Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa của di sản dân ca ví dặm xứ nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH





TRẦN THỊ LAN






TÌM HIỂU GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
CỦA DI SẢN DÂN CA VÍ - GIẶM XỨ NGHỆ





LUN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ





NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH





TRẦN THỊ LAN




TÌM HIỂU GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
CỦA DI SẢN DÂN CA VÍ - GIẶM XỨ NGHỆ

Chuyên ngnh: Lch s Vit Nam
M s: 60.22.03.13



LUN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. TRẦN VĂN THỨC



NGHỆ AN - 2014
LỜI CẢM ƠN

Thực hiện chủ trương của lãnh đạo Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn Nghệ An về việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ nghiên cứu, đồng thời thấy rõ nhiệm vụ của người nghiên cứu viên đối với

lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của tỉnh nhà, vì vậy tôi đã theo học
chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam khóa 20 của
trường Đại học Vinh (2012 - 2014).
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy giáo,
cô giáo khoa Lịch sử, khoa Sau đại học - Trường Đại học Vinh đã trang bị
kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến PGS. TS. Trần Văn Thức
- Trưởng khoa Lịch sử, đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn tốt nghiệp này.
Xin gửi lời cảm ơn tới các nhạc sĩ, cô chú, anh chị, các bạn đang làm
việc tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch Nghệ An, Trung tâm Bảo tồn và
phát huy di sản dân ca xứ Nghệ đã giúp đỡ tôi trong việc thu thập, tạo điều
kiện thuận lợi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình,
bạn bè đã luôn sát cánh, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời
gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả


Trần Th Lan
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2
3. Mục tiêu nghiên cứu 6
4. Đối tượng, Phạm vi nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7

6. Đóng góp của đề tài 8
7. Bố cục của đề tài 8
Chương 1. VÀI NÉT VỀ DÂN CA VÍ - GIẶM XỨ NGHỆ 9
1.1. Đôi nét về dân ca Việt Nam 9
1.2. Dân ca ví - giặm xứ Nghệ 11
1.2.1. Về tên gọi dân ca xứ Nghệ 12
1.2.2. Cơ sở để hình thành dân ca ví - giặm xứ Nghệ 13
1.2.3. Vài nét về qúa trình hình thành và phát triển dân ca ví - giặm
xứ Nghệ 16
1.2.4. Một số đặc điểm chủ yếu của dân ca Ví - Giặm xứ Nghệ 17
Chương 2. DI SẢN DÂN CA VÍ - GIẶM XỨ NGHỆ VỚI HAI GIÁ TRỊ
ĐẶC SẮC: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA 30
2.1. Giá trị lịch sử của dân ca ví - giặm xứ Nghệ 30
2.1.1. Ví - giặm xứ Nghệ trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 31
2.1.2. Ví - giặm xứ Nghệ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 37
2.1.3. Ví - giặm xứ Nghệ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 40
2.1.4. Ví - giặm xứ Nghệ trong giai đoạn hiện nay 41
2.2. Giá trị văn hóa của ví - giặm xứ Nghệ 42
2.2.1. Không gian văn hóa (nguyên bản) của dân ca xứ Nghệ 43
2.2.2. Không gian văn hóa dân ca xứ Nghệ ngày nay 44
2.2.3. Sinh hoạt ví - giặm xứ Nghệ là tập quán sinh hoạt mang đậm
tính cộng đồng 45
2.2.4. Nghệ thuật xây dựng biểu tượng (hình tượng) văn hóa trong
dân ca xứ Nghệ 47
2.2.5. Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ giàu bản sắc văn hóa 49
2.3. Một số giá trị tiêu biểu khác 53
2.3.1. Giá trị về văn học 53
2.3.2. Giá trị về mặt âm nhạc 58
Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY DI SẢN DÂN CA VÍ - GIẶM XỨ NGHỆ 63

3.1. Thực trạng kho tàng di sản dân ca ví - giặm hiện nay 63
3.1.1. Thực trạng tư liệu di sản dân ca ví - giặm xứ Nghệ 63
3.1.2. Những nguy cơ đối với di sản dân ca ví - giặm xứ Nghệ 64
3.1.3. Nguyên nhân làm mai một dân ca ví - giặm xứ Nghệ 66
3.2. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy di sản dân ca ví - giặm 67
3.2.1. Hoạt động sưu tầm, nghiên cứu về dân ca ví - giặm 67
3.2.2. Hoạt động xây dựng câu lạc bộ đàn hát dân ca, phát huy sự
lan tỏa của dân ca trong đời sống nhân dân 68
3.2.3. Phát huy dân ca ví - giặm xứ Nghệ bằng hình thức sân khấu hóa 69
3.2.4. Hoạt động dạy và học hát dân ca trong nhà trường và phát
sóng trên Đài phát thanh - truyền hình Nghệ An 70
3.2.5. Các hoạt động tuyên truyền, quảng bá và lồng ghép đưa Dân
ca ví - giặm vào các chương trình Liên hoan, hội diễn văn
nghệ trong và ngoài tỉnh 71
3.3. Đánh giá công tác bảo tồn và phát huy dân ca ví - giặm xứ Nghệ 72
3.4. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy di sản dân ca ví -
giặm xứ Nghệ 75
3.4.1. Một số quan điểm, định hướng cho công tác bảo tồn và phát
huy di sản dân ca ví - giặm xứ Nghệ đối với 2 tỉnh Nghệ An
và Hà Tĩnh 75
3.4.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy di sản dân ca ví - giặm
xứ Nghệ 79
KẾT LUN 93
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC






1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề ti
Xứ Nghệ là một trong những địa phương giàu truyền thống lịch sử, văn
hóa và cách mạng, nơi sinh ra các bậc hiền tài, những danh nhân lỗi lạc Từ
cuộc sống lao động sản xuất và đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước, người
dân xứ Nghệ đã sáng tạo và lưu giữ được một nguồn di sản văn hóa dân gian
phong phú, đa dạng và độc đáo với nhiều thể loại mang đậm bản sắc địa
phương: Trong đó, dân ca ví - giặm được xem là “đặc sản” của văn hóa xứ
Nghệ. Di sản đó là món ăn tinh thần đã hình thành và nuôi dưỡng nên cốt
cách, tâm hồn của người dân nơi đây. Lịch sử của dân ca ví - giặm là một quá
trình luôn phát triển, cả về bề rộng lẫn bề sâu mà chưa hề có sự đứt nối.
Tuy nhiên, một trong những vấn đề đặt ra khi nghiên cứu dân ca là xác
định các giá trị của dân ca ví giặm. Có thể thấy, dân ca ví giặm có nhiều đặc
thù và giá trị xét từ các phương diện: lịch sử, xã hội, văn hóa, âm nhạc, văn
học Giá trị nào của dân ca cũng đều quý giá. Song, để chứng minh dân ca ví
- giặm là của riêng xứ Nghệ, tồn tại từ lâu đời và gắn với đời sống văn hóa
tinh thần, thể hiện cốt cách, bản sắc con người của người dân xứ Nghệ thì giá
trị lịch sử và văn hóa mới thể hiện được hết. Dù vậy, cho đến nay, một số vấn
đề dưới góc nhìn khoa học về giá trị lịch sử và giá trị văn hóa qua các chặng
đường phát triển lịch sử - xã hội nhằm cung cấp đầy đủ các luận cứ khoa học,
phục vụ công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản vào thực tiễn hiện nay vẫn
chưa được nghiên cứu thỏa đáng.
Dân ca ví - giặm đang bị tách khỏi môi trường diễn xướng, không gian
sinh hoạt văn hóa đã và đang dần bị mai một, thay vào đó là các hình thức có
tính chất biểu diễn, được sân khấu hóa, trong khi đó bản thân di sản dân ca là
“di sản sống”, chỉ có thể tồn tại và có giá trị khi có thể tác động, đứng vững
và được nuôi dưỡng trong đời sống văn hóa của cộng đồng. Vì vậy:



2
- Cần có những đánh giá và nhận diện giá trị lịch sử - văn hóa của di
sản văn hóa phi vật thể ví - giặm trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân xứ Nghệ, qua đó, làm sáng tỏ đặc điểm tình hình lịch sử, xã hội thời kỳ
mà di sản ví - giặm ra đời và phát triển.
- Khẳng định nét “độc đáo” riêng có của ví - giặm, hình dung được nét
đẹp văn hóa trong tư tưởng, tình cảm và tâm hồn người dân xứ Nghệ.
- Qua đó, xem xét các xu hướng vận động, các quan điểm thẩm mỹ
khác nhau, xác lập, định hướng có tính dự báo, kiến nghị các giải pháp để bảo
tồn và phát huy hiệu quả dân ca xứ Nghệ trước xu thế hội nhập là một việc
làm cấp bách và đặc biệt cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn khoa học “Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa của di sản dân
ca ví - giặm xứ Nghệ” được thực hiện sẽ phần nào giải quyết những vấn đề
đang đặt ra đối với di sản dân ca ví - giặm xứ Nghệ hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhận thức kho tàng di sản văn hóa dân gian Việt Nam là tài sản quý giá
của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có
vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, từ nhiều
năm nay, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề sưu tầm, nghiên cứu,
đánh giá các giá trị của di sản văn hóa dân gian nhằm gìn giữ và phát huy văn
hóa truyền thống của đất nước. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận tầm quan
trọng của giá trị văn hóa phi vật thể trong đời sống xã hội và con người Việt
Nam, nơi lưu giữ những nét độc đáo, những giá trị tinh hoa của bản sắc văn
hóa dân tộc.
Sau nhiều năm nỗ lực nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị của di
sản, Việt Nam đã có được những thành công đáng ghi nhận, 8 di sản văn hóa
phi vật thể lần lượt được tổ chức UNESCO công nhận là những di sản phi vật
thể đại diện cho nhân loại. Niềm vinh hạnh đó đã tiếp thêm sức mạnh, niềm



3
tin và kinh nghiệm cho các địa phương trong cả nước áp dụng để khai thác và
đưa nguồn văn hóa dân gian còn tồn tại trong nhân dân lên tầm quốc tế.
Ở Nghệ An, ý thức sự mai một của văn hóa truyền thống sẽ trở thành
mối đe dọa đối với công tác xây dựng một nền văn hóa - văn nghệ mang đậm
tính chất dân tộc, của xứ Nghệ nói riêng, hàng thập kỷ qua, các nhà nghiên
cứu văn hóa dân gian trong tỉnh đã có nhiều chương trình, kế hoạch, các cuộc
hội thảo, các đợt điền giã để sưu tầm, nghiên cứu ở hầu khắp mọi miền quê
trong và ngoài tỉnh với mục đích bảo tồn và lưu giữ các giá trị vốn cổ dân ca,
trong đó có ví - giặm xứ Nghệ.
Thời kỳ Pháp thuộc, tác giả Nguyễn Văn Ngọc đã bỏ nhiều công sức đi
sưu tầm, ghi chép, kết quả là đã sưu tập được 2 tập “Tục ngữ phong dao”,
xuất bản năm 1928 do Vĩnh Long thư quán xuất bản. Tiếp đó Giáo sư Nguyễn
Đổng Chi cũng cho ra tập “Hát dặm Nghệ Tĩnh” của Tân Việt Hà Nội, xuất
bản 1944. Có thể nói, đây là 2 công trình ra đời sớm nhất, mở đầu cho quá
trình tìm lại vốn di sản dân ca còn được lưu giữ trong đời sống nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám thành công, dân tộc lại bắt đầu đứng trước cuộc
chiến tranh mới, trường kỳ trong kháng chiến chống Thực dân Pháp, mãi đến
sau năm 1954, ông Vũ Ngọc Phan cho ra cuốn khảo cứu về “Tục ngữ dân ca”
do Ban nghiên cứu Văn-Sử - Địa xuất bản, Hà Nội, 1956. Đầu năm 1958, tác
giả Nguyễn Chung Anh ra quyển “Hát ví Nghệ Tĩnh”. Ngoài ra có một số bài,
1 số câu đăng trên các báo chí tất cả công trình đó đều là những đánh giá
bước đầu nhưng đều rất quý báu.
Xứ Nghệ còn có đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học khá đông đảo,
các nhạc sỹ tài hoa, tiêu biểu trong đó có GS Nguyễn Đổng Chi, PGS Ninh
Viết Giao, Thái Kim Đỉnh, Trần Hữu Thung, Thanh Lưu, Lê Hàm, Đào Việt
Hưng, An Thuyên, Hoàng Thọ đã cho ra đời hàng loạt các công trình nghiên
cứu, sưu tầm như của PGS Ninh Viết Giao với “Hát phường vải”, Nhạc sĩ Lê



