BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ THANH HƯỜNG
TR¦êNG Tõ VùNG NG÷ NGHÜA VÒ HOA Vµ MÑ
TRONG TH¥ D¦¥NG KIÒU MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ THANH HƯỜNG
TR¦êNG Tõ VùNG NG÷ NGHÜA VÒ HOA Vµ MÑ
TRONG TH¥ D¦¥NG KIÒU MINH
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRỊNH THỊ MAI
NGHỆ AN - 2014
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 12
4. Phương pháp nghiên cứu 13
5. Đóng góp của luận văn 13
6. Cấu trúc của luận văn 13
NỘI DUNG 14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 14
1.1. Từ và nghĩa của từ 14
1.1.1. Từ 14
1.1.2. Nghĩa của từ 18
1.2. Đặc điểm hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa 25
1.2.1. Hệ thống trong ngôn ngữ 25
1.2.2. Hệ thống từ vựng ngữ - nghĩa 27
1.3. Trường từ vựng - ngữ nghĩa 28
1.3.1. Khái niệm trường từ vựng - ngữ nghĩa 28
1.3.2. Các loại trường từ vựng - ngữ nghĩa 29
1.4. Tác giả Dương Kiều Minh và tác phẩm thơ 33
1.4.1. Vài nét về Dương Kiều Minh 33
1.4.2. Thơ Dương Kiều Minh 36
Tiểu kết chương 1 38
Chương 2
TRƯỜNG TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA VỀ HOA
TRONG THƠ DƯƠNG KIỀU MINH 39
2.1. Các tiểu trường từ vựng - ngữ nghĩa về hoa trong thơ Dương Kiều Minh 39
2.1.1. Trường từ vựng ngữ nghĩa về các loài hoa 39
2.1.2. Tiểu trường về đặc điểm tính chất của hoa 48
2.1.3. Tiểu trường từ vựng về không gian và thời gian hoa xuất hiện 60
2.1.4. Tiểu trường từ vựng các danh từ đơn vị chỉ hoa 66
2.1.5. Tiểu trường các bộ phận của hoa 71
2.1.6. Tiểu trường chỉ trạng thái của hoa 73
2.2. Vai trò của trường từ vựng ngữ nghĩa về hoa trong thơ Dương Kiều Minh 79
2.2.1. Dẫn nhập 79
2.2.2. Các vai trò của trường từ vựng về hoa trong thơ Dương Kiều Minh 79
2.3. Tiểu kết chương 2 94
Chương 3
TRƯỜNG TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA VỀ MẸ
TRONG THƠ DƯƠNG KIỀU MINH 95
3.1. Các tiểu trường từ vựng ngữ nghĩa về mẹ trong thơ Dương Kiều Minh 95
3.1.1. Dẫn nhập 95
3.1.2. Các tiểu trường từ vựng về mẹ 97
3.2. Vai trò của trường từ vựng về mẹ trong thơ Dương Kiều Minh 121
3.2.1. Trường từ vựng về mẹ góp phần thể hiện tình cảm của tác giả dành cho mẹ 121
3.2.2. Trường từ vựng về mẹ góp phần khắc họa hình ảnh người phụ nữ Việt Nam 126
3.3. Tiểu kết chương 3 131
KẾT LUẬN 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tác phẩm văn học là một hệ thống ký hiệu có tổ chức riêng. Trong đó
các đơn vị từ, ngữ, câu đều là những phương tiện quan trọng mang giá trị thẩm
mỹ. Từ ngữ chính là nguyên liệu cơ sở giữ vai trò cơ bản trong việc xây đắp
nên hình tượng nghệ thuật, yếu tố quyết định sự tồn tại của tác phẩm văn học.
Mỗi nhà thơ có một cách dùng từ riêng. Mỗi tác phẩm có một hệ thống lớp từ
ngữ mang đặc trưng riêng. Từ ngữ là một trong những thành tố tạo nên dấu ấn
của tác phẩm và cũng là một trong những thành tố góp phần làm nên phong
cách của tác giả.
1.2. Nền văn học Việt Nam đương đại đang xuất hiện khá nhiều nhà
thơ với nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau, thu hút sự chú ý của dư
luận. Trong số đó phải kể đến nhà thơ Dương Kiều Minh, một trong những
hiện tượng thi ca tiêu biểu của thi đàn văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Với bảy tập thơ Củi lửa, Dâng mẹ, Những thời đại thanh xuân, Ngày xuống
núi, Tựa cửa, Tôi ngắm mãi những ngày thu tận, Khúc chuyển mùa cùng
nhiều tùy đàm văn chương, Dương Kiều Minh đã tạo nên một gương mặt
thi ca đầy ấn tượng trong đội ngũ những nhà thơ hậu chiến và có đóng góp
không nhỏ vào diễn trình đổi mới thơ ca đương đại. Dương Kiều Minh đã
ghi đậm dấu ấn bằng một phong cách ngôn ngữ riêng. Một trong những đặc
trưng ngôn ngữ để lại dấu ấn đậm nét để người đọc dễ dàng nhận ra Dương
Kiều Minh là các trường từ vựng ngữ nghĩa. Trong đó, trường từ vựng về
hoa và trường từ vựng về mẹ là hai trường từ vựng bao trùm xuyên suốt
toàn bộ tác phẩm của ông.
