Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Nhân vật trong tiểu thuyết nguyễn bắc sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.06 KB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ LỆ THỦY
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BẮC SƠN
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60.22.01.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Biện Minh Điền
NGHỆ AN, 2014
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tiểu thuyết là thể loại có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở
mọi giới hạn không gian và thời gian, có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc
đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh
hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính chất đa dạng. Đây là thể loại có khả năng tiếp
cận con người và cuộc sống chi tiết, sinh động trên cả chiều rộng và bề sâu,
không bị giới hạn về dung lượng, tiểu thuyết có thể dung chứa trong tác phẩm
nhiều cuộc đời trong những điều kiện văn hóa, lịch sử, xã hội không giới
hạn
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay đã có những biến
chuyển đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó có tiểu thuyết. Trong sự
vận động chung của nền văn học, tiểu thuyết - một loại hình tự sự cỡ lớn đã
và đang nỗ lực chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại, của
đời sống văn học và của đông đảo độc giả đương đại. Có thể nói tiểu thuyết
đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong loại hình văn học hiện đại.
Trong những năm gần đây thể loại tiểu thuyết được coi là thể loại phát


triển mạnh mẽ nhất của văn học Việt Nam, phát triển ở cả bề rộng và chiều
sâu, tạo nên sức hấp dẫn đối với thế hệ bạn đọc, đồng thời cũng mang đến cho
nền văn học nói chung một sức sống mới. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã
gây được sự chú ý của giới phê bình và độc giả vì đề cập đến nhiều vấn đề
nóng bỏng của cuộc sống, thậm chí có thể là những vấn đề mạo hiểm của
cuộc sống hiện đại - một thời đại vốn chứa đựng tất cả cái phức tạp bộn bề
“đa sự, đa đoan” của nó. Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn là một trong những
trường hợp như vậy.
1.2. Nguyễn Bắc Sơn - nhà văn được chú ý trong thời gian gần đây bởi
có chùm tiểu thuyết gây được tiếng vang: Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã
tép riu. Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn đã nhằm đúng những vấn đề nóng hổi,
bức xúc của xã hội, những tồn tại, hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong thời
đại mới Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn đa dạng,
đa tính cách, thể hiện rõ bản chất con người trong thời đại hôm nay… Đây là
một thành công nổi bật của Nguyễn Bắc Sơn trong nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết. Chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói vào việc
khẳng định sự say mê, tìm tòi và bút pháp tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn,
khẳng định những đóng góp của nhà văn đối với tiểu thuyết của nước nhà
trong thời kì hiện nay.
1.3. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn khá phong
phú đa dạng, gồm nhiều tầng lớp, nhiều hạng người, nhiều kiểu loại nhân vật
khác nhau được nhà văn xây dựng khá công phu. Mỗi nhân vật có những mặt
khác nhau, thậm chí cùng một nhân vật lại biểu hiện nhiều khía cạnh khác
nhau hết sức đa dạng, đa tính cách. Có nhân vật cao thượng, có nhân vật thấp
hèn, đểu giả. Có nhân vật tự cho mình là “gã tép riu” nhưng suy nghĩ và việc
làm thì không hề tép riu tí nào. Gã tép riu là tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn
Bắc Sơn (Nxb Hội Nhà văn, 2013), sau 2 tiểu thuyết nổi tiếng là Luật đời và
cha con, và Lửa đắng. Vẫn tiếp tục bám sát những vấn đề thời sự của cuộc
sống nhưng lần này tác phẩm của ông xoáy sâu vào lĩnh vực văn hóa, báo chí
để từ đó làm nổi bật triết lý sống của một trí thức có tâm, có tài, "đã là trí thức

thì phải biết phản biện, thậm chí phản bác, đối lập, chống lại những cái ác, cái
xấu, những gì sai trái, miễn là với động cơ xây dựng chứ không phá hoại"
Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn là vấn đề có ý nghĩa sâu
sắc trên nhiều phương diện, rất cần được tìm hiểu, nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu Nguyễn Bắc Sơn và sáng tác của nhà văn
Nguyễn Bắc Sơn là một hiện tượng văn học khá mới mẻ trong những
4
năm gần đây, ông thành công sớm so với tuổi đời khá muộn của mình. Dù mái
đầu đã bạc trắng nhưng những trang tiểu thuyết của ông lại có một sức trẻ,
một sức viết hết sức mạnh mẽ, táo bạo. Chính vì vậy trong mấy năm gần đây
đã có khá nhiều bài viết nghiên cứu về Nguyễn Bắc Sơn và những sáng tác
của ông. Tuy nhiên những nghiên cứu về Nguyễn Bắc Sơn và tác phẩm của
ông vẫn còn sơ giản, chưa toàn diện, hệ thống.
Chưa có công trình nào thực sự nổi bật. Những bài viết về ông mà
chúng tôi thu thập được chủ yếu là những bài viết trên các báo, các trang
mạng, một số luận văn tốt nghiệp đại học, Cao học, các bài viết tham gia hội
thảo về tiểu thuyết Luật đời và cha con do báo Văn nghệ tổ chức ngày
26/12/2005, một số bài phỏng vấn trên báo chí, truyền hình,…
2.2. Lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn
Tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép riu ra mắt bạn đọc
đã gây được sự chú ý của đông đảo công chúng độc giả và giới nghiên cứu
phê bình. Luôn có ý thức cách tân văn học, nghiêm túc với công việc của
mình, bạo dạn trong cách viết Nguyễn Bắc Sơn đã có những đóng góp rất
đáng kể cho văn học Việt Nam đương đại. Tiểu thuyết Luật đời và cha con,
Lửa đắng của Nguyễn Bắc Sơn cho đến nay theo tìm hiểu của chúng tôi vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện chuyên sâu về nó. Trong những
tài liệu mà chúng tôi bao quát được, mới chỉ là những bài báo, những ý kiến
phê bình nhỏ lẻ.
Đáng chú ý là một số ý kiến đăng trên tờ báo trung ương và địa phương