4
Hàm với “Dân ca Nghệ Tĩnh” (3 tập), Hát giặm Nghệ Tĩnh của Nguyễn Đổng
Chi, Dân ca Nghệ Tĩnh của Vi Phong, Hoàng Thọ và Lữ Minh Dân với “Dân
ca các dân tộc thiểu số” Trong đó phải kể đến công trình “Âm nhạc dân
gian xứ Nghệ”của 3 tác giả Hoàng Thọ - Lê Hàm - Thanh Lưu, được xem là
một tập đại thành về kho tàng dân ca của xứ Nghệ, là một tài liệu quý, góp
phần giúp các thế hệ hiện nay và mai sau có điều kiện tiếp cận và tiếp thu để
bảo tồn và phát huy vẻ đẹp của các làn điệu dân ca của quê hương.
Có thể thấy, các công trình trên đã lưu giữ các tác phẩm về dân ca với
nhiều thể loại, trong đó tập trung chủ yếu là ví và giặm thông qua công tác
điền dã, ghi chép của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, các nhạc sĩ. Một
số công trình đã tìm hiểu về các đặc điểm của ví và giặm từ nhiều góc cạnh
khác nhau chứ chưa có công trình cụ thể nào nghiên cứu, tìm hiểu thấu đáo về
giá trị lịch sử và văn hóa của hát ví - giặm, giúp cho người đọc có thể hiểu hết
thời đại xã hội mà ví - giặm đi qua cũng như nét duyên dáng trong văn hóa,
trong cốt cách tâm hồn con người xứ Nghệ mà chỉ có ví - giặm mới diễn tả
được hết.
Với định hướng làm cơ sở lý luận cho công tác bảo tồn và phát huy di
sản dân ca ví - giặm xứ Nghệ và cung cấp một số luận chứng khoa học cho
công tác lập hồ sơ đệ trình tổ chức UNSCO công nhân “Dân ca ví - giặm xứ
Nghệ” là di sản phi vật thể đại diện cho nhân loại, năm 2010, Nghệ An đã
triển khai đề tài khoa học cấp tỉnh “Bảo tồn và phát huy di sản dân ca xứ
Nghệ trước xu thế đổi mới, hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay”. Lần đầu tiên, ví
và giặm được nghiên cứu một cách có hệ thống, thông qua các cuộc khảo sát,
điền dã tới 28 huyện, thị Nghệ An và Hà Tĩnh (các cơ quan văn hóa cấp
huyện, xã, tới nghệ nhân hát dân ca, tầng lớp học sinh, sinh viên, người dân )
tới các tỉnh bạn như TP Bắc Giang, TP Hồ Chí Minh, TP Đà Lạt , nhằm thu
thập các thông tin, dữ liệu phục vụ công tác nghiên cứu, đánh giá mức độ yêu



5
thích, gìn giữ cũng như lan tỏa của di sản ví và giặm. Tuy nhiên, đề tài khoa
học chủ yếu được tiếp cận trên phương diện văn hóa học, tập trung đưa ra hệ
thống các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy di sản dân ca, phục vụ cho
UBND tỉnh, ngành văn hóa và các cơ quan liên quan.
Song song đó, để chuẩn bị cho công tác hoàn thiện hồ sơ đề nghị Tổ
chức UNESCO công nhận “Dân ca ví - giặm xứ Nghệ” là di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại, từ năm 2011 đến nay, đã có nhiều cuộc tọa
đàm, hội thảo mang tầm quốc gia, quốc tế như: tọa đàm “Trao đổi về giá trị, ý
nghĩa của dân ca ví - giặm Nghệ Tĩnh” (do Sở Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch
Nghệ An chủ trì), trong đó, gái trị lịch sử và văn hóa đã được đưa ra luận bàn.
Hội thảo Quốc tế “Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca trong xã hội đương
đại” (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh tổ
chức). Các cuộc hội thảo với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế, các nhà
nghiên cứu văn hóa, âm nhạc trong và ngoài tỉnh đã tập trung nghiên cứu về
các giá trị, thể loại, ý nghĩa thực tiễn, đặc biệt tập trung chủ yếu vào các giải
pháp bảo tồn và phát huy các giá trị ví - giặm trong đời sống đương đại Tuy
nhiên, góc nhìn về giá trị lịch sử và văn hóa mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu
chung chung, hầu hết mới chỉ khai thác được khía cạnh nhỏ về văn hóa, hoặc
bàn đến ví - giặm trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
Bên cạnh đó, những mặt độc đáo, hấp dẫn của di sản dân ca ví - giặm
cũng dần dần được làm sáng tỏ qua các bài báo, bài nghiên cứu của các học
giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh, đăng tải trên các tạp chí Trung ương
và địa phương như Tính bác học trong ca từ dân ca ví giặm xứ Nghệ (Ninh
Viết Giao), Vai trò của phương ngôn trong dân ca hò, ví, giặm xứ Nghệ, Suy
nghĩ về mấy lời hát ví (Phan Mậu Cảnh), Tính chất và đặc điểm của thể hò
trong dân ca Nghệ Tĩnh (Phan Thành), Tính chất, đặc điểm và các làn điệu
hát giặm xứ Nghệ (Hoàng Vinh), Hát giặm Nghệ Tĩnh- một thể hát dân ca



