Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường đại học sư phạm thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH





NGUYỄN THỊ LÀ





MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC










NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH





NGUYỄN THỊ LÀ




MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.01.14


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC





Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. THÁI VĂN THÀNH




NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Thầy giáo PGS. TS. Thái Văn Thành - Phó Hiệu trưởng trường Đại
học Vinh, đã giao đề tài, tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
- Tôi cũng xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Lãnh đạo Phòng Sau Đại học,
Phòng công tác chính trị - Học sinh Sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh, bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã
động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được nhận những ý kiến đóng góp, bổ sung của quý
Thầy/Cô cùng các đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014



Nguyễn Thị Là
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT
Đại học
ĐH
Đại học Sư phạm
ĐHSP
Đạo đức
ĐĐ
Đạo đức nghề nghiệp
ĐĐNN
Giáo dục
GD
Giáo dục đại học
GDĐH
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
GDĐĐNN
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp sinh viên
sư phạm
GDĐĐNNSVSP
Quản lý giáo dục
QLGD
Quản lý giáo dục đạo đức
QLGDĐĐ
Quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp
QLGDĐĐNN
Quản lý nhà trường
QLNT
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
RLNVSP



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 5
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 5
4. Giả thuyết khoa học 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
6. Phạm vi nghiên cứu 6
7. Phương pháp nghiên cứu 6
8. Đóng góp của đề tài 7
9. Cấu trúc của luận văn 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 8
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
1.1.1. Trên thế giới 8
1.1.2. Ở Việt Nam 9
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 12
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường 12
1.2.2. Giáo dục đạo đức và đạo đức nghề nghiệp 16
1.2.3. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đại học sư phạm 24
1.2.4. Giải pháp và giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên đại học sư phạm 26
1.3. Nội dung một số vấn đề về giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên đại học sư phạm 27
1.3.1. Đặc điểm nghề sư phạm 27
1.3.2. Ý nghĩa 29

1.3.3. Nội dung, phương pháp, con đường giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên đại học sư phạm 36

1.4. Một số vấn đề về quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên đại học sư phạm 41
1.4.1. Tầm quan trọng QLGDĐĐNN cho sinh viên ĐH sư phạm 41
1.4.2. Nội dung QLGDĐĐNN cho sinh viên đại học sư phạm 42
1.4.3. Phương pháp QLGDĐĐNN cho sinh viên đại học sư phạm 43
1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên đại học sư phạm 46
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 51
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 53
2.1. Khái quát về tình hình hoạt động và quy mô đào tạo của trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh 53
2.2. Khái quát về điều tra thực trạng 58
2.2.1. Mục đích điều tra 58
2.2.2. Nội dung điều tra 58
2.2.3. Đối tượng điều tra 59
2.2.4. Phương pháp điều tra 60
2.3. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 60
2.3.1. Nhận thức của cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh và một số đại diện trường THPT 60
2.3.2. Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh 63
2.4. Thực trạng quản lý công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 64

2.4.1. Xây dựng kế hoạch công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên sư phạm 68
2.4.2. Tổ chức công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên

sư phạm 69
2.4.3. Chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
sư phạm 71
2.4.4. Kiểm tra, đánh giá công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên sư phạm 72
2.5. Đánh giá chung về thực trạng quản lý công tác quản lý giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh 73
2.5.1. Đánh giá thực trạng 73
2.5.2. Nguyên nhân thực trạng 77
2.5.3. Thuận lợi, khó khăn trong quản lý công tác giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh 79
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 80
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 83
3.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp 83
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu 83
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn 83
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả 84
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi 85
3.2. Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh 86

3.2.1. Nâng cao nhận thức về đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên 86
3.2.2. Đưa nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp vào chương
trình đào tạo 89
3.2.3. Tăng cường giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên qua
hoạt động dạy học ở trên lớp 90