gần đây. Trong bài viết “Đi qua ranh giới để tồn tại”, Nguyễn Đăng Điệp
nhận xét: “Với ý thức tái hiện lại một cách sinh động bức tranh hiện thực
đương đại nhiều màu, Nguyễn Bắc Sơn đã nhìn những chuyển động của lịch
sử qua ba thế hệ trong một gia đình. Từ gia đình mà nhìn thấy luật đời, dòng
đời với vô vàn các quan hệ chồng chéo, phức tạp thậm chí nhiêu khê, khó
lường. Có thể nói, sự nóng hổi và đầy ắp các sự kiện đời sống như lao động
và chiến đấu nếu không biết tổ chức và lựa chọn cách hợp lý thì tiểu thuyết dễ
rơi vào tình trạng kí sự” [22]. Thực ra tiểu thuyết Luật đời và cha con không
5
chỉ phơi bày sự nhem nhuốc của đời sống mà xuyên suốt tác phẩm vẫn là cảm
hứng về lẽ phải.
Nguyễn Chí Hoan với bài viết: “Một cuốn tiểu thuyết về đổi mới” (in
trên báo Người Hà Nội ngày 31.3.2006) cho rằng: Điểm nhìn đặc biệt khiến
tiểu thuyết Luật đời và cha con gây chú ý và gợi suy nghĩ không nằm ở hình
thức văn chương của nó, những năm gần đây, dường như có một xu hướng
rộng rãi trong các giới văn chương và văn học khi nói đến tiểu thuyết như một
lựa chọn loại hình sáng tác như một tiêu điểm luận bàn về các thể loại tiến
trình văn học nước nhà, người ta thường ưu tiên chú ý đến khuynh hướng
được xem là có cách tân về hình thức mà về sau được công nhận rộng rãi đều
không phải là những thay đổi theo kiểu “cái cày ra đằng trước con trâu” mà
đều là những phương pháp mới trong việc nhận thức cái thực tại này, trung
thành với tính chất căn bản của tiểu thuyết như một cách thức nhìn nhận cái
thực tại. Tất nhiên cái sẽ được coi như “vấn đề xã hội” ở đây sẽ không mặc
nhiên có ý nghĩa xã hội học hay bất cứ ý nghĩa gì khác bên ngoài cái ngữ cảnh
văn chương cụ thể của tác phẩm. Câu chuyện và nhân vật của tiểu thuyết Luật
đời và cha con vẫn chỉ là những hình ảnh khúc xạ nhiều lần cái thực tại ngoài
kia, bởi nhiều tính phức tạp vô hạn và luôn luôn vận động của đời sống chẳng
bao giờ cho phép người ta tóm lấy nó rồi “đóng đinh” vào ngôn ngữ vật chất
một lần coi như xong được. Tiểu thuyết Luật đời và cha con được triển khai
theo hình mẫu ngôn ngữ tiểu thuyết hiện thực truyền thống. Đồ án là chuyện

về ba thế hệ của một gia đình thuộc lớp cao cấp với các ứng xử và hệ quả
hành động của họ trong bối cảnh xã hội đang chuyển đổi. Điểm đặc biệt của
đồ án này, là ở chỗ hầu như các nhân vật đều được nhìn từ góc độ, họ là
những cán bộ - Đảng viên và các “vai” nổi bật đều là các Đảng viên ở các
cương vị lãnh đạo trong bộ máy chính quyền các cấp ở thành phố lớn hay
lãnh đạo chuyên môn ở xí nghiệp lớn, doanh nghiệp. Tuy nhiên toàn bộ sự
triển khai của đồ án truyện lại cho thấy một âm hưởng sắc thái bi thảm. Tất cả
các nhân vật tử nạn đều dường như đã gánh chịu hậu quả trực tiếp từ cách lựa
chọn lối sống hành vi của họ. Tuyến nổi bật hơn là tuyến truyện về các nhân
6
vật cán bộ - Đảng viên góp phần làm tác nhân và động lực của quá trình xã
hội chuyển đổi. Những câu chuyện kết nối đan dệt nên cuốn tiểu thuyết này
thực sự không xa lạ với hầu hết các cư dân của thời kì đổi mới của một xã hội
đang chuyển đổi đó là những chuyện phổ biến, ở những mức độ và tình huống
khác nhau trong đời sống xã hội đương thời”.
Trên báo An ninh thủ đô cuối tuần ngày 12.11.2005 có đăng bài: “Một
bức tranh sống động” của Công Minh nhà giáo dạy văn đưa ra một số nhận
định: “Tác giả không giấu giếm tính luận đề của cuốn tiểu thuyết về đề tài
chính trị trị xã hội của mình, không ngần ngại đụng chạm đến những vấn đề
bức xúc, nóng bỏng của đời sống xã hội chính trị thiết chế hôm nay. Luật đời
và cha con là cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên mổ xẻ sự vận động của toàn
xã hội trong quá trình thay đổi cơ chế, một sự vận động, động chạm đến từng
gia đình, từng số phận rải rác đâu đó có những bí thư thành ủy, chủ tịch công
chức các cơ quan công quyền… Lần đầu tiên trong Luật đời và cha con họ
xuất hiện với tư cách là những bánh răng, chiếc ốc vít trong cơ chế đang vận
hành. Với ý nghĩa đó, tác giả là người đầu tiên khai phá đề tài cơ chế, điều mà
không một ai trong chúng ta không quan tâm Nhưng tôi không tán thành với
Hoàng Nam khi ông chê tác giả tham lam đưa vào những chuyện tiếu lâm
hiện đại, coi đây là biểu hiện thương mại hóa. Thiết nghĩ trong cuộc sống còn
nhiều bất cập, biến ứng, bất khả kháng này nếu không có chuyện vui để giải

tỏa những bức bối ẩn ức xã hội mà mỗi người ít nhất đều phải hứng chịu thì
không khéo hóa điên lên hết. Dẫu sao đây cũng là cuốn sách đáng đọc trong
thời buổi sách báo ngồn ngộn trên quầy để hiểu hơn những giá trị cuộc sống
mà đôi khi chúng ta bị nhầm lẫn hay không nhận ra”.
Xin lược trích ý kiến thảo luận tiểu thuyết Luật đời và cha con do báo
Văn nghệ tổ chức ngày 26-12-2005. Đáng chú ý là ý kiến phát biểu trực tiếp
của Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng Biên tập báo Văn nghệ. Theo Hữu
Thỉnh: Chúng ta cần khuyến khích những nhà tiểu thuyết xông thẳng vào
những vấn đề nóng bỏng thậm chí có thể mạo hiểm của cuộc sống hiện tại.
Tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã thành công về mặt thể loại, chúng
7
ta cần tránh sự trì trệ trong sáng tác, cần mạnh dạn tìm kiếm cái mới. Nguyễn
Bắc Sơn đã có nhiều cố gắng. Tuy nhiên về nghệ thuật thể loại Luật đời và
cha con vẫn còn hiền lành, vẫn nặng về truyền thống. Thể loại tiểu thuyết cho
phép nhà văn cách tân táo bạo.
Nhà văn Phan Ngọc Tuấn (trung tâm sản xuất phim truyền hình Đài
Tiếng nói Việt Nam) lại đánh giá Luật đời và cha con: “Văn đàn năm nay có
một số sự kiện trong đó có cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn. Lâu lắm
mới có một cuốn tiểu thuyết thế sự xông thẳng vào đời sống chính trị như thế
này. Đọc thật thích thú”…“Tiểu thuyết Luật đời và cha con có những trang
đau đớn… càng đọc càng thấy rõ nhiều điều… nhân vật Trần Kiên trăn trở
chấp nhận thất bại lại nghĩ ra nếp nghĩ mới, lòng tin mới”.
Trong cuộc hội thảo tọa đàm còn có ý kiến tham gia phát biểu của
Nguyễn Hoành Sơn (nhà thơ, nhà phê bình, ủy viên Hội đồng lý luận phê bình
Hội nhà văn Việt Nam): “Tác phẩm Luật đời và cha con có chất tiểu thuyết.
Rõ ràng hiện nay nhà văn, bạn đọc đã trưởng thành, cấp trên đã thích nghi.
Nhà xuất bản đã ủng hộ, nhà văn sớm phát hiện ra và phản ánh đúng những
vấn đề cơ bản của nông thôn miền Bắc thời kỳ cải tạo xây dựng kinh tế. Tác
giả có cái nhìn mới về con người trong quan hệ với hoàn cảnh. Viết thành
thực, theo tôi viết về gia đình tức là trở lại với tiểu thuyết đích thực đấy.

