Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Một số giải pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học phổ thông huyện vĩnh cửu tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN GIANG NAM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN VĨNH CỬU TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An, 2014
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN GIANG NAM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN VĨNH CỬU TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.01.14
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.NGUYỄN ĐÌNH HUÂN
Nghệ An, 2014
ii
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành tôi bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám hiệu,
phòng Đào tạo Sau đại học, khoa Giáo dục trường Đại học Vinh, các cán bộ
và giảng viên đã tham gia quản lí, giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu tại lớp Cao học khóa 20, chuyên ngành Quản lý giáo
dục tại trường Đại học Sài Gòn.
Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đình
Huân đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ về khoa học để tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo, các cán


bộ, nhân viên phụ trách thiết bị các trường THPT huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng
Nai cùng với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, cổ vũ, khích lệ và
giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình khóa học và thực hiện nghiên cứu luận
này.
Những nội dung tôi được học tập ở trường thông qua các tài liệu và
được các nhà giáo lên lớp hướng dẫn nghiên cứu cùng với sự giúp đỡ của các
đồng nghiệp đã giúp tôi nâng cao nhận thức để hoàn thành đề tài.
“ Một số giải pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học
phổ thông huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai ”.
Mặc dù đã cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tuy nhiên luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được ý
kiến đóng góp và chỉ dẫn của quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp.
Vinh, tháng 4 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Giang Nam
iii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 5
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 5
4. Giả thuyết khoa học 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
6 Phương pháp nghiên cứu 5
7 Những đóng góp khoa học của luận văn 6
8 Cầu trúc của luận văn 6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
7

1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu 7
1.2 Một số khái niệm cơ bản 11
1.2.1 Quản lý, quản lý giáo dục và quản lý nhà trường 11
1.2.2 Thiết bị dạy học và quản lý thiết bị dạy học 17
1.2.3 Giải pháp và giải pháp quản lý thiết bị dạy học

19
1.3. Một số vấn đề về thiết bị dạy học trong trường trung học phổ thông 19
1.3.1 Vị trí, vai trò của thiết bị dạy học trong giáo dục và đào tạo 19
1.3.2 Phân loại các thiết bị dạy học 22
1.3.3 Các yêu cầu đối với thiết bị dạy học hiện nay 24
1.4 Công tác quản lí thiết bị dạy học ở các trường trung học phổ thông 26
1.4.1 Mục đích quản lí thiết bị dạy học ở các trường trung học phổ thông 26
1.4.2 Nội dung cơ bản của quản lý thiết bị dạy học ở trường trung học phổ thông 27
1.4.3 Những yêu cầu của công tác quản lý thiết bị dạy học trong trường trung học
phổ thông
31
1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc quản lý thiết bị dạy học trong trường trung học
phổ thông
35
1.5.1 Yêu cầu cấp bách về nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông hiện nay
.
35
1.5.2 Định hướng của Đảng, Nhà nước ta về quản lý thiết bị dạy học để nâng cao
chất lượng dạy học 37
1.5.3 Định hướng phát triển giáo dục phổ thông và quan điểm chỉ đạo về quản lý
thiết bị dạy học ở các trường trung học phổ thông tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh
Đồng Nai
38
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC Ở

CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH
ĐỒNG NAI
41
2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và giáo dục huyện Vĩnh Cửu,
tỉnh Đồng Nai 41
2.2 Thực trạng công tác quản lý thiết bị dạy học ở các trường huyện Vĩnh Cửu,
tỉnh Đồng Nai 49
2.2.1 Thực trạng đội ngũ làm công tác quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung 54
iv
học phổ thông
2.2.2 Thực trạng công tác xây dựng, bổ sung, mua sắm thiết bị dạy học ở các trường
trung học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai 56
2.2.3 Thực trạng công tác tổ chức và chỉ đạo quản lý sử dụng thiết bị dạy học của
các trường trung học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai 59
2.2.4 Thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá việc quản lý thiết bị dạy học của các
trường trung học phổ thông Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai 59
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
THIẾT BỊ DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HUYỆN VĨNH CỬU TỈNH ĐỒNG NAI
3.1 Nguyên tắc đề xuất các giải pháp 65
3.2 Một số giải pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học phổ thông
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai 66
3.2.1 Nâng cao nhận thức về sự cần thiết của việc quản lý thiết bị dạy học ở các
trường trung học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai 66
3.2.2 Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
liên quan đến công tác thiết bị dạy học.
72
3.2.3 Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch, bổ sung, mua sắm, tiếp nhận, phân phối thiết bị
dạy học ở các trường trung học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai
h