3.2.4. Tăng cường giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên qua
hoạt động kiến tập, thực tập sư phạm 91
3.2.5. Tăng cường giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đại
học sư phạm trong hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội 92
3.2.6. Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong hoạt
động học tập và sinh hoạt ở ký túc xá sinh viên 93
3.2.7. Phát huy vai trò tự rèn luyện, tu dưỡng của sinh viên 94
3.3. Thăm dò sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 95
3.3.1. Mục đích thăm dò 95
3.3.2. Nội dung thăm dò 95
3.3.3. Phương pháp thăm dò 95
3.3.4. Kết quả thăm dò 96
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 97
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 98
1. Kết luận 98
2. Kiến nghị 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
PHỤ LỤC 105
1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Phát triển nguồn lực con người là phát triển Đức và Tài, hai mặt của
nhân cách mà nhà trường giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành nhân
cách. Luật Giáo dục đại học tại điều 5, mục b ghi: “Mc tiêu của gio dc đại
học l đo tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ
năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dng
khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đo tạo; có sức khỏe; có khả
năng sng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm

việc; có ý thức phc v nhân dân.”
Giáo dục và đào tạo là một hoạt động có tổ chức của xã hội, nhằm bồi
dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực con người cho mỗi công dân
(cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức khoẻ và nghề nghiệp). Trong quá
trình giáo dục ở nhà trường, nhiệm vụ giáo dục tri thức luôn phải gắn với
nhiệm vụ giáo dục đạo đức. Thông qua “dạy chữ” để “dạy người”, giáo dục
đạo đức là một khâu then chốt để giáo dục nhân cách con người. Đạo đức là
tổng hợp các quy tắc, tiêu chuẩn chỉ đạo mối quan hệ giữa con người với nhau
trong một cộng đồng, một xã hội nói chung. Cho dù ở giai đoạn nào của lịch
sử thì nét chung của đạo đức vẫn là hướng tới cái thiện, chống lại cái ác,
hướng tới quan hệ đẹp đẽ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên và xã hội, đồng thời cũng khẳng định sự tu dưỡng, tự giáo dục của
chính mỗi cá nhân. Trong nền giáo dục từ xa xưa, ông cha ta vẫn rất đề cao và
coi trọng giáo dục đạo đức của con người “Tiên học lễ, hậu học văn”, phải
chăng “lễ” là đức dục, là nền tảng cho sự phát triển và tài năng của con người.
Lúc sinh thời Hồ Chủ tịch rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo
2
đức cho thế hệ trẻ. Bác nói: “Có Đức mà không có Tài thì làm việc gì cũng
khó, có Tài mà không có Đức là người vô dụng’’. Bác cũng chỉ rõ “Dạy cũng
như Học phải chú trọng cả Đức lẫn Tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái
gốc rất quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức trong trường học là một bộ
phận quan trọng có tính chất nền tảng của nhà trường XHCN”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ phương hướng phát
triển giáo dục - đào tạo giai đoạn 2011 - 2015 và chiến lược phát triển giáo
dục 2011 - 2020 nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước, là ‘‘ nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo
dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách
nhiệm xã hội…Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có

cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với
cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân
lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo’’.
Để phát triển giáo dục và đào tạo đạt hiệu quả cao, trước tiên phải nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Giáo viên ở bất kỳ cấp học nào, bậc học nào
cũng là người giữ trọng trách trước một thế hệ. Việc hình thành những phẩm
chất đạo đức của người thầy giáo cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ
rất quan trọng của nhà trường sư phạm cần được quan tâm ngay từ khi họ
bước vào trường vì: “Tri thức có thể có được bằng cách luyện cấp tốc trong
một thời gian ngắn nhưng phẩm chất kỹ năng nghề nghiệp thì không thể có
được trong ngày một ngày hai Những phẩm chất đó muốn có phải được tổ
chức giáo dục chặt chẽ ngay từ khi sinh viên mới bước vào trường”.
Ngày 4 tháng 11 năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban
hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI về
3
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, trong đó có nội dung: “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội”.
Luật giáo dục của nhà nước ta xác định nội dung giáo dục là: “Phải tập
trung vào đào tạo năng lực nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức nhằm đạt
mục tiêu người lao động vừa có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, vừa có đạo
đức, lương tâm nghề nghiệp”.
Với những ý nghĩa trên, nghề dạy học đòi hỏi rất cao yêu cầu cả về phẩm
chất và năng lực, người giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo. Chính vì thế những sinh viên sư phạm, những người thầy giáo, cô giáo
trong tương lai cần phải học tập, rèn luyện để có những phẩm chất đạo đức,
năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của người giáo viên trong giai