Những cuộc tình ở đây viết được, chuyện dâm cũng không nhiều. Nói tác
phẩm có màu tối thì không phải, tôi thấy lạc quan, kết thúc là lạc quan. Dạ
Ngân - nhà văn, Trưởng ban văn xuôi báo Văn nghệ: “Tôi muốn nói rằng
Nguyễn Bắc Sơn hay quan tâm đến những vấn đề gần với báo chí. Một trang
viết cũng như nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn trước đây cái tạng nói lên tinh thần
công dân của nhà văn, thái độ xã hội của nhà văn, nhà văn đóng góp cho xã
hội ở thời điểm xuất hiện của họ. Tiểu thuyết Luật đời và cha con của Nguyễn
Bắc Sơn được đọc hiện nay là nhờ vấn đề gai cạnh, nóng sốt của nó”.
Về tiểu thuyết Lửa đắng, Vũ Duy Thông nhận xét: “Bằng trực cảm
tiên tri nhà văn dự báo những gì chưa tới sẽ tới”. Trong bài Về ngọn lửa
đắng của luật đời ông còn viết: “Lửa đắng là cuốn tiểu thuyết viết về ngày
8
hôm nay ở ngay dòng chảy chính của hiện thực, trực tiếp có mặt ở những
va đập kiến tạo ra nó cả những đổ vỡ hào sảng, cả những kết tụ phũ
phàng”.
Thu Thanh trong bài Từ Lửa đắng ngẫm về bệnh ăn bẩn của công chức
có quyền đã viết: “Phải chăng Lửa đắng là ngọn lửa của cuộc đấu tranh những
chiến tuyến tư tưởng và lối sống trong cuộc sinh thành cái mới, cơ chế mới.
Ngọn lửa đắng đót không ngọt ngào nhưng có thể phân định vàng thau”.
Trên đây là lược thảo những ý kiến của các nhà nghiên cứu phê bình và
độc giả. Do cuốn tiểu thuyết Luật đời và cha con ra đời trước, nó thu hút được
sự quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Chính vì vậy, các ý kiến về cuốn tiểu thuyết
này phong phú và đa dạng hơn những cuốn tiểu thuyết còn lại.
Báo Lao động cuối tuần đánh giá về ba cuốn tiểu thuyết của Nguyễn
Bắc Sơn như sau: “ Gần hai mươi đầu sách của Nguyễn Bắc Sơn dù là viết
về giáo dục, về ngôn ngữ, văn hóa hoặc báo chí, xuất bản hay những tập bút
ký và nhất là ba cuốn tiểu thuyết “Luật đời và cha con” (2005, đã chuyển thể
thành phim truyền hình 26 tập được bạn xem truyền hình bình chọn là phim
truyền hình hay nhất năm 2007), “Lửa đắng” (2008), “Gã Tép Riu” (2013)
đều là văn chương đích thực, đều đáng để bạn đọc trân trọng đọc, thích thú

đọc vì tính hiện thực, tính đời của nó. Tiểu thuyết gần bốn trăm rưỡi trang khổ
lớn mà chỉ có ba nhân vật chính có tên, một người đàn ông giữa hai người đàn
bà”. Nói về cuốn tiểu thuyết Gã tép riu báo này nhận xét: Cốt truyện đơn
giản, nhưng đấu tranh nội tâm của nhân vật trong mối quan hệ giữa họ với
nhau, giữa họ với những quan hệ khác, qua những vụ việc cụ thể trong công
việc, với các mối quan hệ của cuộc sống thì vô cùng phức tạp. Điều thú vị
như tác giả nói ngay trước khi vào sách là bối cảnh cuốn sách phần lớn là có
thật, hầu hết sự việc đều có thực, nhưng không hề ám chỉ một ai. Vậy thì vì
sao “Gã Tép Riu” hấp dẫn người đọc? Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã lý giải (in
trong bìa 4): “Sức mạnh của tác giả là ở khả năng tinh nhạy nắm bắt những
vấn đề thời sự nóng hổi đang diễn ra trong đời sống hằng ngày. Người đọc có
thể dễ dàng nhận ra trong đội ngũ nhân vật của ông bóng dáng số phận của
9
những con người có thật ngoài đời. Cuộc sống và trang sách nhiều khi không
còn khoảng cách. Bởi thế tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn thường rất hấp dẫn.
Hấp dẫn cũng bởi nó rất thật. Mê hoặc người đọc mà không cần dùng đến son
phấn đâu có dễ. Đấy là cái tài của Nguyễn Bắc Sơn, cũng là sự đóng góp rất
cần được ghi nhận của ông trong văn học đương đại”.
Nhìn chung, giới nghiên cứu phê bình và dư luận bạn đọc đã có những
luồng ý kiến khác nhau. Song phần lớn đều khẳng định vai trò, vị trí đóng góp
của Nguyễn Bắc Sơn đối với nền văn học nước nhà. Tuy nhiên các bài viết,
các ý kiến mới chỉ dừng lại ở vấn đề tổng quát chứ chưa đi sâu vào nghiên
cứu các cuốn tiểu thuyết một cách hệ thống, nhất là vấn đề nhân vật trong các
cuốn tiểu thuyết này. Song các ý kiến của các nhà phê bình nghiên cứu kể trên
là những phát hiện, những gợi ý hết sức quý báu đối với chúng tôi trong quá
trình thực hiện đề tài này.
Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn nói chung, nhân vật trong tiểu thuyết của
ông (Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép riu) nói riêng, vẫn còn những
khoảng trống, những vấn đề cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
2.3. Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn

Nhân vật là một vấn đề vô cùng quan trọng của tác phẩm văn học, mỗi
nhà văn để cho nhân vật của mình biểu hiện ở những khía cạnh khác nhau, thể
hiện nhân vật ở những góc độ nhất định nào đó. Nhân vật nhiều khi là cái loa
phát ngôn cho tư tưởng của tác giả, thông qua nhân vật tác giả gửi gắm suy
nghĩ, thể hiện cách nhìn nhận của mình về con người, cuộc đời và xã hội
Nguyễn Bắc Sơn đã biết khai thác thành công mảng đề tài mà ít người
chạm tới, ông thành công ngay lần đầu thử bút, thành công về nội dung, nghệ
thuật và đặc biệt là thành công trong cách thể hiện nhân vật. Nhân vật trong
tiểu thuyết của ông không màu mè, không quá sinh động mà trái lại, rất thực
tế, gần gũi với đời sống. Nhiều lúc chúng ta cảm thấy ai đó ngoài đời sống rất
giống với nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn, điều đó rất
bình thường bởi lẽ nhân vật trong tác phẩm của ông là con người của thực tại,
của xã hội chúng ta đang sống. Nó chân thật và ngồn ngộn những toan tính,
10
ích kỷ, đố kỵ và mưu mô
Về vấn đề nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Bắc Sơn thì cũng đã có một
số bài báo, bài tiểu luận, phê bình đề cập tới tuy nhiên ở góc độ nhất định nào
đó, chưa khai thác sâu, chưa đi vào tìm hiểu kỹ về nhân vật ở từng tiểu thuyết
mà đang chỉ dừng ở mứ độ khái quát, chung chung. Trên các trang báo điện tử
như trang Văn hóa, Văn nghệ, Tin tức Báo in như báo Tuổi trẻ, Hà Nội mới,
Lao động đã có những bài viết về các tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn
nhưng như chúng tôi đã nói từ đầu nó chỉ dừng ở mức là những phát biểu cảm
nhận chứ chưa phải là những bài viết có chiều sâu, nhiều bài viết chỉ điểm
xuyết, vờn vẽ một vài nét mà thôi
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung khảo sát, tìm hiểu những đặc điểm nổi bật về
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn qua ba cuốn tiểu thuyết được sáng