6
đậm bản sắc văn hóa xứ Nghệ (Đỗ Thị Kim Liên) Tuy vậy, các bài viết vẫn
chưa nêu một cách có hệ thống, chuyên sâu các giá trị của dân ca xứ Nghệ;
các ý kiến còn phân tán, theo những mục đích nghiên cứu và vận dụng riêng
của từng tác giả.
Nhìn chung, các công trình, các bài nghiên cứu luận bàn về di sản ví -
giặm từ trước đến nay đều là những kho tư liệu hết sức quý giá cho chúng tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Trên cơ sở hệ thống hóa các nguồn tư
liệu, đồng thời căn cứ vào kết quả điều tra, sưu tầm thực tế từ các địa phương
có thực hành ví - giặm sẽ bổ cứu và dần làm sáng tỏ cho vấn đề lịch sử và văn
hóa cần nghiên cứu. Hy vọng với luận văn khoa học “Tìm hiểu giá trị lịch sử
và văn hóa của di sản dân ca ví - giặm xứ Nghệ” sẽ góp phần giải quyết thỏa
đáng những vấn đề mà các công trình, đề tài nghiên cứu khác chưa hoặc ít đề
cập đến.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Thông qua nghiên cứu, tìm hiểu về loại hình dân ca ví - giặm, làm sáng
tỏ giá trị lịch sử và giá trị văn hóa, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp mới
có tính khả thi nhằm bảo tồn và phát huy di sản dân ca ví - giặm xứ Nghệ.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu, tìm hiểu giá trị lịch sử và giá trị văn hóa của dân ca ví -
giặm xứ Nghệ, khẳng định giá trị độc đáo, riêng có của di sản qua chặng
đường phát triển của lịch sử cũng như tâm hồn, cốt cách, bản sắc văn hóa của
người dân xứ Nghệ.
- Thông qua tìm hiểu 2 giá trị lịch sử và văn hóa sẽ góp phần làm cơ sở
dữ liệu cho các cấp lãnh đạo, ngành văn hóa của tỉnh nhà trong quá trình lập
hồ sơ đề nghị tổ chức UNESCO vinh danh “Dân ca ví - giặm xứ Nghệ” là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.



7
- Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy di sản dân ca ví -
giặm xứ Nghệ của Nghệ An.
- Đề xuất các giải pháp mới có tính khả thi nhằm góp phần bảo tồn và
phát huy di sản ví - giặm xứ Nghệ trước xu thế hội nhập và đổi mới đất nước
hiện nay.
4. Đi tượng, Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Kho tàng di sản dân ca xứ Nghệ rất phong phú, gồm có hò - ví -
giặm, các hệ lai như sắc bùa, ca trù, xẩm, Bên cạnh đó, còn có khối lượng
dân ca đồ sộ của các đồng bào dân tộc thiểu số như hát Nhuôn, hát Xuối,
Lăm, Khắp, điệu Đu đu điềng điềng
Ở đây, chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu 2 thể loại chính: thể Ví và
Giặm (dân ca của người Việt) của Nghệ An và Hà Tĩnh.
+ Dân ca ví - giặm xứ Nghệ có rất nhiều giá trị đặc sắc, trong đó, chúng
tôi tập trung nghiên cứu 2 giá trị chủ yếu, nổi bật nhất, đó là giá trị lịch sử và
giá trị văn hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Dân ca ví - giặm xứ Nghệ là đặc sản chung của 2 tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh, tập trung ở 14 huyện, thị của tỉnh Nghệ An và 12 huyện ở tỉnh Hà Tĩnh.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ cho phép của luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ tập
trung nghiên cứu dân ca ví - giặm với phạm vi không gian là của tỉnh Nghệ
An và phạm vi thời gian được xuyên suốt từ khi hình thành dân ca ví - giặm
cho đến tận ngày nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn khoa học trên, chúng tôi sử dụng các phương
pháp chính sau đây:
- Phương pháp lịch sử

- Phương pháp lôgic


8
Ngoài ra, có sử dụng một số phương pháp hỗ trợ khác như:
- Phương pháp điều tra, khảo sát
- Phương pháp phân tích tài liệu
- Phương pháp chuyên gia
6. Đóng góp của đề ti
- Luận văn cố gắng làm nổi bật nét đặc sắc của di sản ví - giặm trên
phương diện nghiên cứu hai giá trị lịch sử và văn hóa. Tính đến thời điểm
luận văn này được tiến hành thì chưa có một công trình nghiên cứu hoàn
chỉnh nào về đề tài này ra đời. Bởi vậy, qua công tác khảo sát, điền dã, phân
tích của luận văn thì lần đầu tiên, giá trị lịch sử và văn hóa của di sản dân ca
ví - giặm xứ Nghệ được tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống, có tính
khoa học, góp phần khẳng định giá trị độc đáo, riêng có của dân ca xứ Nghệ,
không hề lẫn lộn với dân ca của địa phương nào khác.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần để các cấp các ngành quản
lý, văn hóa tham khảo nhằm định hướng cho công tác bảo tồn và phát huy di
sản dân ca trong thời gian tới.
7. B cục của đề ti
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của đề tài được trình bày trong 3 chương như sau:
Chương 1: Vài nét về dân ca ví - giặm xứ Nghệ
Chương 2: Di sản dân ca ví - giặm với hai giá trị đặc sắc: Giá trị lịch sử
và văn hóa
Chương 3: Thực trạng và một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị
dân ca ví - giặm xứ Nghệ.