73
3.2.4 Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc khai thác, sử dụng, bảo quản sửa chữa
thiết bị dạy học trong các nhà trường
hô3 thông
77
3.2.5 Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá việc quản lý thiết bị dạy học ở các
trường trung học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai 82
3.3 Mối quan hệ giữa các giải pháp được đề xuất 87
3.4 Thăm dò về sự cần thiết, tính khả thi của các giải pháp đề xuất 87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
PHỤ LỤC 102
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL Cán bộ quản lý
CNTT&TT Công nghệ thông tin và truyền thông
CSVC Cơ sở vật chất
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GV Giáo viên
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
v
HS Học sinh
PPDH Phương pháp dạy học
PTDH Phương tiện dạy học
QLGD Quản lý giáo dục
TBDH Thiết bị dạy học
THPT Trung học phổ thông
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1
Cấu trúc của các hình thức dạy học đa phương tiện
24

Bảng 2.1.
Chất lượng hai mặt của giáo dục tiểu học năm 2013-2014
43
Bảng 2.2.
Chất lượng hai mặt: Học lực - Hạnh kiểm THCS 2013 – 2014
44
Bảng 2.3.
Chất lượng hai mặt: Học lực - Hạnh kiểm trường THPT Trị
An 2013 – 2014
46
Bảng 2.4.
Chất lượng hai mặt: Học lực - Hạnh kiểm trường THPT Vĩnh
Cửu 2013 – 2014
47
Bảng 2.5.
Chất lượng hai mặt: Học lực - Hạnh kiểm trường THPT
Huỳnh Văn Nghệ 2013 – 2014
48
Bảng 2.6.
Số lượng, trình độ đào tạo của đội ngũ hiệu trưởng, phó hiệu
trưởng các trường THPT huyện Vĩnh Cửu năm học 2013-
49
vi
2014
Bảng 3.1.
Thăm dò về sự cần thiết của các giải pháp đã đề xuất
87
Bảng 3.2.
Thăm dò về tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất
88

vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập với nền kinh tế thế
giới và với mục tiêu để trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Do đó
công tác chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật đã trở thành
một yêu cầu bức thiết của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 2 khóa VIII của Đảng ta đã chỉ rõ:
“ Muốn tiến hành CNH,HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục
và đào tạo, phát huy nguồn lực của con người là yếu tố cơ bản của sự phát
tirển nhanh và bền vững “. Như vậy việc đầu tư cho giáo dục được Đảng và
Nhà nước coi trọng là quốc sách hàng đầu.
Trong thực tiễn, quá trình giáo dục và dạy học được cấu thành bởi nhiều
yếu tố, có liên quan chặt chẽ với nhau, tương tác nhau. Các yếu tố cấu thành
từ mục tiêu giáo dục đến nội dung, phương pháp, sự tham gia trong mối quan
hệ giáo dục là khi giáo viên và học sinh thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và học
tập. Để công tác giảng dạy và học tập có hiệu quả cao, đạt được mục tiêu,
nhiệm vụ giáo dục đã đề ra thì một yếu tố có ý nghĩa vô cùng quan trong cấu
thành trong mối quan hệ tương tác giữa dạy và học chính là cơ sở vật chất kỹ
thuật (các công trình nhà cửa, sân chơi, bãi tập, thiết bị giáo dục ). Trong
Luật Giáo dục (năm 2005, bổ sung năm 2009), mục tiêu giáo dục được xác
định: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri
thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã nêu lên mục tiêu tổng quát của giáo
dục nước ta đến năm 2020 là: Nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và
toàn diện theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm:
giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng

lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất
1
lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây
dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội
học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập.
Để thực hiện được mục tiêu nói trên, nguyên lý giáo dục đã được Đảng
ta xác định: thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu
khoa học, lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền
với gia đình và xã hội.
Mục tiêu, nguyên lý giáo dục đó phải được thể hiện trong toàn bộ quá
trình và các nội dung, phương diện của hoạt động giáo dục, hoạt động dạy
học. Quá trình giáo dục và dạy học được cấu thành bởi nhiều thành tố liên
quan có liên quan chặt chẽ và tương tác với nhau. Các thành tố đó là: mục
tiêu, nội dung, phương pháp, giáo viên, học sinh và phương tiện giáo dục như
cơ sở vật chất - kỹ thuật. Các yếu tố cơ bản này giúp thực hiện quá trình giáo
dục và dạy học. Cơ sở vật chất - kỹ thuật có mặt trong quá trình nêu trên có
vai trò và vị trí như các thành tố khác và không thể thiếu một thành tố nào.
Như vậy, cơ sở vật chất - kỹ thuật là một bộ phận, một thành tố không thể
thiếu được trong quá trình giáo dục và dạy học.
Nhiều văn kiện của Đảng đã chỉ rõ: Đổi mới phương pháp dạy và học,
phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực
hành, thưc nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt,
học chay. Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hóa nhà trường
(lớp học, sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm, máy tính nối mạng Internet,
thiết bị giảng dạy và học tập hiện đại, thư viện và ký túc xá. Điều 30, Luật
Giáo dục (năm 2005, bổ sung 2009) cũng đã xác định yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục phổ thông: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực

tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
2
Như vậy, trong thực tiễn giáo dục không thể đào tạo con người theo
yêu cầu nếu không có cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Điều đó có nghĩa,
cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học là yếu tố hết sức quan trọng tác động trực
tiếp đến quá trình dạy học.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2010-2020 với mục tiêu tổng quát:
“Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, đồng thuận, dân chủ, kỷ cương; đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ
quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển
cao hơn trong giai đoạn sau” [17], Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên là
khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng
giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, khả năng lập
nghiệp.” [17].
Một trong những điều kiện quyết định thành công mục tiêu của giáo
dục - đào tạo là phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học. Thiết bị dạy
học (TBDH) là một trong những thành tố không thể thiếu được trong quá
trình dạy học. Để nâng cao chất lượng dạy học thì vai trò, vị trí của TBDH là
rất quan trọng. TBDH là các phương tiện thực nghiệm, trực quan, thực hành
giúp người học “gắn” lí luận với thực tiễn, giúp cho quá trình nhận thức của
HS trở nên hiệu quả hơn, đồng thời phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là sử dụng có
hiệu quả các TBDH, đưa học sinh vào vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức.
Để TBDH phát huy được vai trò, vị trí của nó thì công tác quản lí TBDH

trong các nhà trường là vô cùng quan trọng.
3
Trong những năm gần đây, các trường trung học phổ thông (THPT)
trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai cũng như các trường THPT trên
toàn quốc đã và đang thực hiện chương trình đổi mới sách giáo khoa, đồng
thời tiếp nhận trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học của nhiều
chương trình dự án cấp quốc gia. Trên thực tế, hiệu quả quản lý đã có những
chuyển biến tích cực đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện ở các bậc học, trong đó có các trường THPT. Các trường đã có những
đổi mới nhất định về công tác quản lý TBDH nhưng kết quả đạt được chưa
cao, còn nhiều lúng túng, tùy tiện. Để tìm ra những biện pháp thiết thực, đồng
bộ giúp cho công tác quản lý giáo dục đạt hiệu quả nếu chỉ dựa vào kinh
nghiệm thì dù rất nỗ lực vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế.
Quản lý TBDH ở trường phổ thông là một bộ phận quan trọng đối với
công tác quản lý về GD&ĐT, góp phần quan trọng vào việc tạo lập một trình
tự quản lý khoa học ở mỗi trường học phổ thông của những nhà QLGD.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác quản lí TBDH của
các nhà trường cấp THPT, thực tế vẫn còn những hạn chế trở ngại trong việc
quản lý nhà nước về TBDH ở trường THPT trên địa bàn huyện từ cơ chế quản
lý, chính sách chưa hợp lý; tổ chức bộ máy và cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu
trong điều kiện hiện nay. Vì thế, công tác quản lý TBDH ở các trường THPT
huyện Vĩnh Cửu thời gian qua gặp nhiều khó khăn do công tác quản lý thiết
bị dạy học ở các trường THPT chưa khoa học, tổ chức thực hiện chưa đồng
bộ, công tác kiểm tra, đánh giá chưa được tiến hành thường xuyên, xử lí vi
phạm chưa kiên quyết, công tác mua sắm trang thiết bị phục vụ cho dạy học
chưa mang tính chiến lược, đầu tư mua sắm chất lượng thiết bị không đảm
bảo, công năng sử dụng còn nhiều bất hợp lý vừa thừa vừa thiếu, công tác bảo
dưỡng định kì chưa được thực hiện nghiêm túc, …
Đây là những vấn đề rất cơ bản và lâu dài, việc nghiên cứu để đề ra các
giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thiết bị dạy học ở các