tác gần đây của nhà văn.
- Tài liệu mà luận văn dùng làm văn bản khảo sát, nghiên cứu là ba
cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn: Luật đời và cha con (2005),
Nxb Văn học, Hà Nội; Lửa đắng (2007), Nxb Lao động, Hà Nội; và Gã tép
riu (2013), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát, tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn,
luận văn nhằm xác định đây là một phương diện quan trọng góp phần tạo nên
thành công của tiểu thuyết Nguyễn Băc Sơn, từ đây đề xuất một số vấn đề
nghiên cứu nhân vật trong tiểu thuyết Ngyễn Bắc Sơn nói riêng, nhân vật
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn tổng quát về tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn
11
trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam đương đại…
4.2.2. Khảo sát, phân lọai, phân tích và xác định đặc điểm của nhân vật
trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
4.2.3. Chỉ ra, phân tích và xác định những đặc điểm về thi pháp nhân
vật của tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
Cuối cùng đưa ra một số kết luận về nhân vật trong tiểu thuyết và tiểu
thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó
có các phương pháp chính: phân tích – tổng hợp, so sánh – loại hình, cấu trúc
– hệ thống.
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp
Trên cơ sở những nguồn tư liệu mới, có thể coi luận văn là công trình
tập trung nghiên cứu nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn với cái nhìn

hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tư liệu tham khảo cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn nói riêng, tiểu thuyết
Việt Nam đương đại nói chung.
6.2 Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai
trong ba chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn trong bối cảnh tiểu thuyết Việt
Nam đương đại
Chương 2: Cảm hứng sáng tạo và hệ thống nhân vật của tiểu thuyết
Nguyễn Bắc Sơn.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn Bắc
Sơn
Cuối cùng là Tài liệu tham khảo.
12
Chương 1
TIỂU THUYẾT NGUYẾN BẮC SƠN
TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1 Tổng quan về tiểu thuyết Việt Nam đương đại (từ sau 1986)
1.1.1. Những tiền đề xã hội – thẩm mỹ của sự đổi mới tiểu thuyết Việt
Nam từ sau 1986
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay đã có những
chuyển biến đáng ghi nhận ở hầu hết các thể loại, trong đó có tiểu thuyết.
Trong sự vận động chung của nền văn học, tiểu thuyết - một loại hình tự sự
lớn đã và đang nỗ lực chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thời
đại, của đời sống văn học và của đông đảo độc giả đương đại. Không khí dân
chủ của môi trường sáng tạo đã giúp nhà văn ý thức sâu sắc hơn về tư cách
nghệ sĩ nơi mình, vượt lên trên những quy định, khuôn khổ truyền thống đã
thành áp lực với ngòi bút của người viết lâu nay. Chưa bao giờ những quan
niệm mới về văn chương, về nhà văn, về hiện thực và con người, về đổi mới

tư duy nghệ thuật lại cởi mở, dân chủ như lúc này. Nhiều cây bút tiểu thuyết
đã có ý thức cách tân trong cách nhìn và trong lối viết, có những tác phẩm
thành công hoặc đang trên đường tìm tòi, thể nghiệm, song điều đáng nói ở
đây là tất cả đều hướng tới hệ quả: làm mới, làm hấp dẫn văn chương nói
chung và tiểu thuyết nói riêng.
Có thể nói trong quá trình vận động và đổi mới, tiểu thuyết đã trải qua
13
“những bước thăng trầm”. So với những loại hình văn xuôi khác, tiểu thuyết
với những thành tựu và hạn chế của nó luôn là vấn đề “nóng” lôi cuốn sự
quan tâm và kích thích cảm hứng “đối thoại” của cả giới sáng tác, lý luận, phê
bình và công chúng. Trên diễn đàn văn học Việt Nam những năm đổi mới,
không ít lần đã xuất hiện các ý kiến tỏ ra băn khoăn, lo lắng cho sự dẫm chân
tại chỗ hoặc đang mày mò của tiểu thuyết mà thực chất là sự mong muốn có
những tác phẩm hay, những tác phẩm đạt chất lượng nghệ thuật, mang tính
nhân loại. Gần đây nhất, câu hỏi Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu? đã ít
nhiều thu hút sự chú ý của dư luận đối với thực trạng tiểu thuyết đồng thời thể
hiện khát vọng của công chúng đến sự đổi mới tư duy tiểu thuyết, đến sự cách
tân về nội dung cũng như hình thức thể loại, sao cho tiểu thuyết không chỉ
được đón nhận ở trong nước mà còn được giới thiệu ra nước ngoài, hoà nhập
vào quỹ đạo của văn chương thế giới.
Giai đoạn 1945 - 1975, cả đất nước Việt Nam gần như chung cả dáng
hình, một sức vóc suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ chống
giặc ngoại xâm, bảo vệ quyền sống, quyền làm người, quyền độc lập dân tộc.
Có thể nói, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là hai cuộc chiến
tranh thần thánh kết tinh sức mạnh, bản lĩnh và tinh thần dân tộc suốt hàng
ngàn năm, trở thành “trạng thái sử thi” điển hình, là biểu tượng của nhân loại
yêu chuộng tự do và hòa bình ở thế kỷ XX. Do sự chi phối của bối cảnh thời
đại, khuynh hướng chủ đạo trong sáng tác văn chương chính là khuynh hướng
sử thi. Khuynh hướng này trong văn học hiện đại khác với thể loại sử thi thời
cổ đại. Nó chỉ giữ lại một số yếu tố nhất định liên quan đến cái mã làm nên