9
Chương 1
VÀI NÉT VỀ DÂN CA VÍ - GIẶM XỨ NGHỆ

1.1. Đôi nét về dân ca Vit Nam
Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc có nền văn hóa dân gian
đậm đà bản sắc dân tộc và giá trị của nó đã vượt qua bao thử thách của thời
gian, bởi lẽ bản chất của văn hóa dân gian là lòng nhân nghĩa thủy chung, vì
nghĩa tình, vì ấm no và hạnh phúc. Dân ca là những viên ngọc quý trong kho
tàng văn học và âm nhạc dân gian của cả dân tộc. Một trong những giá trị quý
báu của dân ca là cho chúng ta thấy khá sâu sắc về cuộc sống, tâm hồn của
người Việt Nam. Qua lời văn, nét nhạc, hình tượng dân ca, con người lao
động Việt Nam từ bao đời nay muốn phô bày một cách chân thực nỗi lòng, ý
nghĩ, tình cảm của mình. Mỗi miền dân ca trong cả nước, ta lại không gặp con
người Việt Nam chung chung, với một phong cách dân tộc chung chung, mà
ở đây ta gặp những con người Việt Nam cụ thể, những tâm hồn có phong cách
riêng được hun đúc từ bao đời ở những vùng văn hóa dân gian khác nhau.
Con người Việt Nam qua dân ca là con người gắn bó với cuộc sống, tha thiết
với quê hương, say sưa trong yêu đương, thủy chung trong tình nghĩa, cần cù,
giản dị mà giàu ước mơ, hoài bão.
Vậy, dân ca Việt Nam là gì?
Trong từ điển Tiếng Việt có định nghĩa: Dân ca là một loại hình sáng
tác dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết
hợp với nhau trong diễn xướng [26,105].
Theo tác giả Phạm Lê Hòa (Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương):
Dân ca là một loại hình âm nhạc với các thuộc tính: không có tên tác giả;
được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng phương thức truyền miệng;
gắn với đời sống của người dân và mang màu sắc vùng miền.



10
Theo tác giả Trần Quang Hải
(
1
)
: Dân ca là những bài ca không biết ai
là tác giả, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, dính liền với đời sống
hàng ngày của người dân quê, từ bài hát ru con, sang các bài hát trẻ em lúc
vui chơi, đến các loại hát lúc làm việc, hát đối đáp lúc lễ hội thường niên.
Tóm lại, dân ca là những bài hát, khúc ca được sáng tác và lưu truyền
trong dân gian mà không thuộc về riêng một tác giả nào. Đầu tiên bài hát có
thể do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều người, từ đời này qua
đời khác và được phổ biến ở từng vùng, từng dân tộc… Các bài dân ca được
gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng và bền vững cùng với thời gian. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao giá trị các sáng tác dân gian,
một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể. Năm 1958, tại Hội
nghị cán bộ văn hóa, Người khẳng định: “Những câu tục ngữ, những câu vè,
ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà
lại ngắn, chứ không “trường thiên đại hải”, dây cà ra dây muống. Các cán
bộ văn hóa cần phải giúp sáng tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là hòn
ngọc quý”.
Dân ca của mỗi vùng, mỗi miền đều có đặc điểm riêng về âm điệu và
phong cách riêng biệt. Sự khác nhau này tùy thuộc vào môi trường sống, hoàn
cảnh địa lý và đặc biệt là ngôn ngữ. Ví dụ: dân ca Quan họ khác với dân ca xứ
Nghệ, dân ca các dân tộc Tây Nguyên khác với dân ca Nam Bộ
Nhiều làn điệu dân ca đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao và có sức hấp
dẫn, truyền cảm mạnh mẽ, được phổ biến sâu rộng như: Dân ca quan họ Bắc
Ninh, Hò Huế

Ngoài những làn điệu thuộc các loại dân ca khác nhau còn có những
loại hát có nhạc đệm theo như Chầu văn, ca trù, ca Huế, ca Quảng, Đờn ca tài


(
1
)
Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia, Cộng hòa Pháp (CNRS).


11
tử miền Nam… và những hình thức ca kịch dân tộc độc đáo như Tuồng,
Chèo, Cải lương, Kịch hát
Dân ca Việt Nam có rất nhiều thể loại:
Xét đặc điểm âm nhạc, làn điệu, có thể chia dân ca thành hai loại chính
là loại: Đa điệu (nhiều làn điệu) như dân ca Quan họ Bắc Ninh; đơn điệu như
hát Ví, hát Giặm Nghệ - Tĩnh, hát Trống quân…
Xét về văn hóa vùng miền: Bắc Bộ có Dân ca Quan họ Bắc Ninh, hát
Xoan ở Phú Thọ, hát Ví, hát Trống quân, hát Dô ở Hà Tây ; Trung Bộ có hát
Ví - Giặm ở Nghệ An và Hà Tĩnh, hò Huế, Lý Huế, hát Sắc bùa…; Nam bộ
có các điệu Lý, điệu Hò, Nói thơ…
Ngoài ra còn có dân ca của các dân tộc miền núi phía Bắc (đồng bào
Thái, H'Mông, Mường…), dân ca của các dân tộc Tây Nguyên (Gia-rai, Ê-đê,
Ba-na, Xơ-đăng…) mỗi một miền dân ca đều mang một bản sắc, nét độc đáo
riêng có.
1.2. Dân ca ví - giặm xứ Ngh
Trong mạch nguồn văn hóa và nghệ thuật âm nhạc dân gian chảy từ
ngàn xưa, giữa sự đa dạng và đa diện của các dòng dân ca khác nhau như
Quan họ của vùng đất Kinh Bắc (Bắc Ninh), Chèo của Thái Bình, Nam Ðịnh,
Ca Huế, Đờn ca tài tử Nam bộ vẫn lấp lánh một dòng dân ca riêng biệt, đặc

sắc và độc đáo, tựa như:
Anh đến giàn hoa thì hoa kia đạ (đã) nở
Anh đến bến đò thì đò đạ (đã) sang sông
Anh đến tìm em thì em đạ (đã) lấy chồng
Em yêu anh như rứa, hỏi có mặn nồng lấy chi [28,72].
(trích bài Ví Ghẹo)
Hay da diết và gợi nhớ như:
Người ơi! Bốn mùa xuân hạ thu đông