trường THPT huyện Vĩnh Cửu , tỉnh Đồng Nai là cần thiết và cấp bách. Đó
cũng là lý do của việc chọn đề tài nghiên cứu "Một số giải pháp quản lý thiết
4
bị dạy học ở các trường trung học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng
Nai”
2. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, luận văn đề
xuất một số giải pháp quản lí TBDH ở các trường THPT huyện Vĩnh Cửu,
tỉnh Đồng Nai .
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lí TBDH ở các trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý TBDH ở các trường THPT huyện Vĩnh Cửu ,
tỉnh Đồng Nai .
4. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả sử dụng TBDH ở các trường THPT huyện Vĩnh Cửu, tỉnh
Đồng Nai sẽ được nâng cao nếu xây dựng được các giải pháp quản lý có tính
khoa học, tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn của nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của các giải pháp quản lý TBDH ở trường
THPT.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý TBDH ở các trường THPT
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất các giải pháp quản lí TBDH ở các trường THPT huyện Vĩnh
Cửu, tỉnh Đồng Nai.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc, phân tích, tổng hợp,
hệ thống hoá, khái quát hoá các tài liệu nhằm xác lập cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: được sử dụng để khảo

sát thực trạng, điều tra tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất
cũng như các vấn đề liên quan đến công tác quản lý TBDH ở trường THPT,
5
bao gồm các phương pháp cụ thể như: phương pháp quan sát, phương pháp
điều tra, phương pháp phỏng vấn, phương pháp chuyên gia.
6.3. Phương pháp thống kê: nhằm xử lý số liệu thu được trong quá
trình nghiên cứu các vấn đề của đề tài.
7. Những đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hoá một số lý luận về quản lý TBDH ở các trường
THPT.
- Đánh giá được thực trạng của công tác quản lí TBDH ở các trường
THPT huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất một số giải pháp quản lí TBDH ở các trường THPT huyện
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc quản lý thiết bị dạy học ở các trường
trung học phổ thông
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý thiết bị dạy học ở các trường
trung học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3. Một số giải pháp quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung
học phổ thông huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Nguyên lý giáo dục trong nhà trường là học đi đôi với hành, lý luận phải
đi đôi với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội. Lý luận và thực tiễn là hai

mặt của quá trình nhận thức. Lênin đã định nghĩa quá trình nhận thức biện
chứng như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý,
của nhận thức thực tại khách quan”. Lý thuyết phải đem vận dụng vào thực
tiễn và thông qua thực tiễn những vấn đề trong lý thuyết mới được chứng
minh và làm sáng tỏ một cách cụ thể. Nhận thức phải dựa trên thực tiễn.
Hiện nay giáo dục nước ta đang đổi mới một cách toàn diện từ mục
tiêu, nội dung đến PPDH Định hướng cơ bản của công cuộc đổi mới nền
giáo dục nước nhà đã chỉ rõ trong các Nghị quyết của Đảng, đó là: "Phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo
của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên"; "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD&ĐT, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học"[15]. Cơ
sở vật chất - thiết bị dạy học được xem như một trong những điều kiện quan
trọng để thực hiện nhiệm vụ dạy - học và nghiên cứu khoa học. Trong báo cáo
của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã nhấn mạnh: “Tăng cường CSVC – TBDH và từng bước hiện đại
hoá nhà trường (lớp học, sân chơi, bãi tập, máy tính nối mạng Internet, thiết bị
học tập giảng dạy hiện đại, các phòng thực hành thí nghiệm, phòng thực hành
chức năng, thư viện ” và “Đổi mới PPDH, phát huy tư duy sáng tạo và năng
lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá,
làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay” [16].
7
Theo tinh thần Nghị quyết của Đảng, Nhà nước sẽ tăng cường đầu tư
xây dựng CSVC-TBDH cho các trường học thành một hệ thống đồng bộ và
hiện đại góp phần đổi mới phương pháp dạy - học, nhằm đào tạo các học sinh
tốt nghiệp có đủ năng lực kỹ năng nghề nghiệp, đáp ứng đòi hỏi trước mắt và
lâu dài của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Các nhà kinh tế giáo dục học đã chứng minh hiệu quả của việc giáo dục