đoạn cách mạng mới.
1.2. Về mặt thực tiễn
Trong xu thế hội nhập quốc tế, mặt trái của nó cũng len lỏi, xâm nhập
vào tầng lớp sinh viên, khiến cho một bộ phận sinh viên sa sút về đạo đức, mờ
nhạt về lý tưởng và hoài bão ước mơ Những tệ nạn xã hội đã gây không ít
tác hại đối với sinh viên làm ảnh hưởng tới chất lượng, uy tín của các nhà
trường sư phạm. Việc giáo dục đạo đức cho sinh viên mặc dù đã được chú ý
nhưng chưa đổi mới thường xuyên, nội dung nghèo nàn, thực hiện chưa đồng
bộ. Quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm nói chung và trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh nói riêng cũng nặng về trang bị, cung cấp
kiến thức khoa học chưa chú ý rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp và những phẩm
chất đạo đức của người giáo viên. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
4
đào tạo giáo viên, các trường sư phạm cần quan tâm hơn nữa đến việc giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên thông qua các môn học. Muốn dạy
học tốt trước hết phải có tâm hồn đẹp. Tu dưỡng về nghề căn bản nhất và
cũng gian khổ nhất là luyện tâm hồn. Không có tâm hồn đẹp khó dạy học sinh
thành công. Quá trình luyện tâm hồn phải song song với quá trình luyện tay
nghề. Nói cách khác “hồng thắm” phải tiến hành cùng lúc với “chuyên sâu”.
Việc thực hiện tốt Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về “Chống tiêu cực
và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục - đào tạo”; cùng với cuộc vận
động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”
của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thu hút được sự hưởng ứng rộng khắp toàn
ngành và của toàn xã hội. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành “Quy định về
đạo đức nhà giáo”, đây là cơ sở để mọi nhà giáo nỗ lực học tập, tu dưỡng rèn
luyện đạo đức, lối sống đáp ứng yêu cầu của nghề dạy học được xã hội tôn
vinh; đồng thời là cơ sở để giáo dục ĐĐNN cho học sinh, sinh viên trong
các nhà trường sư phạm. Vấn đề đạo đức của nhà giáo được cả xã hội quan
tâm và trở thành yêu cầu bức thiết đặt ra đối với quá trình đào tạo giáo viên,
trong đó có đào tạo giáo viên ở trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

hiện nay.
Khi bàn đến vị trí vai trò của người giáo viên trong sự nghiệp giáo dục,
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Không có giáo viên tốt, thì không có
nhà trường tốt, không có giáo dục tốt, không có giáo viên viên giỏi thì không
có học sinh giỏi, không có chất lượng giáo dục cao”. Chính vì vậy, ĐĐNN có
vai trò cốt lõi trong nhân cách người giáo viên. Nghề sư phạm đòi hỏi người
hành nghề phải có ĐĐNN cao mới hoàn thành sứ mệnh của giáo dục. Do đó,
có thể thấy ĐĐNN của nhà giáo phải được tu dưỡng trong quá trình hành
nghề, nhưng trước hết cần được hình thành những cơ sở căn bản ngay trong
quá trình là sinh viên được học tập, rèn luyện ở môi trường sư phạm.
5
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh hiện đang đảm nhận đào tạo
31 ngành trình độ Đại học, trong đó có 19 ngành sư phạm, 12 ngành ngoài sư
phạm; 19 chuyên ngành thạc sĩ, 7 chuyên ngành tiến sĩ. Trong sự phát triển đa
ngành của nhà trường, đào tạo sư phạm được coi là ngành thương hiệu của
nhà trường với truyền thống hơn 38 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển
đào tạo bậc đại học sư phạm. Với quy mô phát triển lớn mạnh, đặc biệt sự
phát triển của sinh viên sư phạm luôn là nòng cốt trong nhà trường. Do vậy,
trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc chú trọng, chăm lo cho thế hệ sinh
viên phát triển về năng lực trí tuệ, thì việc GDĐĐNN cho sinh viên của
trường cũng là vấn đề mang tính cấp thiết. Tôi luôn nhận thức được vai trò
quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho sinh viên, đào tạo sinh viên
vừa có kiến thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, vừa phải có đạo đức
tốt. Đặc biệt là giúp những giáo sinh yên tâm với nghề mình đã chọn, để họ có
thể trở thành những thầy giáo, cô giáo giảng dạy vừa có Đức, vừa có Tài, gắn
bó cả đời mình với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu “Một số giải pháp
quản lý công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu

Thấy được thực trạng của công tác quản lý GDĐĐNN và đề xuất một
số giải pháp quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh viên trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác GDĐĐNN cho sinh viên đại học sư phạm.
32. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp quản lý công tác GDĐĐNN
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
6
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một số giải pháp có tính khoa học và khả thi, thì có thể
nâng cao hiệu quả quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh viên trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh
viên đại học sư phạm.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh
viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
6. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt chú trọng
SV những năm cuối.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các nhóm phương
pháp nghiêu cứu chủ yếu sau đây:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và quản lý giáo
dục: Quan sát, thực nghiệm, phỏng vấn,
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Tập hợp, phân loại tài
liệu, nghiên cứu các tài liệu, văn bản của Đảng, của Nhà nước, của Ngành

giáo dục và các luận văn, luận án có liên quan để tổng thuật, xây dựng cơ sở
lý luận cho đề tài.
7.3. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, điều tra
tình hình thực tiễn, đàm thoại, phỏng vấn, thu thập thông tin, hỏi ý kiến
chuyên gia.
7.4. Nhóm các phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu.
7
8. Đóng góp của đề tài
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về quản lý
công tác GDĐĐNN nói chung và cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh nói riêng.
- Luận văn khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác GDĐĐNN
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, chỉ ra những ưu
điểm và những bất cập, tồn tại của công tác này trong thời gian qua.
- Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn tại trường Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất một số giải pháp có tính khoa học và khả thi
về việc quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh viên sư phạm, nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp và giáo dục toàn diện của trường.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh viên
đại học sư phạm.
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác GDĐĐNN cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.








8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được hình thành rất sớm trong
lịch sử phát triển nhân loại và được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại
quan tâm. Trong bất cứ xã hội nào, thời đại nào cũng đều tồn tại mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Tùy theo trình độ phát triển
xã hội mà những lợi ích của cá nhân phù hợp ít hay nhiều với lợi ích của xã
hội. Giáo dục đạo đức cho con người là vấn đề đã được đặt ra từ xa xưa và
luôn được đổi mới để thích ứng với thực tiễn của thời đại.
Khổng Tử (551- 479) là người sáng lập ra thuyết đạo đức của Nho giáo.
Theo ông Nhân- Nghĩa là giường cột của đạo đức, nhân nghĩa được đánh giá
theo hành vi. Bàn về vấn đề vai trò của Nho giáo đối với đời sống xã hội và
giáo dục, tác giả Quang Đạm đã viết: “Nho giáo đã có những cố gắng to lớn
bền bỉ, có những cống hiến tích cực trong việc khuyên bảo dạy dỗ cho con
người yêu thương đồng loại, cho con người có quan hệ tốt với nhau: Đạo đức
Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín và Hiếu lễ tuy có phần mơ hồ do hạn chế của
những điều kiện lịch sử đương thời, đều biểu thị rõ tinh thần và ý chí tốt lành
thiết tha mong muốn làm cho con người tránh được, bớt được đau khổ”[10].
Ở Phương Tây, trước công nguyên có nhiều nhà triết học quan tâm đến
vấn đề đạo đức. Nhà triết học Xôcrát (470-399) hướng triết học vào việc giáo
dục con người sống có đạo đức. Ông cho rằng: “Nguyên nhân sâu xa của hành