12
Thiếp ngồi canh cửi chỉ trông bóng chàng
Cũng có khi bộc trực và thẳng thắn đến độ:
Đã thương thì thương cho chắc
Đã trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ đứng đầu truông
Khi vui giỡn bóng
Khi buồn bỏ đi. [19, 54].
Ðó là dân ca của Nghệ Tĩnh hay còn gọi là dân ca xứ Nghệ, chủ yếu là
hát ví và giặm. Dân ca xứ Nghệ như một làn điệu hội tụ "khí chất" của nhiều
làn điệu dân ca. Có một chút đa tình của Quan họ, chút bâng khuâng, vương
buồn của Ca Huế, chút sâu lắng của Ca trù và cái khoẻ khoắn, rắn rỏi, chất
phác của dân ca Nam bộ. Nhưng trên hết, ví - giặm mang "khí chất" của chính
người Nghệ, của những “mô, tê, răng, rứa” đậm hồn xứ sở và là "đặc sản"
tinh thần của nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Có thể hiểu, dân ca xứ Nghệ là thể loại dân ca do chính những người
lao động Nghệ Tĩnh sáng tác nên, được lưu truyền từ đời này sang đời khác
bằng phương thức truyền miệng, ghi chép và mang đậm chất văn hóa địa
phương của Nghệ Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh)
1.2.1. Về tên gọi dân ca xứ Nghệ

Xứ Nghệ là tên gọi của vùng Châu Hoan cũ (bao gồm cả Nghệ An và
Hà Tĩnh), có từ thời nhà Hậu Lê. Vào năm 1490, vua Lê Thánh Tông (niên
hiệu Hồng Đức thứ 21) đã đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ
An (gọi tắt là xứ Nghệ) đồng thời với các đơn vị hành chính khác lúc bấy
giờ như: xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ Đông, xứ Đoài, xứ Thanh, xứ
Lạng, xứ Huế
Trải qua bao lần tách nhập, Nghệ An và Hà Tĩnh trở thành 2 tỉnh hiện
nay nhưng trong lịch sử lại là “xứ” có chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa


13
Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng và sông Lam (mặc dù núi Hồng
Lĩnh nằm trọn trong đất Hà Tĩnh và sông Lam nằm ở ranh giới giữa Nghệ An
và Hà Tĩnh). Trung tâm của văn minh xứ Nghệ nằm ở hai bên dòng sông Lam
là phủ Đức Quang và phủ Anh Đô khi xưa (tức là các huyện Hương Sơn, Đức
Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh và các huyện Thanh
Chương, Nghi Lộc, thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương,
Anh Sơn của Nghệ An ngày nay).
Ngày nay, khái niệm “xứ Nghệ” không còn mang nặng tính chất địa
giới hành chính mà dùng để nói về văn hóa của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh,
gọi chung là “văn hóa xứ Nghệ”. Vì lẽ đó, di sản dân ca ví, giặm là kho tàng
vô giá của nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, được gọi là dân ca xứ Nghệ.
1.2.2. Cơ sở để hình thành dân ca ví - giặm xứ Nghệ
Người Việt Nam vốn là người thích thơ ca, thích hát, có thể nói còn hơn
cả thích kể chuyện. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, chúng ta đã được nghe
những điệu ru, điệu ví của bà, của mẹ. Vào tuổi măng non lại ngân nga những
bài hát đồng dao, ca dao. Khi trưởng thành, bước vào sản xuất có những bài ca
lao động; khi đất nước có chiến tranh thì có “tiếng hát át tiếng bom”; trong thời
bình, có tiếng hát ngành y, tiếng hát ngành giáo dục, ngành văn hóa, ngành
giao thông vận tải với người Nghệ, điều đó còn nổi trội hơn cả.

Nghệ Tĩnh được xem là vùng đất cổ của non sông đất nước, kể từ khi
nước nhà có tên là Văn Lang. Trải qua bao thăng trầm với bao lần thay đổi tên
gọi hành chính về phủ - châu - trại - thừa tuyên… Nghệ Tĩnh vẫn là một dải
đất chạy từ khe Nước Lạnh đến tận đèo Ngang, để lại nhiều ấn tượng đặc biệt
so với các vùng miền trong cả nước. Lẽ dĩ nhiên, trong nét chung để làm nên
non sông gấm vóc Việt Nam thì nét riêng, sắc thái riêng của mỗi địa phương
vốn có cũng là chuyện bình thường. Xứ Nghệ là một trong những vùng đất
mang nhiều sắc thái riêng, độc đáo đó.


14
Về địa hình: Nghệ Tĩnh là vùng đồng bằng trung du rộng lớn, có núi
non trùng điệp mênh mông, sách Đại Nam nhất thống chí còn gọi là “đất tứ
tắc”, ý nói bốn bề hiểm trở. Đúng là một vùng đất choáng ngợp bởi chằng chịt
hệ thống núi non, sông biển… tạo nên những nét đẹp kỳ thú hệt như những
bức tranh thủy mặc nên thơ, khêu gợi những tâm hồn sinh thơ ca nhưng cũng
tạo nên vẻ gân guốc, rắn rỏi cho thiên nhiên và con người xứ Nghệ.
Về khí hậu: Có lẽ cũng không có địa phương nào có dạng thời tiết khắc
nghiệt như vùng đất xứ Nghệ “nắng rát mặt, rét cắt da”, hạn hán, lũ lụt luôn
thường trực trên mảnh đất này, để tồn tại, con người xứ Nghệ phải vượt qua
nhiều khó khăn, vất vả:
Gió mưa chi lắm hỡi trời
Lúa mùa toan gặt lại trôi đầy đồng
Con đau vợ đói nhìn chồng
Khóc thảm, khóc thiết đỏ tròng con ngươi [48,125].
Về mặt dân tộc và ngôn ngữ, xứ Nghệ cũng là một vùng đáng chú ý bởi
có nhiều tộc người sinh sống, ngôn ngữ - văn hóa nơi đây dù đã trải qua hàng
ngàn năm tiến hóa, biến chuyển vẫn còn lưu giữ khá nhiều dấu vết cổ.
Về tính cách của cư dân xứ Nghệ, dù không đến nỗi biệt lập song
cũng có những nét độc đáo riêng do sự chi phối của hoàn cảnh. Tác giả Bùi