và đào tạo phụ thuộc một phần quan trọng vào trình độ cơ sở vật chất - kỹ
thuật của lao động sư phạm. Hai nhân tố hết sức quan trọng tác động mạnh
mẽ đến hiệu quả của giáo dục và đào tạo là trình độ, năng lực của giáo viên và
trình độ của cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường.
TBDH là một thành tố của quá trình dạy học, được hình thành và phát
triển cùng với lịch sử hình thành và phát triển của qúa trình dạy học. Lúc đầu
khi xã hội còn ở trình độ phát triển thấp nhà trường ở trạng thái đơn giản, cơ
sở vật chất và TBDH có nội hàm đơn giản. Khi kinh tế, xã hội và giáo dục
ngày càng phát triển thì TBDH ngày càng phát triển nhiều về số lượng, đa
dạng về mẫu mã và chủng loại, thì vấn đề đặt ra là làm sao để tổ chức quản lý
việc sử dụng TBDH cho hiệu quả. Đây là nhiệm vụ nặng nề đối với các cấp
quản lý giáo dục, mà trực tiếp là những nhà quản lý ở các cơ sở giáo
dục. Chính vì vậy, vấn đề quản lý cơ sở vật chất trường học nói chung và
quản lý việc sử dụng TBDH nói riêng đã được nhiều tổ chức và cá nhân
nghiên cứu.
Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về TBDH, quản lý và
sử dụng TBDH như "Phương tiện kỹ thuật dạy học và ứng dụng" – Nhà xuất
bản Đại học Minxcơ – 1985. Trong tài liệu này, tác giả đã đề cập nhiều đến vị
trí, vai trò, chức năng và các loại phương tiện kỹ thuật dạy học. Tài liệu cũng
đã nêu ra được những ứng dụng cụ thể, chi tiết của phương tiện kỹ thuật dạy
học trong quá trình dạy học. Tài liệu là cơ sở nghiên cứu cho lĩnh vực TBDH
và quản lý, sử dụng TBDH ở nước ta. Tuy nhiên tài liệu này mang tính tổng
quát, khó vận dụng vào tình hình thực tế của giáo dục Việt Nam [28].
8
Tổ chức lao động quốc tế ADB/ILO (Evaluation Rating creteria for the
VTE Istitution. ADB/ILO – Bangkok 1997) đưa ra 9 tiêu chuẩn và điểm đánh
giá cơ sở giáo dục – đào tạo để kiểm định các nước thuộc tiểu vùng sông
Mekong thì trong đó các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất - kỹ thuật chiếm
125/500 điểm.
Country Report on Quality Assurance in Higher Education, Bangkok -

Thailand, 1998, đưa ra tỉ lệ đánh giá các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo
dục của Malaysia thì điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công
tác đào tạo chiếm 20% tổng điểm đánh giá chung.
Riêng ở nước ta, khi tổng kết kinh nghiệm các trường tiên tiến ngành
giáo dục cũng đã khẳng định rằng cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học là một
trong các yếu tố hết sức quan trọng. Thực tiễn giáo dục của các nước trên thế
giới và nước ta cho rằng đào tạo con người mới đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao, ngày càng đa dạng nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tất yếu phải có những cơ
sở vật chất - kỹ thuật tương ứng.
Về mục tiêu chung của cơ sở vật chất - kỹ thuật tập trung vào ba nội
dung cơ bản sau:
- Xây dựng hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng các yêu cầu cho
giáo dục phổ thông
- Sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật đạt hiệu quả cao
- Bảo đảm hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật theo đúng các quy định của
nhà nước.
Ở trong nước: Năm 2001, Nhà xuất bản Hà Nội cũng xuất bản "Tài liệu
khoá tập huấn của Dự án Việt Úc". Năm 2006, Nhà xuất bản Hà Nội đã xuất
bản cuốn "Quản lý và sử dụng nhằm tăng cường hiệu quả TBDH" đưa ra
được một số phương pháp quản lý cũng như sử dụng TBDH vào giảng dạy để
đạt hiệu quả cao. Tác giả Phan Văn Triển đã có công trình đăng trên tạp chí
Thiết bị giáo dục số 1 cũng đã bàn về một số giải pháp tăng cường hiệu quả
sử dụng thiết bị dạy học[13].
9
Tác giả Đặng Quốc Bảo, với đề tài: “Các biện pháp quản lý của hiệu
trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ
cho việc dạy và học ở trường THPT công lập Thành phố Hồ Chí Minh” [2],
đã khảo sát và phân tích thực trạng quản lý cơ sở vật chất – kỹ thuật ở một số
trường tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý của

hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất – kỹ thuật phục
vụ cho việc dạy và học ở trường THPT công lập tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trong công trình “Phương tiện dạy học hướng dẫn chế tạo và sử dụng”,
tác giả Tô Xuân Giáp đã đưa ra những cơ sở phân loại và phân loại phương
tiện dạy học, cách thức lựa chọn, thiết kế, chế tạo, sử dụng phương tiện dạy
học và các điều kiện để đảm bảo sử dụng có hiệu quả phương tiện dạy học.
Theo tác giả: “Phương tiện dạy học được sử dụng đúng, có tác dụng làm tăng
hiệu quả sư phạm của nội dung và phương pháp dạy học lên rất nhiều” [20] .
Trong cuốn “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc xây dựng sử
dụng cơ sở vật chất và TBDH ở trường phổ thông Việt Nam” [20] (Trần Quốc
Đắc chủ biên) đã đưa ra các quan điểm làm cơ sở cho việc sử dụng TBDH,
xác định vị trí, vai trò của cơ sở vật chất TBDH ở trường phổ thông.
Trong cuốn “Quản lý giáo dục” [22] (Bùi Minh Hiền chủ biên) đã đề
cập đến các vấn đề lí luận về vai trò của TBDH trong sự phát triển hệ thống
giáo dục quốc dân, phân loại các nhóm TBDH mà người quản lý cần bao quát
và đưa ra một số nguyên tắc và giải pháp quản lý TBDH ở nhà trường THPT
trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết “Nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH trường THCS” của tác giả
Trần Đức Vượng (Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục), qua khảo sát
việc sử dụng TBDH ở nhiều địa phương, đã rút ra một số nguyên nhân dẫn
đến sử dụng không hiệu quả TBDH như: trình độ sử dụng TBDH của giáo
viên còn thấp, đội ngũ quản lý giáo dục ở một vài địa phương chưa thật sự
chú trọng chỉ đạo việc sử dụng có hiệu quả TBDH …”[42]. Đồng thời tác giả
cũng đã đề ra một số các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH.
10
Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu về lí
luận và thực tiễn, đồng thời đề ra các giải pháp về quản lý cơ sở vật chất – kỹ
thuật trường học, quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất – kỹ thuật
trường học hoặc đi sâu vào nghiên cứu sử dụng một loại phương tiện cụ thể
để giảng dạy một môn học cụ thể, vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn đề quản

lý việc sử dụng TBDH của giáo viên các trường THPT huyện Vĩnh Cửu tỉnh
Đồng Nai.
Các công trình nghiên cứu trên đã nêu được vai trò, vị trí, chức năng
của TBDH, cách sử dụng TBDH đạt hiệu quả và góp phần đổi mới phương
pháp giảng dạy ở các cấp học khác nhau từ phổ thông đến đại học. Tuy nhiên,
với thực trạng CSVC hiện có của các nhà trường và các TBDH được cấp theo
các dự án giáo dục quốc gia, song song với việc tiếp tục đầu tư, nâng cấp
CSVC-TBDH, các trường THPT trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu , tỉnh Đồng
Nai cần phải tăng cường công tác quản lý CSVC-TBDH nhằm quản lý và sử
dụng các TBDH, CSVC một cách hiệu quả và tiết kiệm.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lí, quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là một khái niệm hình thành ngay từ buổi sơ khai của xã hội
loài người. Trong quá trình lao động, cải tạo thiên nhiên để sinh tồn và phát
triển, con người phải kết hợp với nhau thành từng nhóm (tổ chức) để cùng
thực hiện mục tiêu của nhóm hay tổ chức. Vì thế phải có người đứng đầu (thủ
lĩnh) đứng ra phối hợp hoạt động của các cá nhân, điều hành, phân công lao
động cho từng thành viên trong tổ chức. Người đứng đầu phải biết cách tổ
chức, phối hợp sức mạnh của mọi người trong nhóm và mọi người trong
nhóm phải phục tùng và tuân theo mệnh lệnh của người đứng đầu, từ đó quản
lý ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước.
Quản lý về cơ bản và trước hết là tác động đến con người để họ thực
hiện, hoàn thành những công việc được giao; để họ làm những điều bổ ích, có
lợi. Điều đó đòi hỏi ta phải hiểu rõ và sâu sắc về con người như: cấu tạo thể
11
chất, những nhu cầu, các yếu tố năng lực, các quy luật tham gia hoạt động
( tích cực, tiêu cực). xét trên phương diện nghĩa của từ, quản lý thường được
hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó.
Quản lý là một dạng lao động xã hội, gắn liền và phát triển cùng với sự