Nghiên cứu thơ Dương Kiều Minh không chỉ góp phần tìm hiểu phong
cách của một nhà thơ nổi tiếng, một hiện tượng văn học mà còn đóng góp
7
một phần tư liệu để giảng dạy văn học nói chung và thơ ca nói riêng trong
nhà trường.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Trường từ vựng - ngữ nghĩa về
Hoa và Mẹ trong thơ Dương Kiều Minh” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lý thuyết về trường từ vựng ngữ nghĩa đã được nghiên cứu từ lâu. Ở
Việt Nam đã có nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể
đến một số tác giả tiểu biểu như Giáo sư Đỗ Hữu Châu với các công trình như
Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt; Các bình diện của từ và từ tiếng Việt; Khái
niệm trường và việc nghiên cứu hệ thống từ vựng; Trường từ vựng ngữ nghĩa
và hiện tượng nhiều nghĩa; Trường từ vựng và hiện tượng đồng nghĩa, trái
nghĩa… Giáo sư Nguyễn Thiện Giáp với cuốn Từ vựng tiếng Việt. Giáo sư
Nguyễn Đức Tồn với luận án Phó Tiến sĩ Trường từ vựng bộ phận cơ thể
người. Giáo sư Lê Quang Thiêm với Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì 1858 -
1945. Nguyễn Văn Tu với Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại. Hoàng Văn Hành
với các công trình Về tính hệ thống của vốn từ tiếng Việt; Về nghĩa của các từ
biểu thị sự nói năng trong tiếng Việt
Vận dụng lý thuyết Trường từ vựng ngữ nghĩa để nghiên cứu các trường
từ vựng cụ thể đã có rất nhiều công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn,
các bài báo. Các công trình có thể kể đến như:
Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đức Tồn “Trường từ vựng bộ phận cơ thể
người” (1988) đã đi sâu nghiên cứu một trường từ vựng, cụ thể là trường từ
vựng bộ phận cơ thể người, qua các tiểu trường từ vựng bộ phận cơ thể người,
tác giả đã phân tích, lý giải mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa rất lý thú.
Năm 1996, Nguyễn Thúy Khanh với luận án Phó tiến sĩ cũng nghiên cứu
một trường từ vựng tiêu biểu đó là “Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên
gọi động vật”. Từ các tên gọi động vật, tác giả cũng đã lý giải mối quan hệ
ngôn ngữ và văn học và có nhiều nhận xét mới mẻ về tên gọi động vật.
8
Nguyễn Ngọc Trâm là tác giả đã có một số công trình nghiên cứu các
trường từ vựng ngữ nghĩa cụ thể, chẳng hạn như “Tìm hiểu nhóm từ biểu thị
phản ứng tâm lý tình cảm” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, 1975).
Chu Bích Thu cũng đi vào một số nhóm từ cụ thể như “một vài suy nghĩ
về nghĩa những từ thuộc nhóm “tròn - méo” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, 1975).
