Trong lĩnh vực đào
tạo nghề hiện nay đã áp dụng các cấp độ này với các mô hình khác nhau tùy
theo đặc điểm của từng CSDN [30].
Trong tác phẩm “Một số vấn đề về quản lí CSDN”, Các tác giả Nguyễn
Đức Trí và Phan Chính Thức (2010) đã nêu: Hiện nay trên thế giới đang áp
dụng 03 cách thức ĐBCL chủ yếu đó là: Đánh giá, kiểm toán và kiểm định.
Trong các cách thức này, kiểm định chất lượng được sử dụng rộng rãi và hữu
hiệu nhất ở các nước trong khu vực và trên thế giới [32].
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường (2012), trong tác phẩm “Quản lí chất
lượng cơ sở giáo dục”, trong lĩnh vực dạy nghề, ĐBCL là quá trình kiểm định
các điều kiện ĐBCL đào tạo như chương trình, GV, CSVC và thiết bị dạy học,
tổ chức quá trình dạy học, tài chính…[13].
Năm 2002, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục đã có đề tài “Nghiên cứu
cơ sở lí luận và thực tiễn đảm bảo CLĐT đại học và trung học chuyên nghiệp

8
(khối ngành kĩ thuật)” do tác giả Trần Khánh Đức làm chủ nhiệm đề tài đã hệ
thống được cơ sở lí luận và thực tiễn đưa ra quan niệm khá đầy đủ về CLĐT và
ĐBCL đào tạo, các tiêu chí và phương pháp đánh giá CLĐT so sánh những mô
hình QLCL đào tạo đang được các nước phát triển đang vận dụng hiện nay [12].
Theo tác giả Phan văn Kha (2004), trong tác phẩm “Nghiên cứu đề xuất mô
hình quản lí CLĐT sau đại học ở Việt Nam”, Hệ thống chất lượng được xem
như một phương tiện cần thiết để thực hiện chức năng QLCL. Để xây dựng
được hệ thống chất lượng cần phải xác định được tất cả các yếu tố tác động và
quyết định đến chất lượng, đồng thời đưa ra các tiêu chí, các qui trình, thủ tục
cần phải áp dụng để triển khai các yếu tố đó nhằm đạt được kết quả và chất
lượng mong muốn [20].
Theo tác giả Nguyễn Đức Trí (2008) trong tác phẩm “Giáo dục nghề
nghiệp đáp ứng thị trường lao động”, một hệ thống ĐBCL đào tạo thường phải
đáp ứng 3 yêu cầu chính sau: Xây dựng được một sơ đồ các vấn đề cần quản lí
(chuỗi các công đoạn/qui trình); Xây dựng được các qui trình, thủ tục thực hiện
cho từng công đoạn/qui trình đó và đảm bảo điều kiện cho việc thực hiện được
và có thể kiểm định khi cần thiết; Có những tiêu chí cần thiết để đối chiếu kết
quả đạt được so với các tiêu chuẩn đã qui định trong mục tiêu ở đầu vào và đầu
ra của mỗi công đoạn/qui trình [30].
Trong tác phẩm “Mô hình quản lí CLĐT tại Khoa Sư phạm Đại học Quốc
gia Hà Nội”, Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2005), đã nhấn
mạnh: QLCL đào tạo phải được thực hiện ở mọi khâu, mọi nơi, mọi lúc, từ đầu
vào, quá trình dạy học và đầu ra cho tới nơi làm việc của HV sau tốt nghiệp [8].
Theo tác giả Nguyễn Đức Chính (2000), trong tác phẩm “Nghiên cứu xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá CLĐT dùng cho các trường đại học Việt Nam” thì các
CSĐT cần có các điều kiện ĐBCL đầu vào, quá trình đào tạo và đầu ra.
Có thể nhận thấy, các công trình trên đã đề cập đến các vấn đề lý luận rất
cơ bản về khoa học quản lý như bản chất của hoạt động quản lý, các thành phần
cấu trúc, các giai đoạn của hoạt động quản lý, đồng thời chỉ ra các phương pháp