vi có hay không có đạo đức là do nhận thức”. Arixtốt thì xem đạo đức và
chính trị là triết học về con người. Đạo đức là cái thiện của cá nhân, còn chính
9
trị là cái thiện của xã hội. Sau này trên thế giới có nhiều triết gia, nhiều nhà
giáo dục khác bàn về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Trong đó phải kể
đến nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc J.A.Komenxky (1592- 1670). Theo
ông:“Việc trau dồi đức hạnh cần phải bắt đầu từ lúc còn thơ, trước khi tâm
hồn bị hoen ố” và “Đức hạnh của người có thể trau dồi được bằng cách luôn
luôn xử sự chân chính’’ [21, tr.106]. Trong các phương pháp giáo dục sinh
động của mình, ông đề cao giáo dục động cơ và hành vi đạo đức.
Những thập kỷ gần đây, vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ
trẻ thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục. Có thể
kể đến các công trình sau:
- Năm (1977- 1978), trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên của
Bungari trong chương trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh
niên đã đề cập nhiều đến vấn đề định hướng giá trị cho thanh niên trong đó có
giá trị đạo đức.
- Năm 1979 Nhà xuất bản Matxcơva xuất bản cuốn “Giáo dc đạo đức
học sinh - những vấn đề lý luận” của N.I Bônđưrép đề cập đến vấn đề lý luận
giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên.
- Năm (1986 - 1987) theo đề nghị của UNESCO đã có cuộc điều tra quốc
tế về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI nhằm mục
đích nghiên cứu các vấn đề về giá trị đạo đức và giáo dục về giá trị đạo đức.
Đáng kể đến là tài liệu “Giá trị trong hnh động” của trung tâm Canh Tân và
công nghệ giáo dục thuộc tổ chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á, xuất bản
năm 1992. Tài liệu trình bày về vấn đề đưa giáo dục giá trị đạo đức vào nhà
trường và cộng đồng các nước Inđônêxia, Philippin, Malaysia và Thái Lan.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có hơn một trăm cuốn sách về giáo dục đạo đức. Nội dung
sách dạy làm người và bổn phận của mỗi người đối với xã hội, cách giao tiếp

10
trong xã hội, thể hiện qua các tựa đề sách như: Huấn nữ ca; Thơ dạy làm dâu;
Gia huấn ca; Phong hóa tập; Phong hóa lễ nghi; Tập lễ phép; Phải trái ở đời;
Lời mẹ dạy con; Đạo đức và luân lý; Mấy lời khuyên học trò…Trong số những
tác giả viết loại sách này phải kể đến cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
Cụ Phan Bội Châu khi viết “Khổng đăng học”, cụ đã rút ra 6 tính tốt
cần rèn luyện gọi là lục ngôn: Nhân, Trí, Tín, Trực, Dũng, Cương, trong
thời đại ấy việc giáo dục 6 đức tính đó có tác dụng như sự rèn luyện bản
lĩnh cho con người.
Cụ Phan Chu Trinh trong bài “Đạo đức và luân lý” đã tìm ra sức mạnh
cho dân cho nước ở sức mạnh đạo đức, nhân cách, bản lĩnh con người. Theo
Cụ từ xưa đến nay bất cứ dân tộc nào đã đứng cạnh tranh hơn thua với các
dân tộc trên thế giới thì chẳng những nhờ sức mạnh mà phải nhờ có đạo đức
làm gốc nữa. Nhất là dân tộc nào đã bị té nhào xuống nay muốn đứng lên khỏi
bị người ta đi lên trên thì lại phải có một nền đạo đức vững chắc hơn dân tộc
đang giàu mạnh hơn mình.
Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nghiên cứu về vấn đề đạo đức
và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức của Người cụ thể và gần gũi với mọi
đối tượng. Đối với trẻ thơ, Bác chỉ mong chúng “…biết ăn biết ngủ, biết học
hành là ngoan”. Với thiếu niên, nhi đồng, Bác dạy thành 5 điều. Bác dạy mỗi
công dân nói chung phải tuân theo pháp luật, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự,
hăng hái lao động sản xuất, tiết kiệm …đối với các chiến sĩ trong quân đội,
Bác dạy phải “Trung với nước, hiếu với dân , nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đối với lực lượng
công an, Bác dạy thành 6 điều theo 6 mối quan hệ với bản thân, với đồng sự,
với chính phủ, với nhân dân, với công việc và với cả kẻ địch. Còn đối với
người Đảng viên, cán bộ, Bác dạy phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô
tư ”. Tư tưởng đạo đức của Bác Hồ thật gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện nhưng
11
cũng rất chặt chẽ, toàn diện và sâu sắc. Bên cạnh đó cũng có một số tác giả