những quy luật loại hình đặc thù của thể loại. Cụ thể hơn cả đấy chính là
những sự kiện, những vấn đề lịch sử trọng đại không tách rời số phận cộng
đồng, mang tầm vóc, quy mô lớn lao được chuyển tải qua các nhân vật sử thi,
xung đột sử thi, giọng điệu sử thi. Các tiểu thuyết sử thi ba mươi năm chiến
tranh cơ bản tái hiện cuộc đấu tranh bền bỉ của quân dân ta trên hai mặt trận:
chống giặc ngoại xâm nơi tiền tuyến và xây dựng hậu phương chủ nghĩa xã
hội vững mạnh. Từ Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Dấu chân người lính
14
(Nguyễn Minh Châu) đến Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Tháng ba ở Tây
Nguyên (Nguyễn Khải) Tất cả đều rừng rực một khí thế tiến công Việc tập
trung tái hiện bức tranh rộng lớn của cuộc chiến tranh nhân dân lúc bấy giờ
được xem như một lẽ tất yếu, phù hợp với yêu cầu cách mạng và mục đích,
nhiệm vụ, quy luật phát triển văn học của dân tộc trong hoàn cảnh chiến tranh
vệ quốc.
Từ 1975 đến 1985 giai đoạn hậu chiến. Khuynh hướng sử thi vẫn là
khuynh hướng nổi bật do quán tính vận động của một kiểu tư duy nghệ thuật
đã tồn tại khá lâu ở chặng đường trước đó. Kiểu tư duy ấy đã ăn sâu vào cảm
thức sáng tác của các văn nghệ sỹ. Muốn thay đổi nó đòi hỏi một quá trình
phấn đấu của nhiều thế hệ nhà văn. Tiêu biểu cho khuynh hướng trên, có
Nguyễn Minh Châu với tiểu thuyết Miền cháy, Khuất Quang Thụy với Trong
cơn gió lốc, Ma Văn Kháng với Đồng bạc trắng hoa xòe, Nguyễn Trí Huân
với Năm 75 họ đã sống như thế Sự vận động của văn học rõ ràng đã có sự
ít nhiều chuyển biến. Văn học đã mang nhiều hơi thở của tiểu thuyết, chứ
không bảo lưu toàn vẹn những đặc điểm cơ bản của giai đoạn văn học 1945 –
1975 trước đây. Xu hướng chung là các nhà văn đang cố gắng gỡ mình ra
khỏi những quan niệm đơn giản là tái hiện hiện thực. Từ Đất trắng (Nguyễn
Trọng Oánh), Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Trong cơn gió
lốc (Khuất Quang Thụy) đến Đứng trước biển, Cù lao tràm (Nguyễn Mạnh
Tuấn), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người (Nguyễn Khải), Mưa mùa hạ,
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng) đã là những minh chứng cho sự

chuyển đổi tư duy sáng tạo và quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Đấy là
những khởi động bước đầu chuẩn bị cho sự đổi mới triệt để và quyết liệt hơn
của tiểu thuyết từ 1986 đến nay.
Từ 1986, Đảng ta đã xác định: “Đổi mới là nhu cầu bức thiết của sự
nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”, “Phải đổi mới, trước hết là
đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn” [19, 15]. Từ thời
điểm đó, đất nước thực sự mở cửa, cải tổ nền kinh tế - chính trị, hiện thực đời
sống gần như được tháo tung mọi đầu mối, sắp xếp lại một cách đồng bộ.
15
Theo đó, đời sống văn chương cũng được hưởng một không khí dân chủ và
cởi mở hơn rất nhiều. Đảng khuyến khích văn nghệ sĩ có những tìm tòi,
những thể nghiệm rộng rãi và mạnh bạo trong lao động nghệ thuật. Trên tuần
báo Văn nghệ, Nguyễn Minh Châu đề nghị “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai
đoạn văn nghệ minh họa”, đặt ra vấn đề sáng tạo tự do cho người nghệ sỹ,
trong đó, ông đánh giá một cách công bằng: “Tôi không hề nghĩ rằng, mấy
chục năm qua, nền văn học cách mạng không có những cái hay, không để lại
được những tác phẩm chân thực. Nhưng cũng phải nói thật với nhau rằng:
mấy chục năm qua, tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh họa, đối với
những lối viết chỉ quen cài hoa kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ có sẵn
( ) mà chúng ta quy cho đấy là tất cả hiện thực đời sống đa dạng và rộng
lớn”. Từ 1986, với xu hướng nhìn thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã
dấn thân vào hiện thực ở thời hiện tại, đang hình thành, chưa ổn định; ở chính
“tiêu điểm” của đời sống. Trong tác phẩm của họ ý thức “lột trần mặt nhau,
lột trần mặt mình, lột trần mặt đời” và cao hơn là “bóc trần thế giới”, đồng
thời với ý thức hướng tới “chất lượng cuộc sống”, sống sao cho đúng với cuộc
sống của con người đã thẩm thấu các tầng ngữ nghĩa, mang đậm tính nhân
văn: Thời xa vắng, Hai nhà (Lê Lựu), Đám cưới không có giấy giá thú,
Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Một cõi nhân gian bé tý (Nguyễn
Khải), Đi về nơi hoang dã (Nhật Tuấn), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn
Quang Lập), Một thời hoa mẫu đơn, Ngoài khơi miền đất hứa (Nguyễn

Quang Thân), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Trả giá, Sóng lừng, Cõi mê (Triệu
Xuân), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),
Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn
Khắc Trường), Ăn mày dĩ vãng, Phố, Cuộc đời dài lắm (Chu Lai), Ngày
hoàng đạo (Nguyễn Đình Chính), Một ngày và một đời, Cơn giông (Lê Văn
Thảo), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Cuốn gia phả để lại (Đoàn Lê), Thuỷ
hoả đạo tặc (Hoàng Minh Tường), Trùng tu (Thái Bá Lợi), Luật đời và cha
con (Nguyễn Bắc Sơn), Cánh đồng lưu lạc (Hoàng Đình Quang), Gia đình bé
mọn (Dạ Ngân) Trong số đó Đi về nơi hoang dã, Ngoài khơi miền đất hứa,
16
Sóng lừng, Cơn giông, Luật đời và cha con đã từng được đương thời và hôm
nay nhận định là những tác phẩm mang tính “dự báo của lương tri” trước một
xã hội hiện đại còn nhiều bất an và khiếm khuyết.
Tiểu thuyết xuất hiện ngày càng nhiều. Các thế hệ nhà văn vẫn mải
miết trên cánh đồng chữ nghĩa, lặng lẽ cho ra mắt bạn đọc những đứa con tinh
thần của mình. Không phải ngẫu nhiên mà người ta đã cảm nhận thời bây giờ
là “thời của tiểu thuyết” (Nguyễn Huy Thiệp), thời của dân chủ hoá trong
sáng tạo và tiếp nhận. Thế hệ những nhà văn lão thành vẫn không ngừng sáng
tạo: Nguyễn Xuân Khánh với tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội
gạo lên chùa, Nguyễn Khải với Thượng đế thì cười, Châu Diên với Người
sông Mê, Mạc Can với Tấm ván phóng dao, Bùi Ngọc Tấn với Chuyện kể
năm 2000, Ma Văn Kháng với Ngược dòng nước lũ Đồng hành với những
thế hệ “lão làng” ấy, là một dàn những cây bút của thế hệ kế tiếp luôn ý thức
về sự đổi mới trong sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, chấp nhận hệ số
mạo hiểm cao, cho ra hàng loạt tác phẩm gây được chú ý của công luận: Hồ
Anh Thái với Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Cõi người
rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm, SBC là săn bắt chuột; Nguyễn Bình
Phương với Vào cõi, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn,
Thoạt kỳ thuỷ và Ngồi; Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của chúa, Khải huyền
muộn; Tạ Duy Anh với Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng

tối; Võ Thị Hảo với Giàn thiêu; Nguyễn Thế Hoàng Linh với Chuyện của
thiên tài, Võ Thị Xuân Hà với Tường thành, v.v Trong bối cảnh giao lưu và
hội nhập quốc tế, sáng tác của các cây bút hải ngoại đã xuất hiện ở Việt Nam
và hầu hết đều được giới thiệu với bạn đọc trong nước: Sông Côn mùa lũ
(Nguyễn Mộng Giác), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Phố Tầu, Paris 11 tháng 8
(Thuận), Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai), Thảo (Võ Hoàng
Hoa), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phương), Gió từ thời khuất mặt (Lê Minh
Hà) Diện mạo tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay rõ ràng là phong phú,
đa dạng và cũng phức tạp hơn. Con người, nhân vật trong tiểu thuyết cũng
vậy.
17
Một cái nhìn khái quát về đội ngũ các tiểu thuyết gia và tác phẩm của
họ trong không khí phóng khoáng, cởi mở của đời sống văn học cho thấy tiểu
thuyết đã vận hành trong cơ chế vận động và đổi mới của văn xuôi đương đại.
Những người cầm bút trong nước cũng như đang sống ở bên ngoài bằng các
tác phẩm của mình đã ít nhiều chứng minh được tiềm năng sáng tạo cùng với
nỗ lực đổi mới và hiện đại hoá ngòi bút của chính họ. Trong bối cảnh gợi lên
cái “thời của tiểu thuyết”, độc giả đã trở lại với văn hoá đọc. Một văn hoá đọc
đã được nâng cấp, được lựa chọn không bị áp đặt bởi chủ nghĩa đề tài hoặc
một phương pháp sáng tác duy nhất. Trong cái “thời của tiểu thuyết” hôm nay,
người đọc đã có hứng thú đi tìm những cuốn sách hay, những cuốn sách trở về
với chức năng thẩm mỹ và giải trí, tôn trọng vai trò của người đọc, khêu gợi ở
họ những suy ngẫm, liên tưởng và đồng sáng tạo
Tư duy tiểu thuyết trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới thực sự
đã đổi mới. Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào
cái hiện thực hàng ngày, cái đời thường của đời sống cá nhân. Các nhà tiểu
thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ,
phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Các đề tài truyền thống hay
hiện đại đều được đưa vào trường nhìn mới, hướng tới những gấp khúc trong
đường đời và thân phận con người, thấm đẫm cảm hứng nhân văn. Nhìn từ

góc độ thể loại, trong những năm đổi mới, tiểu thuyết đã có những tìm tòi,
cách tân thể hiện ở nhiều phương diện: Cấu trúc, kết cấu, cốt truyện, nhân vật,
nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ
Đời sống vận động không ngừng, ngòi bút của nhà văn theo đó cũng
phải biến chuyển linh hoạt, đa dạng qua từng giai đoạn, thời kỳ khác nhau với
những khuynh hướng tư tưởng, thẩm mỹ khác khác nhau. Quan niệm văn học
phản ánh hiện thực cũng có những biến đổi nhiều chiều cho phù hợp với yêu
cầu đổi mới luôn thường trực trong sáng tác.
1.1.2. Bức tranh đa sắc của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986
Sau năm 1975, đất nước ta được hòa bình, nhịp sống hối hả tất bật tràn
đầy, không khí chiến trận đã đi qua.
18
Có thể nói, chưa bao giờ văn xuôi phát triển mạnh mẽ như giai đoạn từ
1986 đến nay. Sự đổi mới văn học ấy được nhận diện trên nhiều phương diện
trong nhiều thể loại, đáng chú ý nhất là tiểu thuyết. Tiểu thuyết luôn được
xem là thể loại ưu việt nhất trong cách khám phá nhận thức đời sống ở nhiều
mặt và nhiều tầng bậc. Với tư cách là sản phẩm của các loại tư duy nghệ thuật
tổng hợp, tiểu thuyết là nơi mà nhà văn có thể nhìn và biểu đạt đến tột cùng
mọi suy nghĩ sáng tạo của mình đến bạn đọc với cách viết mới, đặc biệt đối
với các nhà văn "hậu đổi mới" vấn đề quan tâm lớn nhất là "viết về cái gì và
viết như thế nào". Trên văn đàn lần lượt xuất hiện những tác giả mới và
những đóng góp của họ có thể nói đã làm thay đổi nhiều hệ thống tiêu chí
thẩm mĩ cũ, từ đó một loạt các giá trị mới đã được hình thành và xác lập.
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại từ đổi mới đến nay có nhiều đổi mới
mạnh mẽ và sâu sắc trên cả hai phương diện nội dung và hình thức biểu đạt.
Những mạch nguồn truyền thống đã được thay thế bằng nhiều cảm hứng mới.
Những trang viết về con người cá nhân về cuộc sống đời thường với tất cả sự
phức tạp và bề bộn đã xuất hiện, thay thế những quy phạm và cảm hứng sử thi
truyền thống trước đó.
Văn học dần dần trở về trạng thái phát triển bình thường của nó từ tư

duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng
thế sự đời tư. So với thời kỳ trước đổi mới, các nhà văn nhập cuộc vào sự thật
"tàn nhẫn" của thời hậu chiến, thời khủng hoảng, thời xây dựng, văn học bước
vào một hiện thực khác dẫu bình lặng, yên ả nhưng cũng ngổn ngang với
người thách thức mới. Trong bản thân mỗi một cá nhân cầm bút từng ngày,
từng giờ đã diễn ra một quá trình "tự vấn", thay đổi âm thầm những quyết liệt
về quan niệm về đề tài, về cảm hứng và cả phương pháp sáng tác. Từ suy nghĩ
của Nguyễn Khải về văn học cũ - mới trước đây: "viết về cái thường ngày là
văn học cũ, viết về cái phi thường là văn học mới - viết về hi sinh day dứt,
nhiều day dứt về những nỗi khổ đau của cá nhân là văn học cũ - viết về những
chiến công của tập thể là văn học mới" (nghề văn cũng lắm công phu) đến giờ
những trăn trở của ông lại là: "thời rộng cửa, gợi được rất nhiều thứ để viết.
19
Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng,
màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động những bất ngờ, mới thật là
mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ" (Gặp gỡ cuối năm -
Nguyễn Khải)
Chiêm nghiệm, triết lý đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối
với người sáng tác, tiểu thuyết với hành động xé rách tấm màn giả dối khám
phá những điều mới mẻ, tra tấn con người ở mọi khía cạnh sâu kín lắm. Hiện
thực trong tiểu thuyết vì thế được nhìn thấy như một nguồn sự kiện mang tính
đa tầng, đa phương, ẩn khuất, phi li, bất ngờ.
Tiểu thuyết từ đổi mới đến nay quan tâm đến nhiều vấn đề khác nhau từ
cuộc chiến tranh đã qua, cuộc sống đổi mới, đời tư đời thường chuyện gia
đình, làm ăn, cơ chế đổi mới nhận thức làm việc, vấn đề riêng, bao nhiêu mối
quan hệ phức tạp, chồng chéo
Cho dù không ít người tỏ ra hoài nghi về số phận của tiểu thuyết nhưng
đến nay, tiểu thuyết vẫn tiếp tục phát triển và thực sự vẫn là "thể loại máy cái"
đáng vai trò quyết định đối với sự phát triển và quy mô của bất cứ một nền
văn học nào. Một mặt tiểu thuyết xâm thực vào các thể loại, mặt khác dung