9
và nghệ thuật quản lý. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở phương
diện lý luận là chủ yếu, việc ứng dụng vào lĩnh vực, vào từng cơ sở được triển
khai tùy trường hợp cụ thể. Vẫn còn ít công trình đi sâu vào nghiên cứu các hoạt
động QLĐT nghề theo hướng chú ý đến đối tượng người học, đơn vị tổ chức sử
dụng lao động, thị trường lao động; những yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá
trình nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về ĐBCL trong và ngoài nước đã đề
cập đến các bình diện khác nhau và đặc biệt quan tâm đến những vấn đề QLCL,
ĐBCL đào tạo, kiểm định đánh giá chất lượng CSĐT, đặc biệt là đối với giáo
dục đại học theo hướng tiếp cận QLCL tổng thể. Riêng với các CSDN mới chỉ
dừng lại ở những nghiên cứu QLCL nói chung. Đến nay, khoa học quản lý ở
Việt Nam vẫn còn non trẻ đang được nhiều người quan tâm, suy ngẫm, tổng kết
và vận dụng, là vấn đề luôn mang tính thời sự đi liền với các bước phát triển của
các doanh nghiệp, tổ chức, nhà nước và nhân loại.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu đã có đóng góp nhất dịnh đối với
lĩnh vực đào tạo nghề ở các cấp độ khác nhau, đã góp phần làm sáng tỏ thêm về
cơ sở lý luận cho việc quản lý hoạt động đào tạo nghề, đồng thời nêu lên các
biện pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động ở các CSDN
trong giai đoạn hiện nay, trong đó có những biện pháp mới mẻ, mang tính đặc
thù của công tác đào tạo nghề. Tuy nhiên, hầu như chưa có một công trình
nghiên cứu nào đề cập đến quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe, đặc
biệt là đào tạo nghề lái xe ở các trường Cao đẳng nghề kinh tế - Công nghệ.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái niệm về quản lý
* Quản lý
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm quản lí. Theo Hà Thế Ngữ
và Đặng Vũ Hoạt, “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu,
quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ

10
thống mà người quản lý mong muốn”. Hà Sỹ Hồ cho rằng: “Quản lý là một quá
trình tác động có định hướng (có chủ đích) có tổ chức, lựa chọn trong các tác
động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường,
nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển
tới mục đích đã định” [15]. Theo Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một công việc
vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật”. Ông viết “Quản lý một hệ
thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là
vào những con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra”. Theo tác
giả Đặng Thành Hưng, khái niệm quản lí phản ánh một dạng lao động trí tuệ
của con người có chức năng bảo đảm và khuyến khích những nỗ lực của những
người khác để thực hiện thành công công việc nhất định. Quản lý là công tác
phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một
tổ chức Quan niệm hiện đại về quản lí thừa nhận đó là toàn bộ các hoạt động
huy động, tổ chức, thực thi các nguồn lực vật chất và tinh thần, sử dụng chúng
nhằm tác động và gây ảnh hưởng tích cực đến những người khác để đạt được
những mục tiêu của tổ chức hay cộng đồng [19].
Như vậy, có thể nói hoạt động quản lý là tất yếu nảy sinh khi con người
lao động tập thể và tồn tại ở mọi loại hình tổ chức, mọi xã hội. Do đó, khái niệm
quản lý được nhiều tác giả đưa ra theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn:
- Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: “Quản lý là
hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức” [8].
- Theo Nguyễn Văn Bình thì: “Quản lý là một nghệ thuật đạt được mục
tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động
của những người khác” [3].
Quản lý là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật
của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
11