khác nghiên cứu về đạo đức trong mối quan hệ với văn hóa, giá trị truyền
thống, lối sống…như Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Trần Ngọc Thêm,…
Trong những năm gần đây, vấn đề đạo đức trong xã hội hiện tại và vấn
đề giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thế hệ trẻ trở thành mối
quan tâm của xã hội. Nhiều nhóm tác giả đã đi sâu nghiên cứu theo các đề tài
khoa học cấp nhà nước về định hướng giá trị, lối sống, đạo đức…Có thể kể
đến một số công trình sau:
- “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dc giá trị” thuộc đề
tài khoa học cấp nhà nước mã số KX- 07- 04(1995). Các tác giả trình bày về
hệ thống thang bậc giá trị, sự hình thành định hướng giá trị nhân cách cũng
như việc giáo dục giá trị. Trong đó khía cạnh phẩm chất đạo đức trong nhân
cách được coi là giá trị đích thực, cao quí của con người, của mỗi cá nhân mà
xã hội đang đòi hỏi, mong đợi. Các tác giả cũng nhấn mạnh phải coi trọng cả
việc kế thừa những giá trị truyền thống lẫn giá trị hiện đại trong việc giáo dục
giá trị cho thế hệ trẻ.
- “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại
hóa” thuộc đề tài khoa học cấp nhà nước do Giáo sư-Viện sĩ Phạm Minh Hạc
chủ trì, mã số KHXH 04-04(2001). Trong đó dành hẳn một chương
(chương7) nói về định hướng chiến lược xây dựng đạo đức con người Việt
Nam, các tác giả trình bày thực trạng đạo đức, nêu rõ mục tiêu giáo dục đạo
đức trong giai đoạn hiện nay cũng như việc đề ra các giải pháp giáo dục đạo
đức cho con người Việt Nam thời kỳ Công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Tóm lại, đã có nhiều công trình khoa học trong và ngoài nước đề cập đến
vấn đề giáo dục đạo đức, nhưng nghiên cứu về đạo đức và giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm thì rất ít. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu
hóa, thế giới có nhiều biến động, sự hội nhập của các nền văn hóa trên thế
12
giới, một số hiện tượng tiêu cực đang xuất hiện ngày càng nhiều trong ngành
giáo dục đã có ảnh hưởng không nhỏ tới một bộ phận sinh viên. Chính vì thế
việc nghiên cứu về giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp

cho sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết,
và đây cũng là một vấn đề mới mẻ chưa có ai nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ
chức, sử dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người
hay một cộng đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả
nhất.
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các
hoạt động của con người. Quản lý là gì? Người quản lý cần làm gì và làm như
thế nào? Đó là những câu hỏi mà hầu hết những người làm công tác quản lý
từng tự hỏi ít nhất một lần.
Quản lý vừa là một nghệ thuật, vừa là một khoa học. Đó là nghệ thuật
làm cho người khác (nhân viên) làm việc hiệu quả hơn những điều bản thân
họ sẽ làm được nếu không có bạn. Còn khoa học chính là cách bạn làm thế
nào để thực hiện được nghệ thuật quản lý. Lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và
giám sát là bốn điều căn bản trong khoa học đó.
Quản lý được định nghĩa là một công việc mà một người lãnh đạo học
suốt đời không thấy chán và cũng là sự khởi đầu của những gì họ nghiên cứu.
Quản lý được giải thích như là nhiệm vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ,
nhưng không phải là sự khởi đầu để họ triển khai công việc. Như vậy, có bao
nhiêu nhà lãnh đạo tài ba thì có bấy nhiêu kiểu định nghĩa và giải thích về
quản lý.
13
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ,
nghề nghiệp nên quản lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau. Cùng với
sự phát triển của phương thức xã hội hóa sản xuất và sự mở rộng trong nhận
thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm quản lý