nạp vào đó ưu thế của nhiều thể loại để tạo thêm "dưỡng chất" cho mình.
Ngay cây bút xuất sắc trong lĩnh vực truyện ngắn như Nguyễn Huy Thiệp
cũng từng khẳng định "thời nay là thời của tiểu thuyết". Tiểu thuyết biến hóa
để đáp ứng những yêu cầu mới trong một thời đại mới với những đặc thù của
một đời sống hiện đại xô bồ hỗn loạn, khủng hoảng niềm tin.
Để tạo được sức hấp dẫn nhằm đáp ứng thị hiếu của người đọc cũng
như để bắt kịp bước chuyển mình của thời đại, tiểu thuyết có những cách tân
đổi mới trên nhiều phương diện: đổi mới quan niệm và hình thức, đổi mới
quan niệm về con người, đổi mới về thi pháp thể loại tiểu thuyết đương đại
mang đậm chất đời tư, những số phận có trong hạnh phúc không trọn vẹn, thể
hiện những khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt
nên cuộc sống đời thường phức tạp có những đổi mới trong trần thuật và
20
trong bút pháp để tạo nên tính đa thanh của tác phẩm. Các tác phẩm đã đi
thẳng vào những vấn đề gai góc của cuốc sống, cách viết táo bạo hơn, tiếp cận
đời sống một cách trực tiếp hơn quan sát kỹ lưỡng hơn, vì thế đòi hỏi ngôn
ngữ văn chương phải mang tính đa nghĩa biểu tượng và ẩn dụ. Một trong
những cách viết ấy, có Nguyễn Bắc Sơn là một gương mặt nổi bật, ông không
né tránh những vấn đề phức của cuộc sống mà mổ xẻ mọi vấn đề một cách
tường tận, ông nhìn thấy được rằng, hiện thực trong cuộc sống không đơn
giản là hiện tượng được "nhìn thấy" mà quan trọng hơn là thứ hiện thực "tự
cảm thấy". Nhà văn đã phơi bày những mặt trái còn bị che khuất, lên án
những lực lượng, những thói quen, nếp sống, cách hành xử lạc hậu lỗi thời
làm cản trở quyền sống quyền nhu cầu hạnh phúc chính đáng của con người
cũng như sự phát triển của xã hội.
1.1.3. Một số khuynh hướng của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986
Trong văn học hiện đại, tiểu thuyết luôn được coi là thể loại “máy cái”,
là nơi biểu hiện tập trung nhất trình độ tư duy văn học, nơi kết tinh quan trọng
nhất thành tựu của một thời đại văn học. Quá trình đổi mới văn chương ở
nước ta diễn ra đã hơn hai thập kỷ với rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn

cần được lý giải, đánh giá mà dư luận chung thì còn rất phức tạp
Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay phát triển theo nhiều khuynh
hướng khác nhau. Theo quan điểm phân loại của Nguyễn Thị Bình (dựa vào
tiêu chí bút pháp), tiểu thuyết Việt Nam từ thời điểm đổi mới đến nay phát
triển thành mấy khuynh hướng phong cách chính: 1. Tiểu thuyết theo phong
cách “lịch sử hoá”; 2. Tiểu thuyết theo phong cách “tự thuật”; 3. Tiểu thuyết
tư liệu – báo chí; 4. Tiểu thuyết hiện thực kiểu truyền thống; 5. Tiểu thuyết
theo phong cách hậu hiện đại [7]. Đấy là một cách phân loại có cơ sở và cũng
sát với thực tiễn của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đương đại (1986 đến nay).
Sự năng động của thể loại tiểu thuyết là hệ quả tất yếu của những đặc
trưng thể loại chi phối ngòi bút sáng tạo của nhà văn. Từ sau năm 1975, nhất
là từ thời điểm cao trào đổi mới (1986) nay, không khí dân chủ, cởi mở của
đời sống xã hội, sự phức tạp của hiện thực đổi mới thực sự là bầu khí quyển
21
nuôi dưỡng sự phát triển của thể loại tiểu thuyết. Giai đoạn này tiểu thuyết nở
rộ, đội ngũ người viết ngày càng đông đúc, số lượng tác phẩm dồi dào, nhiều
cuốn nhận được giải thưởng từ các cuộc thi hoặc giải thường niên của Hội
Nhà văn, có cuốn không được giải nhưng làm xôn xao dư luận: Thời xa vắng
(Lê Lựu), Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Thiên sứ (Phạm Thị
Hoài), Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Côi cút giữa
cảnh đời (Ma Văn Kháng), Một cõi nhân gian bé tý (Nguyễn Khải), Ông cố
vấn – hồ sơ một điệp viên (Hữu Mai), Sao đổi ngôi (Chu Văn), Ác mộng (Ngô
Ngọc Bội), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Mảnh đất tình yêu (Nguyễn
Minh Châu), Quãng đời xưa in bóng (Dũng Hà), Cuốn gia phả để lại (Đoàn
Lê), Phố, Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bến không chồng (Dương Hướng),
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh), Lời nguyền hai trăm năm (Khôi Vũ), Miền hoang
tưởng (Đào Nguyễn), Ngoại tình, Nền móng (Nguyễn Mạnh Tuấn), Nước mắt
đỏ (Trần Huy Quang), Người và xe chạy dưới ánh trăng (Hồ Anh
Thái), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Không phải trò đùa, Góc tăm tối

cuối cùng (Khuất Quang Thuỵ), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang
Lập), Ngày thường (Phùng Khắc Bắc), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Cơ
hội của chúa (Nguyễn Việt Hà), Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Tuổi thơ dữ
dội (Phùng Quán), Tuổi thơ im lặng (Duy Khánh)… Có thể nói tiểu thuyết
chặng này viết về mọi đề tài nhưng hệ quy chiếu phổ biến là các giá trị nhân
bản. Không phải sự kiện lịch sử mà số phận cá nhân mới là trung tâm chú ý.
Chính những câu hỏi về con người là nơi giao hội nhiều cảm hứng, nhiều chủ
đề, làm nảy sinh nhiều loại nhân vật, nhiều sắc thái ngôn ngữ, nhiều cảm thức
văn học.
Sự phân biệt đề tài chiến tranh, đề tài sản xuất, đề tài tình yêu… thực ra
chỉ có ý nghĩa hình thức vì mối bận tâm của cá nhân sáng tác lẫn người đọc
nằm ở cái nhìn hiện thực, ở quan niệm nghệ thuật về con người mà mỗi tác
phẩm đề xuất. Nỗ lực đổi mới chặng đường này chủ yếu dồn vào cách xử lý
chất liệu hiện thực: một hiện thực đa chiều, hiện thực vừa có tính tất định, vừa
22
đáng ngờ, vừa hữu lý vừa phi lý, vừa trật tự vừa hỗn loạn, vừa thuộc về cái
rành rõ lý trí vừa như thuộc cõi siêu linh bí ẩn huyền hồ… đó là sự nới rộng
đáng kể biên độ hiện thực so với tiểu thuyết trước 1975. Soi qua “tấm gương”
tiểu thuyết, có thể thấy các mối quan hệ giữa văn chương với hiện thực, nhà
văn với bạn đọc đều được dân chủ hoá mạnh mẽ. Nhà văn có quyền xem hiện
thực là mục đích phản ánh hay chỉ là phương tiện để công bố tư tưởng riêng,
do vậy không còn bị lệ thuộc vào hiện thực. Người đọc từ bỏ dần thói quen
đối chiếu những điều tác phẩm kể lại với cuộc sống có thực ngoài tác phẩm để
suy tư về những gì được nhà văn gửi gắm qua cái hiện thực được lựa chọn có
khi đầy tính chủ quan, cá biệt. Người đọc có quyền tin hay không tin câu
chuyện được kể bằng kinh nghiệm cá nhân như thế.
Điều đáng lưu ý là dù nhu cầu đổi mới văn chương đã trở thành phổ
biến và cấp thiết trong toàn bộ đời sống văn học nhưng văn xuôi (trong đó có
tiểu thuyết) cho tới chặng cao trào vẫn tập trung vào sự đổi mới nội dung hiện
thực của tác phẩm, nghĩa là câu hỏi “viết về cái gì” luôn được ưu tiên hơn hẳn