* Các chức năng quản lý
Chức năng của quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thông
qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục
tiêu nhất định. Nhiều nhà khoa học và quản lý thực tiễn đã đưa ra những quan
điểm khác nhau về phân loại chức năng quản lý. Theo quan điểm quản lý hiện
đại, từ các hệ thống chức năng quản lý nêu trên, có thể khái quát một số chức
năng cơ bản sau:
- Lập Kế hoạch: Là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý,
là khởi điểm của một chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình xác lập mục
tiêu, thời gian, biện pháp, dự báo trước kế hoạch và quyết định phương thức để
thực hiện mục tiêu đó. Nói cách khác, lập kế hoạch là xác định trước xem phải
làm gì, làm như thế nào, khi nào làm và ai làm. Căn cứ vào thực trang ban đầu
của tổ chức và mục tiêu cần phải hướng tới để cụ thể hóa bằng nhiệm vụ của tổ
chức trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Từ đó tìm ra con đường, biện pháp đưa
đơn vị đạt được mục tiêu.
- Tổ chức: Là quá trình thiết lập cấu trúc giữa các thành viên, các bộ
phận. Từ đó, chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý một cách có hiệu
quả bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức như nhân lực, vật lựcvà tài
lực. Quá trình xây dựng và hoàn thiện các tổ chức phải đảm bảo các yêu cầu:
Tính tối ưu, tính linh hoạt, độ tin cậy và tính kinh tế. Trong quá trình xây dựng
cơ cấu tổ chức quản lý cần tính đến các nhân tố ảnh hướng trực tiếp và gián tiếp,
đó là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình tổ chức thực hiện.
- Chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm điều hành
tổ chức – nhân lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế hoạch đã vạch ra.
Lãnh đạo bao hàm cả liên kết, liên hệ, sửa chữa, uốn nắn của người, động viên,
khuyến khích họ hoàn thành nhiệm vụ. Trong chức năng chỉ đạo, chủ thể quản
lý phải trực tiếp ra quyết định (mệnh lệnh) cho nhân viên dưới quyền và hướng
12
dẫn, quan sát, phối hợp, động viên để thuyết phục, thúc đẩy họ hoạt động đạt

được mục tiêu đó bằng nhiều biện pháp khác nhau.
- Kiểm tra: Là hình thức thu thập thông tin phản hồi về mức độ thực hiện
các nhiệm vụ được giao. Các thông tin đó có thể là định tính có thể là định
lượng. Trong chu trình quản lý, kiểm tra là giai đoạn cuối cùng không thể thiếu
được, có vai trò quan trọng để điều chỉnh, để hoàn thành hoạt động ở các giai
đoạn trước.
Bản chất của hoạt động kiểm tra trong quản lý là quá trình xem xét thực
tế, đánh giá thực trạng so với mục tiêu, phát hiện các mặt: tích cực, sai lệch, vi
phạm để đưa ra kết luận điều chỉnh.





Biểu thị mối liên hệ và tác động trực tiếp
Biểu thị mối liên hệ ngược hoặc thông tin phản hồi trong quá trình
quản lý.
Hình 1.: Chức năng quản lý trong chu trình quản lý.
Kế hoạch
Kiểm tra
Thông
tin
Tổ chức
Chỉ đạo
13
1.2.2. Quản lý giáo dục
* Quản lý giáo dục
QLGD là một loại hình quản lý xã hội. QLGD là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật giữa chủ thể quản lý và khách thể
quản lý nhằm đạt được mục tiêu giáo dục dự kiến của từng cấp quản lý.