càng trở nên rõ rệt. Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất
nhiều học giả trong và ngoài nước theo trường phái quản lý học đã đưa ra giải
thích không giống nhau về quản lý. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa
thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế kỷ 21, các quan niệm về quản lý
lại càng phong phú. Các trường phái quản lý học đã đưa ra những định nghĩa
về quản lý như sau:
- Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì
và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .
- Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh
nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
- Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp
con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
- Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó
không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự
logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
- Peter. F. Dalark: "Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi môi
trường bên ngoài nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý
doanh nghiệp, quản lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công".
Chủ trương của Peter. F. Dalark là giới hạn doanh nghiệp từ góc độ xã
hội, lấy quản lý làm chức năng chính của doanh nghiệp. Vì thế, quản lý trở
14
thành chức năng và vai trò của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thông qua các
doanh nghiệp góp phần xây dựng chế độ xã hội mới để đạt được mục tiêu lý
tưởng là "một xã hội tự do và phát triển". Nếu không có quản lý hiệu quả thì
doanh nghiệp không thể tồn tại và từ đó không thể xây dựng một xã hội tự do và
phát triển.
Ngày nay thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến và chưa có định nghĩa
thống nhất. Tuy có nhiều định nghĩa về quản lý khác nhau, song chúng đều có

những dấu hiệu chủ yếu sau:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định
rõ ràng.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý, đây là quan hệ ra lệnh - phục tùng, không đồng cấp và có tính
bắt buộc.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy
luật khách quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và
ngược lại.
Về mục tiêu của quản lý: Là cần tạo dựng một môi trường mà trong đó
mỗi con người có thể hoàn thành mục đích của mình, của nhóm với thời gian,
tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất.
Về đối tượng của quản lý: Là các quan hệ quản lý, tức là quan hệ giữa
người và người trong quản lý, quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra. Sự tác
động của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi,
15
phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho
tổ chức và cho cả xã hội.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Vấn đề cơ bản của quản lý GDĐĐNN cho sinh viên ở trường đại học
sư phạm là quản lý nhà trường vì nhà trường là cơ sở giáo dục, nơi tổ chức
thực hiện mục tiêu giáo dục. Khi nghiên cứu về nội dung khái niệm quản lý
giáo dục thì khái niệm trường học hiểu là tổ chức cơ sở mang tính nhà nước,
xã hội trực tiếp làm công tác Giáo dục - Đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai của
đất nước.

1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được thực hiện trong phạm vi
xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo
dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang
“Quản lý trường học l tập hợp những tc động tối ưu của chủ thể quản lý
đến tập thể gio viên, học sinh v cn bộ khc, nhằm tận dng cc nguồn dự
trữ do nh nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp vo do lao động xây dựng
vốn tự có. Hướng vo việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nh trường m điểm
hội t l qu trình đo tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mc tiêu v kế
hoạch đo tạo, đưa nh trường tiến lên trạng thi mới” [21, tr.43].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học l lao động của
cc cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên, học
sinh và các lực lượng giáo dc khc, cũng như huy động tối đa cc nguồn lực
giáo dc để nâng cao chất lượng Giáo dc v Đo tạo trong nh trường”
[23, tr. 35].
Có thể khẳng định rằng: trong phạm vi trách nhiệm của mình, quản lý
nh trường là thực hiện đường lối giáo dc tức l đưa nh trường vận hành
theo nguyên lý giáo dc, để tiến tới mc tiêu giáo dc, mc tiêu đo tạo đối
với ngành giáo dc với thế hệ trẻ và với từng học sinh, sinh viên.
16
Đối với GDĐH, trong Luật Giáo dục có một điều quan trọng nhất về cơ
chế quản lý mới đối với GDĐH là khẳng định quyền tự chủ và trách nhiệm xã
hội (trong Luật gọi là tự chịu trách nhiệm) của trường đại học. Như đã nói,
việc quản lý GDĐH nước ta đang ở trong một thời kỳ chuyển tiếp. Quy luật
chung của thời kỳ chuyển tiếp là tồn tại đan xen cả hai cơ chế quản lý cũ và
mới, và có một cuộc đấu tranh về mọi mặt để dần dần xóa bỏ cơ chế quản lý
cũ, khẳng định cơ chế quản lý mới.
Trong những năm qua, khả năng tổ chức giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên sư phạm ở trường Đại học và quản lý vẫn là một điểm yếu lớn
của khá nhiều trường đại học, phổ biến trong khối đại học, liên quan đến việc