Dương Lịch (Nghệ An Ký) đã viết: Người Nghệ An khí chất chất phác đôn
hậu, tính tình số đông thường chậm chạp không sắc sảo, cho nên làm việc gì
cũng giữ gìn cẩn thận, bền vững ít bị xao động bởi những lợi hại trước mắt
[12,20]. Tựu chung, con người xứ Nghệ có những tính cách tiêu biểu sau:
gan góc, mưu trí, bền bỉ phấn đấu để thích nghi với thiên nhiên mặc dù trong
cái gan góc có cái bướng bỉnh, trong cái mưu trí có liều lĩnh, dũng cảm, nghị
lực, sẵn sàng quên mình vì nghĩa lớn, khảng khái, thủy chung, trung thực,
giàu tình cảm, …


15
Bên cạnh đó, Nghệ Tĩnh còn là nơi kết tụ của tài hoa các làng nghề:
nghề dệt vải, nghề đan lát, nghề đan lưới, nghề hái củi… là đất của hàng
nghìn di tích lịch sử, danh thắng của các đình, đền, chùa nổi tiếng.
Từ mảnh đất gian khó mà người xứ Nghệ vốn sẵn thông minh, rắn rỏi,
bộc trực, mang cái “gàn” của ông đồ xứ Nghệ. Các cộng đồng làng từ đời này
sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, gắn kết với nhau trong tình
làng nghĩa xóm, trong lao động cần cù, trong khát vọng yêu thương, vượt lên
thiên tai, địch hoạ, đầy gian khó của vùng đất khắc nghiệt. Chính cái khát
vọng sống của người và đất xứ Nghệ đã hoá thân thành những làn điệu dân ca
Ví - Giặm mộc mạc, chân chất, vừa tình tự, vừa sâu sắc, tựa như cái oai hùng,
sừng sững của ngọn núi Hồng, của dòng sông Lam không bao giờ cạn, mạch
sống của khúc nhạc, lời ca cũng không khi nào nhạt phai dù đã trải qua bao
đời người và bao nhiêu biến động thời thế. So với dân ca vùng miền khác,
hiếm có một vùng dân ca nào lại có sự gắn bó chặt chẽ với đủ các ngành nghề
thủ công, có nét độc đáo nhất định. Từ lao động, điệu ví - giặm được sản sinh:
nghề trồng bông dệt vải có ví phường vải; nghề đan lưới có ví phường đan,
nghề trên sông nước có ví đò đưa; hái củi có hát giặm
Lý giải sự phong phú, đa dạng văn hóa trong kho tàng dân ca, có học
giả nước ngoài cho rằng: do trong giọng nói của người Việt đã chứa sẵn âm

điệu của những bài hát, mà thổ âm của mỗi nơi lại một khác, cho nên việc ra
đời những làn điệu dân ca phù hợp với chất giọng của mỗi vùng, miền là một
điều dễ hiểu. Từ đó mà làm nên một vùng dân ca xứ Nghệ đậm đà bản sắc.
Thơ - ca - nhạc dân gian xứ Nghệ có thể ví như một dòng sông bắt
nguồn từ những mạch sâu kín qua nhiều thời đại, mang theo tâm tư, tình cảm,
ước mơ của con người trên mảnh đất vốn đã khô cằn sỏi đá. Từ cuộc sống đầy
vất vả mưu sinh, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với những cơ cực
mà người xứ Nghệ đã bắt đầu bằng những lời ca, tiếng hát, trước là để cho


16
tinh thần sảng khoái, tươi vui, cho công việc trở nên nhẹ nhàng, sau thành
những cuộc hát đối đáp đầy ngẫu hứng, giao duyên được cả cộng đồng tham
gia, đến nỗi mà:
Hát cho đổ quán xiêu đình,
Cho long lanh nước, cho mình lấy ta
Hát cho ngày rạng đông ra,
Mai về quan bỏ nhà pha cũng đành [53, 65].
1.2.3. Vài nét về qúa trình hình thành và phát triển dân ca ví - giặm
xứ Nghệ
Ví - giặm là sản phẩm của cộng đồng người Việt ở xứ Nghệ, sáng tạo
nên trong quá trình sinh hoạt và lao động sản xuất, mang đậm bản sắc địa
phương, là thổ sản tinh thần phản ánh trung thành nhiều khía cạnh độc đáo
của người dân xứ Nghệ: chịu cực, chịu khổ, nhẫn nại, vừa giàu nghị lực, vừa
chan chứa tình người.
Cũng bởi xuất phát từ trong nhân dân lao động mà việc xác định dân ca
xứ Nghệ ra đời từ thế kỷ nào cũng khó chính xác. Theo nhiều nguồn tư liệu để
lại, căn cứ vào một ít bài hát giặm phản ánh tình hình thời Lê - Trịnh mà các
nhà nghiên cứu đã sưu tầm được ở Hà Tĩnh, từ thế kỷ XVII - XVIII, dân ca
xứ Nghệ đã phát triển và trở thành hình thức trình diễn dân gian phổ biến

trong quần chúng nhân dân [12,299]. Như vậy, quãng thời gian bắt đầu cho
đến khi phát triển ắt phải trải qua một thời gian dài. Có thể nói rằng, dân ca
xứ Nghệ đã tồn tại trên mảnh đất Lam Hồng từ rất lâu trong lịch sử. Trải qua
bao thăng trầm, dân ca xứ Nghệ có sự biến thiên, không ngừng đổi mới, hoàn
thiện, phù hợp với đương đại nhưng không làm mất đi hơi thở, cốt cách của
người Nghệ trong đó.
Trước cách mạng tháng Tám, phong trào sinh hoạt hát dân ca diễn ra
khá sôi nổi, lúc đó các nghề thủ công còn đang phát triển, còn chỗ không gian
sinh hoạt văn hóa cho hát ví, giặm.