Do giáo dục là một lĩnh vực hoạt động xã hội nên quản lí giáo dục được
xem là quản lí xã hội. QLGD luôn bám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị-xã
hội, phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử của mỗi quốc gia. Tác
giả Đặng Quốc Bảo quan niệm rằng: ‘QLGD là hệ thống tác động có mục đích,
có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ giáo dục vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến tiến lên trạng
thái mới về chất’ [2].
Có thể hiểu khái niệm quản lí giáo dục là quản lý những tác động có hệ
thống, khoa học, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý là quá trình dạy học và giáo dục diễn ra ở các cơ sở giáo dục như các trường
học, trung tâm khoa học kỹ thuật, hướng nghiệp dạy nghề hay một tập hợp các cơ
sở phân bố trên địa bàn dân cư. Đa số các nguồn và tác giả (Đặng Quốc Bảo,
Phạm Minh Hùng, Lưu Xuân Mới…) [2] [18] [24] tuy diễn đạt khác nhau song
căn bản đều hiểu khái niệm quản lí giáo dục tương tự như trên.
QLGD có thể hiểu theo nghĩa hẹp là quản lý các hoạt động giáo dục trong
ngành giáo dục, quản lý một số cơ sở giáo dục đào tạo ở một địa phương hành
chính nào đó. QLGD có thể hiểu theo nghĩa rộng là quản lý các hoạt động giáo
dục diễn ra trong nhà trường hay ngoài xã hội. Quản lý xã hội có hệ thống nguyên
tắc, chức năng và các giai đoạn của chu trình QLGD cụ thể. Song cần hiểu khái
niệm QLGD một cách toàn diện bao gồm cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp bởi vì suy
đến cùng dù được hiểu theo nghĩa nào thì đích cuối cùng của QLGD vẫn là vận
dụng các quy luật khách quan để nâng cao chất lượng giáo dục.
14
* Đặc trưng của quản lý giáo dục
QLGD là một quá trình, quá trình QLGD là hoạt động của các chủ thể và
đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm mục
đích đề ra của quản lý bằng cách thực hiện các chức năng nhất định và vận dụng
các biện pháp, nguyên tắc, công cụ quản lý thích hợp [2] [18].

* Nội dung quản lý giáo dục
QLGD là một quá trình với các thành tố, mục tiêu đào tạo, phương pháp
đào tạo; CSVC, thiết bị đào tạo; lực lượng đào tạo (thầy); đối tượng đào tạo
(trò); kết quả đào tạo. Các thành tố của quá trình GD&ĐT là một thể thống nhất,
chúng có tác động tương hỗ lẫn nhau [2] [8].
1.2.3. Dạy học thực hành và Quản lí dạy học thực hành
Quá trình dạy học trong giáo dục và đào tạo nói chung và trong đào tạo
nghề nói riêng thường được phân chia ra một cách tương đối thành hai quá trình
bộ phận là dạy học lí thuyết và dạy học thực hành. Dấu hiệu quan trọng của quá
trình dạy học đặc biệt là dạy thực hành trong giáo dục chuyên nghiệp là dạy học
không phải chủ yếu là truyền đạt, cung cấp thông tin mà phải chủ yếu là hình
thành kĩ năng, rèn luyện kĩ xảo, phát triển khả năng tìm tòi, phát hiện, quản lý và
ử lí thông tin thành sản phẩm có ý nghĩa đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp.
Dạy lí thuyết nghề là truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức chung và tri
thức lí thuyết nghề nghiệp, trên cơ sở đó phát triển năng lực trí tuệ cũng như giáo
dục cơ sở thế giới quan khoa học, hình thành những phẩm chất đạo đức cho HV.
Dạy học thực hành nghề có nhiệm vụ chủ yếu là truyền đạt và tiếp thu kĩ năng, kĩ
xảo, hình thành ý thức thái độ nghề nghiệp và những kinh nghiệm thực tiễn của
xã hội. Dạy thực hành là một quá trình giáo dục và giáo dưỡng được tổ chức có
kế hoạch là một qua trình giảng dạy, học tập và lao động. Quá trình trình ấy cùng
với quá trình giảng lý thuyết và hoạt động ngoài giờ tạo nên một thể thống nhất
trong đào tạo nghề. Rõ ràng là sự phân chia tương đối QTDH trong đào tạo nghề
như vậy là dựa vào chức năng, nhiệm vụ của dạy lí thuyết và dạy thực hành nghề.
Hai quá trình thường được bổ ung cho nhau, thống nhất với nhau, được tổ chức
15
thực hiện xen kẽ, thay đổi và kế thừa nhau. Hiện nay chúng ta đang có xu hướng
thực hiện thống nhất quá trình dạy lí thuyết chuyên môn nghề với quá dạy trình
thực hành nghề. Hình thức đào tạo theo Môdul và MES mà chúng ta đang triển
khai thực hiện chính là làm ranh giới tương đối giữa dạy lí thuyết nghề và dạy
thực hành nghề gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên sự khác nhau trong phương