thiết kế bộ máy và hệ thống văn bản pháp chế sao cho khoa học, đồng bộ và
có hiệu quả. Tiếp đến, cần thúc đẩy khả năng tổ chức và quản lý giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm ở trường Đại học, đồng thời, không
thể xao lãng mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý để dần thay thế cán bộ
quản lý nước ngoài trong các dự án hợp tác quốc tế. Khía cạnh thứ ba là phát
triển khả năng tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Đa
ngành là một hướng đào tạo liên hoàn, phối kết giữa các nhu cầu về chuyên
ngành đào tạo của nhà trường.
Bối cảnh hội nhập quốc tế cũng đòi hỏi công tác quản lý hoạt động đào
tạo quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm phải tự điều
chỉnh về vai trò và nội dung quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Sự điều
chỉnh đó thể hiện qua hoạt động quản lý bằng các chính sách vĩ mô.
1.2.2. Giáo dục đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.2.2.1. Giáo dục
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục ở nước ta đều trình bày “Giáo dục
là xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người ”
17
Định nghĩa trên nhấn mạnh đến sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ,
nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, Jonh Dewey, triết gia về giáo dục có ảnh
hưởng lớn nhất về vấn đề giáo dục Mỹ ở thế kỉ XX, còn cho rằng “xã hội
không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, mà còn tồn tại chính trong quá trình truyền
dạy ấy”.
Ở Việt Nam, theo từ điển Tiếng Việt thông dụng - Nxb Giáo dục-1998,
khái niệm giáo dục được giải nghĩa là “Tc động có hệ thống để con người có
thêm năng lực và phẩm chất cần thiết”. Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng là hoạt
động (hay là quá trình) chuyển giao hệ thống tri thức, kinh nghiệm xã hội của
thế hệ này cho các thế hệ tiếp theo nhằm hình thành và phát triển nhân cách,
đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của đời sống xã hội trong từng giai đoạn
lịch sử. Theo nghĩa hẹp, giáo dục gắn liền với quá trình hình thành và phát

triển hệ thống nhà trường (giáo dục nhà trường) là hoạt động giáo dục có mục
đích và nội dung xác định cho từng bậc học và loại hình trường, được thực
hiện một cách có kế hoạch, có hệ thống trong khuôn khổ tổ chức nhà trường.
Hình thành nhân cách là quá trình phát triển con người về mặt sinh lý,
tâm lý và mặt xã hội, mang tính chất tăng trưởng về lượng và biến đổi về chất.
Quá trình này diễn ra do ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di
truyền, tính tích cực của chủ thể ) và các nhân tố bên trong (ảnh hưởng của
hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, tác động giáo dục), do ảnh hưởng
của các tác động tự phát, ngẫu nhiên (tác động bên trong, bên ngoài chưa
được kiểm soát, điều khiển được). Quá trình này làm biến đổi đứa trẻ với
những tư chất vốn có của con người thành một nhân cách.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, việc dẫn dắt người khác vượt ra
khỏi cái hiện tại để vươn tới cái tương lai là việc làm có tính mục đích rõ
ràng. Việc này cũng được hoạch định và thực hiện một cách có tổ chức với sự
tham gia của cả cộng đồng theo những phân công lao động chặt chẽ (nhiều

×