17
Sau năm 1945, những buổi sinh hoạt hát ví, giặm theo hình thức dân
gian cũng ít dần, đặc biệt là hát giặm. Đã có khoảng ba buổi hát ví phường vải
diễn ra ở thành phố Vinh với mục đích phục vụ cho cách mạng. Tiếp đó còn
có một số buổi hát ví nhỏ diễn ra như ở các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu và
Yên Thành.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những năm 1960 - 1970,
xứ Nghệ lại chứng kiến một giai đoạn đầy sôi động của sinh hoạt hát dân
ca gắn với các phong trào văn hóa - văn nghệ của quần chúng… đặt nền
tảng cho hàng loạt các hoạt cảnh, hoạt ca ra đời mang cả hình thức dân
gian lẫn sân khấu chuyên nghiệp. Cũng từ hình thức sân khấu quần chúng,
các vở diễn lần lượt được dựng lên, đánh dấu cho giai đoạn thể nghiệm
đến phát triển của dân ca xứ Nghệ, minh chứng cho sự phát huy của dân
ca vào đời sống.
Trải qua hàng trăm năm được nuôi dưỡng bởi mạch nguồn văn hóa dân
gian, ví - giặm xứ Nghệ đã trở thành một di sản văn hóa phi vật thể mang đậm
bản sắc của người Nghệ. Qua mỗi thời kỳ, mỗi thế hệ, di sản ấy lại được trao
truyền, kế thừa và sáng tạo, bổ sung để thích ứng tốt hơn với môi trường,
hoàn cảnh xã hội và điều kiện lịch sử - xã hội mới.

Hiện nay, dù các hình thức sinh hoạt hát dân ca theo không gian diễn
xướng dân gian không còn, thay vào đó là không gian ở các câu lạc bộ, các
hội thi, hội diễn, trong trường học… song, dân ca xứ Nghệ đang thực sự hồi
sinh mạnh mẽ với một dung mạo mới, giàu giá trị nghệ thuật mà không làm
mất đi bản sắc và giá trị vốn có thủa nào.
1.2.4. Một số đặc điểm chủ yếu của dân ca Ví - Giặm xứ Nghệ
1.2.4.1. Làn điệu Ví
Hát Ví là một đặc sản trong gia tài văn hóa tinh thần của xứ Nghệ, gắn
liền với nghề nghiệp, có đủ các loại ví như ví phường vải, ví phường nón, ví


18
phường đan, ví phường củi, ví phường có bao nhiêu nghề nghiệp thủ công
thì có bấy nhiêu loại ví đó. Có rất nhiều cách hiểu về thể loại ví, có người cho
rằng ví là ví von, so sánh như:
Cổ tay em trắng như ngà
Mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Theo GS Đinh Gia Khánh: “Nhân dân gọi là hát ví, có lẽ hát ví hay
dùng lối ví von để trao đổi tình cảm với nhau. Giọng ví von rất gần với giọng
thơ, âm giai và nhịp điệu. Nếu chỉ hiểu đơn thuần như thế thì đâu gọi là đặc
sản của riêng xứ Nghệ. Vì hát ví như thế thì dân ca Việt Nam ở mọi vùng
miền cũng đều có lối ví von và so sánh.
Từ ví còn có thể hiểu là tiếng địa phương có nghĩa là “với”. Trong bài
Nhớ của Hồng Nguyên, chúng ta bắt gặp từ này ở một câu thơ có nghĩa như
vậy: Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc (Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau). Từ
“ví” có nghĩa là “với” hoàn toàn phù hợp với hình thức hát đối đáp giữa nam
và nữ của loại dân ca này (hát với nhau).
Cũng có ý kiến cho rằng: “ví” là “vói” và hát ví là hát với, hát vói, tức

bên nam đứng ngoài ngõ, ngoài đường, hát vói vào sân, vào nhà với bên nữ;
hoặc đám con gái đang cấy lúa ở dưới đồng này “hát vói” sang khu ruộng bên
cạnh với đám con trai đang nhổ mạ. Hoặc trong khung cảnh “hát vói” giữa
núi rừng:
Tiếng ai nói với bên non
Muốn sang coi thử có dòn hay không?
Có hỏi thì có trả lời:
Một ngày hai bận trèo non
Lấy gì mà đẹp mà dòn hỡi anh!


19
Thể Ví phù hợp với không gian văn hóa và hình thức trình diễn của lối
đối đáp, giao duyên. Cũng là hát đối đáp, nếu ở xứ Nghệ gọi là hát ví thì ở
một số nơi lại gọi là hát Ghẹo, hát Đúm, hát trống quân Như vậy, có nhiều
cách hiểu về “hát ví” và mỗi cách hiểu đều phù hợp với hoàn cảnh và không
gian diễn xướng lúc hát. Có thể thấy, chỉ có “hát ví” được dùng phổ biến ở
Nghệ - Tĩnh mà không thấy có ở địa phương khác trong cả nước.
Nhìn chung, hát ví có những đặc điểm sau:
Khác với hát quan họ ở Bắc Ninh, hát ghẹo ở Phú Thọ và hát Cửa đình
ở một số nơi khác, nhân dân Nghệ Tĩnh hát ví không cần tính đến thời gian.
Quanh năm trên đất Nghệ Tĩnh, lúc nào cũng có thể nghe tiếng hát ví, không
hát phường vải thì nghe hát phường củi, phường cấy, phường đan…
Đặc điểm nổi trội của hát ví, nhất là hát ví phường vải, phường đan
đó là có sự tham gia của tầng lớp nho sĩ. Phần lớn các nho sĩ này là các trí
thức bình dân, xuất thân từ quần chúng lao động, nhưng cũng có người là
con nhà dòng dõi, con nhà khoa bảng, có khi là những người còn có tên trên
bảng vàng. Thường tham gia hát ví họ đóng vai trò là “thầy gà”, “thầy bày”
cho bên nam và bên nữ. Hát ví đã trải qua một thời gian dài lại có sự tham
gia của các nho sĩ nên các câu hát ví vốn được sáng tác theo thể lục bát và

lục bát biến thể cũng thêm phần chải chuốt, điêu luyện, thể hiện tình cảm
phong phú, phức tạp, nhiều vẻ, nhiều câu mang tính trí tuệ, chơi chữ và có
chất “trạng”:
Đá có rêu bởi vì nước đứng
Núi bạc đầu bởi tại sương sa
Thấy anh em muốn giao ca
Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời
Thấy anh em muốn trao lời
Sợ chòm mây bạc giữa trời vội tan [48, 80].

×