pháp lĩnh hội, nhận thức đối với các tri thức lý thuyết và các kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp vẵn tồn tại khách quan trong quá trình dạy học ở đào tạo nghề [6]
[17].
Quản lí dạy học thực hành chính là quản lí dạy học trong khi thực hiện các
nhiệm vụ và hoạt động học tập thực hành của người học nhằm vào mục tiêu học
thực hành là hình thành kĩ năng, rèn luyện kĩ xảo, phát triển khả năng hành dụng
tương ứng vơi môn học, ngành học hoặc chuyên môn nghề nghiệp.
Nội dung quản lí dạy học thực hành cũng bao gồm những mặt sau:
- Quản lí kế hoạch hoạt động dạy học thực hành
- Quản lí nội dung, kế hoạch, chương trình dạy học thực hành
- Quản lí phương pháp dạy học thực hành
- Quản lí hoạt động dạy học thực hành của giáo viên
- Quản lí hoạt động học tập thực hành của HV.
1.2.4. Quản lý quá trình đào tạo nghề
* Khái niệm nghề
Theo ILO: Nghề là một hình thức phân công lao động đòi hỏi kiến thức lý
thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất
định.
Khái niệm về nghề theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau
nhất định:
- Khái niệm nghề của Nga được định nghĩa là một loại hoạt động lao động
đòi hỏi có đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sống.
- Khái niệm nghề của Pháp được định nghĩa là một loại lao động có thói
quen và kỹ năng, kỹ xảo của một người để từ đó tìm được phương tiện sống.
16
- Khái niệm nghề của Anh được định nghĩa là một công việc chuyên môn
đòi hỏi sự đào tạo trong khoa học nghệ thuật.
- Ở Đức, nghề đựơc định nghĩa là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một lĩnh
vực lao động nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở một trình độ nào đó.
Như vậy, nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến gắn

chặt với sự phân công lao động, với tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn minh nhân
loại.
Từ điển tiếng Việt đưa ra định nghĩa “Nghề là công việc chuyên làm, theo
sự phân công của xã hội” [31].
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu nghề nghiệp như một dạng lao
động vừa mang tính xã hội (Sự phân công của xã hội), vừa mang tính cá nhân
(Nhu cầu bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi
để thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và của cá nhân.
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị: Tri
thức nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, hiệu quả do nghề mang lại.
Nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi con người phải có một quá trình đào
tạo chuyên biệt để có những kiến thức, chuyên môn nhất định. Khi tìm hiểu về
khái niệm nghề cần quan tâm tới đặc điểm chuyên môn nghề và phân loại nghề vì
nó là cơ sở để xác định nội dung đào tạo nghề và cấp trình độ đào tạo. Đặc điểm
chuyên môn của nghề gồm các yếu tố:
- Đối tượng lao động nghề.
- Công cụ và phương tiện của lao động nghề.
- Qui trình công nghệ.
- Tổ chức quá trình lao động nghề.
- Các yêu cầu tâm sinh lý của người học nghề cũng như yêu cầu về đào tạo
nghề.
Việc phân loại nghề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tổ chức đào tạo.
Tuy nhiên do xuất phát từ yêu cầu, mục đích sử dụng và các tiêu chí khác nhau
nên phân loại nghề có nhiều loại: Nghề dạy học, nghề điêu khắc, nghề tiện, nghề
17
điện, nghề trồng rừng
Nghề là sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội là phương
tiện để sinh sống và dưới góc độ đào tạo nghề là toàn bộ các kiến thức, kỹ năng,
thái độ mà người lao động cần có để thực hiện các hoạt động trong một lĩnh vực lao
động nhất định.