phát triển của con người. Quản lý là lao động đặc biệt, điều khiển các hoạt
động lao động, có tính khoa học và nghệ thuật cao nhưng đồng thời cũng là
sản phẩm mang tính lịch sử, tính đặc thù. Khi đề cập cơ sở khoa học của quản
lý, C.Mác viết: "Bất cứ lao động nào có tính xã hội, cộng đồng được thực hiện
ở quy mô nhất định đều cần ở một chừng mực nhất định. Sự quản lý giống
như người chơi vĩ cầm một mình thì tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc
thì phải có nhạc trưởng"[11].
Ở đây, ta có thể nêu lên một số khái niệm quản lý như sau:
Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì
và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .
Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh
nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp
con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó
không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự
logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
Fredevinh Wiliam Duylor (1886-1915) người Mỹ; Henri Fayol (1841-
1925) người Pháp; Max Weber (1861-1920) người Đức đều khẳng định: Quản
lý là một khoa học đồng thời là một nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển của xã
hội.
Theo Kozlova O.V và Kuznétov I.N: Quản lí là sự tác động có mục
đích đến những tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ
trong quá trình sản xuất [23].
12
Theo từ điển tiếng Việt: Quản lý là tổ chức, điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định [41].
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: Quản lý là một quá trình

định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định [31]. Theo tác giả Trần Kiểm: Quản lý nhằm phối
hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành
thành tựu của xã hội [25]. Theo tác giả Thái Văn Thành: Quản lý là sự tác
động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm đạt được mục tiêu đề ra [37].
Như vậy, có thể nói: Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt
động của những người cộng sự khác nhau cùng chung một tổ chức; Quản lý là
những tác động có mục đích lên những tập thể người, thành tố cơ bản của hệ
thống xã hội; Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
Quản lý ngày nay được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế-
xã hội, bao gồm: vốn, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, tài nguyên và quản
lý. Trong đó quản lý có vai trò mang tính quyết định sự thành công.
Tóm lại: Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ
huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi, hoạt động của con
người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp quy luật
khách quan.
: Quản lý có 4 chức năng cơ bản, đó là:
- Chức năng kế hoạch: là công tác xác định trước mục tiêu của tổ chức,
đồng thời chỉ ra các phương pháp, biện pháp để thực hiện mục tiêu, trong điều
kiện biến động của môi trường. Thực hiện chức năng kế hoạch là trả lời các
câu hỏi: Hiện nay chúng ta đang ở đâu? Chúng ta muốn đi đến đâu? Cần phải
làm gì để đi đến đó?
- Chức năng tổ chức: Là việc sáp xếp, phân công các nhiệm vụ, các
nguồn lực (con người, các nguồn lực khác) một cách tối ưu, nhằm làm cho tổ
chức vận hành theo kế hoạch, đạt được mục tiêu đề ra.
13
- Chức năng chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý
nhằm điều hành tổ chức vận hành đúng kế hoạch, thực hiện được mục tiêu
quản lý.

- Chức năng kiểm tra: là phương thức tác động của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm thu thập thông tin phản hồi, đánh giá và xử lý các kết
quả vận hành của tổ chức, từ đó ra các quyết định quản lý điều chỉnh nhằm
thực hiện được mục tiêu đề ra.
Bốn chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một
chu trình quản lý như sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các chức năng của quản lý

1.2.1.2. Quản lý giáo dục
- Theo P.V. Khuđôminxky: "QLGD là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các
khâu của hệ thống giáo dục (từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến trường học)
nhằm đảm bảo cho việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo
cho sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng
Kế hoạch
Thông tin quản lý
và quyết định quản

Chỉ đạo
Tổ chức
Kiểm tra
14
các quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình
dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý trẻ em" [2].
- Theo M.M. Mechiti Zade: "QLGD là tập hợp những biện pháp (tổ
chức, phương pháp, cán bộ giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu, )
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng
cũng như chất lượng" [2].
- Nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường (QLGD nói

chung) là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới
mục tiêu giáo dục – đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học
sinh."
- Tác giả Đặng Quốc Bảo: "QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động
điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội"
Tóm lại: QLGD là những tác động có tổ chức, có định hướng phù hợp
với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa
hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ thống giáo dục đạt tới mục
tiêu đã định.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Trong Điều 19 Điều lệ trường THPT có quy định về chức năng quyền
hạn và nhiệm vụ của hiệu trưởng trường THPT như sau:
a) Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
b) Thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường được quy định tại
khoản 3 Điều 20 của Điều lệ này;
c) Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước
Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền;
15
d) Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn
trong nhà trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó; đề xuất các thành viên của Hội
đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định;
đ) Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công
tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen
thưởng, kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên; thực hiện việc tuyển dụng giáo
viên, nhân viên; ký hợp đồng lao động; tiếp nhận, điều động giáo viên, nhân
viên theo quy định của Nhà nước;
e) Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức;

xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận
hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh tiểu học (nếu có) của trường phổ
thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh;
g) Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
h) Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên,
nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của
nhà trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường;
i) Chỉ đạo thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động của
ngành; thực hiện công khai đối với nhà trường;
k) Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Trong công tác quản lý thiết bị dạy học hiệu trưởng cần phải đảm bảo
các nguyên tắc và yêu cầu sau:
- Yêu cầu về nhận thức: Phải nhận thức được hệ thống thiết bị dạy học
là tài sản quan trọng của nhà trường được trang bị từ mọi nguồn. Do đó phải
làm cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên và các em học sinh có trách nhiệm
giữ gìn và bảo quản tốt khi sử dụng những tài sản đó.
Chống lại các tư tưởng chủ quan, giản đơn, phiến diện không coi trọng
thiết bị dạy học.
16
Nắm vững quan điểm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, phát huy tính,
chủ động, năng động sáng tạo của giáo viên, khắc phục kịp thời hiện tượng
“dạy chay”.
- Yêu cầu về quản lý và sử dụng thiết bị dạy học: Đảm bảo tất cả thiết bị
dạy học của trường phải được sắp đặt khoa học, dễ sử dụng và có các phương
tiện bảo quản, vật che phủ, phương tiện chống ẩm, mối, mọt, dụng cụ phòng
cháy, chữa cháy tốt.
Tùy theo tính chất, quy mô thiết bị mà bố trí diện tích phòng và địa điểm
cho phù hợp, bảo đảm cho giáo viên và học sinh đi lại thuận tiện và an toàn
khi sử dụng.

Các thí nghiệm có độc hại, gây tiếng ồn phải được bố trí xa khu học tập,
phải có hệ thống xử lý nước thải theo tiêu chuẩn quy định và có trang bị bảo
hộ cho giáo viên và học sinh trong quá trình thực hiện để bảo đảm an toàn lao
động và vệ sinh môi trường.
Thiết bị dạy học phải được sử dụng có hiệu quả cao nhất, đáp ứng được
các yêu cầu về nội dung và phương pháp được quy định trong chương trình
giáo dục mà Bộ giáo dục đã qui định.
Thiết bị dạy học phải được làm sạch và bảo quản ngay sau khi sử dụng,
và phải được bảo dưỡng định kỳ, bổ sung phụ tùng, vật tư tiêu hao.
Hằng năm phải tiến hành kiểm kê theo đúng quy định của Nhà nước về
quản lý tài sản, có thể kiểm kê bất thường khi cần thiết.
- Trách nhiệm của hiệu trưởng: Hiệu trưởng phải nhận thức sâu sắc
rằng: hệ thống thiết bị dạy học là tài sản quan trọng của nhà trường, do nhà
trường quản lý và sử dụng dể thực hiện nhiệm vụ giáo dục.
1.2.2. Thiết bị dạy học và quản lý thiết bị dạy học
1.2.2.1. Thiết bị dạy học
Theo Điều 27 Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì mục
tiêu của giáo dục phổ thông:
- Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng
17
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
- Giáo dục THCS nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu

biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp,
học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
- Giáo dục THPT nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết
thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá
nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp,
học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Với mục tiêu đã đặt ra như trên thì TBDH là nhân tố quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu giáo dục của bậc học phổ thông, trang bị những cơ sở
ban đầu hết sức trọng yếu nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam
trong tương lai.
Theo Lotx Klinbơ (Đức) thì TBDH (hay còn gọi là đồ dùng dạy học,
dụng cụ, ) là tất cả phương tiện vật chất cần thiết cho GV và HS để tổ chức
hợp lý, thực hiện có hiệu quả quá trình giáo dưỡng và giáo dục tại các cơ sở
đào tạo [3].
Theo các nhà nghiên cứu giáo dục của Việt Nam: TBDH là thuật ngữ
chỉ một vật thể hoặc một tập hợp đối tượng vật chất mà người GV sử dụng
với tư cách là phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của HS, còn đối
với người học thì đó là các nguồn tri thức, là các phương tiện giúp HS lĩnh hội
các khái niệm, định luật, học thuyết, hình thành ở họ các kỹ năng, kỹ xảo
đảm bảo phục vụ mục đích dạy học[3], [25], [32].
18

×