câu hỏi “viết như thế nào?”. Dù viết về người lính hay người nông dân, trí
thức hay doanh nhân, trẻ em hay người già, người gặp thời hay kẻ lạc thời, về
quá khứ lịch sử hay về hiện tại, hướng tới cảm hứng triết luận hay cảm hứng
trào lộng; ngợi ca, khẳng định hay phê phán, phủ nhận… thì tinh thần chung
vẫn là kể một câu chuyện có đầu có cuối theo logic nhân - quả, sao cho người
đọc có thể dễ dàng quy chiếu ý nghĩa tác phẩm về hình tượng thế giới khách
quan. Nói cách khác, giá trị thẩm mỹ mà tác phẩm đem lại chủ yếu phụ thuộc
vào nội dung hiện thực của câu chuyện. Những biến đổi ở nghệ thuật trần
thuật như: điểm nhìn di động, người kể chuyện, bút pháp huyền thoại hoá, bút
pháp hài hước giễu nhại, ngôn ngữ suồng sã bụi bặm, v.v… vẫn không đủ tạo
ra một bước ngoặt trong tư duy thể loại.
Theo dõi bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975, đặc
biệt từ 1986 đến nay, nhìn theo các khuynh hướng vận động của nó, có thể
thấy khuynh hướng tiểu thuyết viết theo mô hình truyền thống hoặc làm mới
trên cái khung truyền thống vẫn vẫn có thành tựu và có vị thế quan trọng. Có
23
thể nhận thấy hàng loạt tác phẩm của nhiều nhà văn vẫn được viết theo
khuynh hướng này: Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Dòng sông mía của Đào
Thắng, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Tấm ván phóng dao của Mạc Can,
Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Ba người khác của Tô Hoài, Cõi người
rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh, Cuộc đời dài lắm của Chu Lai, Thời của những tiên tri giả của
Nguyễn Viện, Chuyện lan man đầu thế kỷ của Vũ Phương Nghi, Và khi tro
bụi, Mưa ở kiếp sau của Đoàn Minh Phượng,
Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn (Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép
riu) nằm trong khuynh hướng này.
Cũng cần nói thêm “Thời hiện tại, màu sắc của các bi kịch trở nên đa
dạng hơn cùng với vòng xoáy chóng mặt của cơ chế thị trường thời mở cửa.
Phần lớn các tác giả thường khai thác sự phức tạp của những bi kịch gia đình,
hôn nhân; sự đổ vỡ trong tình yêu đôi lứa do sự “lệch pha”, “vênh nhau” về

cách sống; sự sục sạo của cuộc sống áo cơm. Trong xu thế hội nhập toàn cầu,
các nhà văn Việt Nam có cơ hội tiếp thu, học hỏi những khuynh hướng sáng
tác văn chương đương đại, đón nhận những sản phẩm tinh thần mới cả về nội
dung và hình thức biểu hiện so với gia tài văn học truyền thống, ví như “văn
học phản tỉnh, sám hối”, “hậu hiện đại”, “sex”, “Freud và thuyết phân tâm”
Theo đó, văn học Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Việt Nam nói riêng có
những cuộc thể nghiệm táo bạo, những tìm tòi mới lạ. Các nhà văn nhìn thấy
bi kịch lúc này là sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, của các phát ngôn lớn,
hoang mang trước sự đảo lộn của các thang bậc giá trị đời sống hiện đại. Họ
tìm đến “cảm quan hậu hiện đại” và nhiều thứ khác, theo những khuynh
hướng khác
1.2. Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn trong bức tranh chung của tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986
1.2.1. Tiểu thuyết trong văn nghiệp của Nguyễn Bắc Sơn
Nguyễn Bắc Sơn đến với tiểu thuyết khá muộn màng nhưng ông lại
được công chúng và giới nghiên cứu đánh giá là nhà văn “trẻ”. Ông bước vào
24
lãnh địa của tiểu thuyết khi mái đầu đã bạc trắng nhưng cái già cả về hình
thức không che lấp đi được cái tài năng được hun đúc, trau dồi, ấp ủ suốt cuộc
đời của một nhà báo tài năng. Vì vậy khi đã cầm bút viết thì tiểu thuyết của
ông ngay lập tức được giới công chúng đón nhận nồng nhiệt, nó như một làn
gió mát thổi vào tâm hồn con người đang bị bủa vây bởi không khí nóng nực
quen thuộc bấy lâu.
Hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Bắc Sơn đã bắt kịp vào dòng
chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Lý do quan trọng là bởi vì nó viết
về những câu chuyện của ngày hôm nay với sự chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc
đời này. Nếu như Luật đời và cha con quan tâm nhiều tới xung đột tất yếu
giữa ba thế hệ trong một gia đình điển hình ở Thanh Hoa bắt đầu từ thời kỳ
cải cách ruộng đất thì Lửa đắng là cuốn tiểu thuyết viết về ngày hôm nay, ở
ngay dòng chảy chính của hiện thực, trực tiếp có mặt ở những va đập kiến tạo

ra nó, cả những đổ vỡ hào sảng, cả những kết tụ phũ phàng. Ở Lửa đắng, chủ
đề gia đình - xã hội ít được đề cập hơn mà nhà văn tiếp tục hoàn thiện nhiều
vấn đề về giáo dục, gia đình, hôn nhân chuyện vợ chồng, con cái…, tập trung
chủ yếu vào vấn đề cơ chế, cải cách hành chính. Có những vấn đề hoàn toàn
mang tính chất “dự báo”, chưa từng có trong hiện thực, lại có những vấn đề
hết sức nhạy cảm trong cuộc sống như vấn đề dân chủ. Hai cuốn tiểu thuyết
khác tên gọi song được xem như hai phần kế tiếp, liên tục. Sự khác biệt tên
gọi theo tác giả là nhằm tạo nên sự phong phú đa dạng cho bộ tiểu thuyết. Sau
đổi mới tiểu thuyết đang dần có những bước đột phá mới thể hiện trên mọi
phương diện, từ cách nhìn nhận, cách viết, cách thể hiện và phản ánh xã hội…
của mỗi nhà văn. Bắt kịp với dòng chảy đó tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn đã
mở ra trước mắt người đọc những nhận thức mới về xã hội; những tồn tại, hạn
chế; những mâu thuẫn, xung đột, những cái xấu mới phát sinh và cần được
loại bỏ… Phản ánh mối xung đột giữa ba thế hệ trong gia đình, nhất là những
xung đột phát sinh trong thời buổi giao thời giữa cái cũ và cái mới, giữa cơ
chế này với cơ chế kia, dẫn tới hàng loạt các bi kịch thời hiện đại, Nguyễn
Bắc Sơn đang cùng mối quan tâm với nhiều tác giả hiện nay. Tuy nhiên mỗi
25

×