Có thể nói Nghề là tổng hợp những kiến thức và kỹ năng lao động mà con
người tiếp thu được do kết quả của đào tạo chuyên môn và tích lũy kinh nghiệm
trong công việc. Nghề gắn liền với kiến thức và kinh nghiệm đối với công việc
của nghề. Những kiến thức kinh nghiệm đó không phải tự nhiên có được mà là
do kết quả của đào tạo và tích lũy kinh nghiệm [29] [30].
* Đào tạo nghề
Theo ILO, đào tạo nghề là nhằm cung cấp cho người học những kỹ năng
cần thiết để thực hiện tất cả những nhiệm vụ liên quan đến công việc và nghề
nghiệp được giao [6].
Đào tạo nghề là quá trình phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo và thái độ nghề nghiệp; đào tạo nghề nhằm hướng vào hoạt động nghề
nghiệp và hoạt động xã hội. Mục tiêu đào tạo là trạng thái phát triển nhân cách
được dự kiến trên cơ sở yêu cầu phát triển KT - XH và được hiểu là chất lượng
cần đạt tới đối với người học sau quá trình đào tạo.
Đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc
làm hoặc tự tạo viện làm sau khi hoàn thành khóa học (điều 5.1 Luật dạy nghề,
NXB Chính trị Quốc gia 2006) [26].
Theo khái niệm này, đào tạo nghề không chỉ dừng lại trang bị kiến thức,
kỹ năng cơ bản mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ bản. Điều này thể hiện
tính nhân văn, tinh thần xã hội chủ nghĩa, đề cao người lao động trong quan
niệm về lao động, nó thể hiện đầy đủ hơn về vấn đề tinh thần vàkỷ luật lao động
– một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất với công nghệ tiên
tiến hiện nay.
18
Tham gia một chương trình đào tạo nghề, học sinh sẽ được học hệ thống
các kiến thức cần thiết về lý thuyết nghề, được thực hành trong thực tế để hình
thành những kỹ năng, kỹ xảo của nghề. Đồng thời học sinh còn được giáo dục,
phát triển cả ý thức, thái độ với nghề trong tương lai của bản thân họ.
Như vậy đào tạo nghề là một quá trình tác động có chủ đích của con

người nhằm phát triển tay nghề (dạy nghề) và đạo đức, văn hóa nghề nghiệp
(nhân cách) của họ, thể hiện trên 3 mặt: Kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp, phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và phát triển nguồn lực
quốc gia.
Lý luận dạy nghề với tư cách là một bộ môn của giáo dục học nghề
nghiệp, là lý thuyết của của dạy học trong đào tạo nghề nghiệp và cũng chính là
lý thuyết của dạy học nói chung. Dạy học là quá trình giáo dục và giáo dưỡng
có kế hoạch, có mục tiêu do giáo viên tổ chức và chỉ đạo trong quá trình dạy
học.
Dạy thực hành nghề là một quá trình sư phạm giải quyết các nhiệm vụ do
giáo viên thực hành và học sinh học nghề tổ chức thực hiện một cách khoa học
có mục đích nhằm tạo những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho người công nhân
tương lai. Như vậy trong quá trình dạy học thì cả người dạy lẫn người học đều
tham gia vào quá trình ấy, sự chỉ đạo của giáo viên được thể hiện ở những điểm
sau:
- Xác định mục đích và nôi dung của việc dạy.
- Xác định nhiệm vụ của việc dạy.
- Xác định tiến trình phương pháp và tổ chức dạy.
- Xác định các phương tiện giảng dạy.
Quá trình dạy thực hành nghề nói riêng là một hệ thống hoàn chỉnh các
yếu tố sau:
- Mục tiêu dạy học.
- Nội dung dạy học.
- Phương pháp dạy học.
19
- Phương tiện dạy học.
- Hình thức tổ chức dạy học.
- Hoạt động dạy học.
- Hoạt động học tập.
- Kết quả dạy học.

- Môi trường sư phạm.
- Các mối quan hệ (Thuận, ngược, liên nhân cách).
* Quản lý đào tạo nghề [6] [9] [29]
QLĐT nghề là một trong những vấn đề cụ thể của QLĐT. QLĐT nghề được
hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ
thể quản lý nhằm làm cho hệ thống đào tạo nghề phát triển, vận hành theo đường lối
chủ trương của Đảng và thực hiện được những yêu cầu của xã hội, đáp ứng sự
nghiệp phát triển KT-XH.
QLĐT nghề bao gồm các loại hoạt động trong quá trình đào tạo như sau:
- Xác định mục tiêu, nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo nghề.
- Xây dựng các điều kiện cần thiết, khả thi: Đội ngũ giáo viên, cán bộ kỹ
thuật, CSVC, xưởng trường, nguồn tài chính, môi trường sư phạm.
- Xác định quy mô phát triển số lượng, chất lượng của từng ngành nghề đào
tạo.
- Tổ chức chỉ đạo hoạt động dạy và học của thày và trò.
- Hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lý.
- Phát triển cơ chế cộng đồng, phối hợp trong và ngoài.
* Các hình thức đào tạo nghề [29] [31]
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch đào tạo là xác định các
hình thức đào tạo thích hợp. Hình thức đào tạo là cơ sở để xây dựng kế hoạch đào
tạo, đồng thời cũng là cơ sở để tính toán hiệu quả kinh tế của đào tạo. Tùy theo
yêu cầu và điều kiện thực tế có thể áp dụng các hình thức đào tạo phù hợp.
Những hình thức đào tạo nghề đang được áp dụng chủ yếu hiện nay là:
20
- Kèm cặp trong sản xuất: Là hình thức đào tạo trực tiếp tại nới làm việc,
chủ yếu là thực hành ngay trong quá trình sản xuất do xí nghiệp tổ chức.
- Các lớp cạnh doanh nghiệp: Là các lớp do các doanh nghiệp tổ chức ra
nhằm đào tạo riêng cho mình hoặc cho doanh nghiệp cùng ngành, cùng lĩnh vực.
Chủ yếu đào tạo nghề cho công nhân mới được tuyển dụng, đào tạo lại nghề,
chuyển giao công nghệ, kỹ thuật mới. Hình thức đào tạo này không đòi hỏi có

đầy đủ CSVC, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào điều kiện sãn có của
doanh nghiệp. Chương trình đào tạo gồm hai phần: Lý thuyết và thực hành sản
xuất. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách;
phần thực hành được tiến hành ở các phân xưởng do các kỹ sư hoặc công nhân
lành nghề hướng dẫn.
- Các trường chính quy: Đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển trên cơ sở
kỹ thuật hiện đại, các Bộ hoặc các Ngành thường tổ chức các trường dạy nghề tập
trung, quy mô lớn, đào tạo công nhân có trình độ cao, chủ yếu là đào tạo đội ngũ
công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ cao. Thời gian đào tạo tùy theo nghề
đào tạo, HV sau khi tốt nghiệp ra trường được cấp bằng nghề.
Khi tổ chức các trường dạy nghề cần phải có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo
viên chuyên trách và CSVC riêng cho đào tạo. Để nâng cao CLĐT phải đảm bảo
các điều kiện sau đây:
+ Phải có đội ngũ giáo viên đủ khả năng chuyên môn và kinh nghiệm
giảng dạy.
+ Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập,
các phòng thí nghiệm, xưởng trường. Nhà trường cần tổ chức các phân xưởng sản
xuất vừa phục vụ cho giảng dạy, vừa sản xuất của cải vật chất phục vụ xã hội.
Nếu không có điều kiện tổ chức xưởng sản xuất thì nên để gần các doanh nghiệp
lớn của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học. Các tài liệu và sách giáo
khoa phải được biên soạn thống nhất cho các nghề, các trường.
- Các trung tâm dạy nghề: Đây là loại hình đào tạo ngắn hạn, thường dưới
một năm. Chủ yếu là đào tạo phổ cập nghề cho thanh niên và người lao động.
21

×