Tác giả Hoàng Trọng Canh là người có nhiều công trình nghiên cứu về
trường từ vựng ngữ nghĩa như “Văn hóa người Nghệ Tĩnh qua vốn từ vựng
nghề cá” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, 1996), “từ chỉ nghề nghiệp
trong phương ngữ Nghệ Tĩnh” (Đề tài cấp Bộ, 2005).v.v…
Giáo sư Đỗ Thị Kim Liên cũng có nhiều công trình nghiên cứu về trường
từ vựng như: “Trường ngữ nghĩa về cây lúa và các sản phẩm từ lúa phản ánh
đặc trưng văn hóa lúa nước trong tục ngữ Việt” (Tạp chí Văn hóa dân gian,
số 4, 2006), “Trường ngữ nghĩa biểu hiện quan niệm về nữ giới trong tục ngữ
Việt” (Ngôn ngữ đời sống, số 6, 2007).v.v…
Những năm gần đây có rất nhiều công trình là bài báo, luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về các trường từ vựng cụ thể trong tác phẩm văn học như Trịnh
Thị Mai với “Tiếp cận bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận qua các trường
từ vựng ngữ nghĩa” (Kỷ yếu Ngữ học trẻ, 2008). Trần Thị Mai với “Trường
từ vựng chỉ không gian trong tập thơ lửa thiêng của Huy Cận ” (Tạp chí
Ngôn ngữ và đời sống, số 1 + 2, 2010). Đỗ Thị Hòa với “Một số đặc điểm
tâm lý văn hóa Việt qua nhóm từ ngữ thuộc trường nghĩa loài thú trong ca
dao” (Kỷ yếu Ngữ học trẻ, 2008). Phan Thị Thúy Hằng với “Trường từ vựng
tên gọi các loài cây trong ca dao của người Việt” (Luận văn thạc sĩ trường
Đại học Vinh 2007); Lê Thị Thanh Nga với “Đặc điểm lớp từ ngữ thuộc
trường nghĩa chỉ vật dụng - biểu tượng tình yêu trong ca dao tình yêu lứa
đôi” (Luận văn thạc sĩ trường Đại học Vinh 2008); Hai tác giả Hoàng Anh và
Nguyễn Thị Yến với “Trường nghĩa ẩm thực trong các bài báo viết về bóng
9
đá” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7 - 2009). Nguyễn Mạnh Hùng với “
Trường từ vựng về tôn giáo và chiến tranh trong tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Xuân Khánh” (Luận văn thạc sĩ trường Đại Học Vinh 2012).v.v…
2.2. Dương Kiều Minh là nhà thơ tương đối “lạ” được ít người biết đến
bởi sinh thời Dương Kiều Minh đã sống rất lặng. Ở bên ngoài bão táp của
công nghệ truyền thông, ông ít khi trả lời phỏng vấn báo chí, không tranh
luận, bút chiến… Mọi người chỉ nhớ đến ông qua những vần thơ ngọt ngào
sâu thẳm tình mẹ. Thơ của ông có một lực hút rất mạnh mẽ, các tác phẩm
của ông liên tục ra đời và lập tức nhận được sự chú ý của bạn đọc.
Đã có nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học nghiên
cứu thơ Dương Kiều Minh. Các công trình này chủ yếu đề cập đến các khía
cạnh nội dung chủ đề của tác phẩm thơ, các bài viết được đăng tải trên kênh
truyền thông mạng có thể kể đến rất nhiều bài viết như: tác giả Mai Văn
Phấn có bài viết “thơ Dương Kiều Minh mang hơi xuân từ những cánh
đồng” đăng trên báo Nghệ thuật mới số 3. Nhà thơ Trần Anh Thái có bài
viết “Nhà thơ Dương Kiều Minh lá vàng kiếp kiếp rơi mờ hoàng hôn”; tác
giả Bình Nguyên Trang có viết bài “Thơ Dương Kiều Minh-Bài học quý cho
nhiều nhà thơ trẻ” đăng trên trang văn hóa –thể thao, báo CAND.online.
Tác giả Đỗ Ngọc Yên có bài tham luận “Cảm thức thời gian trong thi pháp
thơ Dương Kiều Minh”; Nhà thơ Ngô Kim Đỉnh có bài viết “Dương Kiều
Minh - thi sĩ của những thôi thúc và quyến rũ từ những khoảng trống đời
người”; Bích Thu có bài vết “Cảm nhận thơ Dương Kiều Minh”; Vi Thùy
Linh viết bài tham luận “Một khoảng trống sau “mùa xuân gấp gấp”;
Hoàng Kim Ngọc có bài viết “thi pháp ngôn ngữ thơ Dương Kiều Minh”
đăng tải trên trang vietvan.vn. Và đặc biệt hơn tại cuộc hội thảo văn học với
chủ đề “ Dương Kiều Minh trong diễn trình đổi mới thơ ca đương đại” diễn
ra vào ngày 16/5/2012, tại khoa Viết văn - Báo chí, trường Đại học Văn hóa
Hà Nội. Tại hội thảo, nhiều ý kiến tham luận và phát biểu của các nhà văn,
10
nhà thơ tên tuổi như Bằng Việt, Nguyễn Quang Thiều, Chu Văn Sơn, Lưu
Khánh thơ, Nguyễn Đăng Điệp, Văn Giá, Đỗ Ngọc Yên, Văn Chinh đã
đánh giá cao những đóng góp của Dương Kiều Minh trong nền thơ Việt
Nam hiện đại. Hội thảo còn thu hút nhiều bạn đọc, sinh viên và những người
yêu mến, quan tâm đến nhà thơ xứ Đoài này.
Bình Nguyên Trang trong bài viết “Thơ Dương Kiều Minh - Bài học
quý cho nhiều nhà thơ trẻ” có nhận định: “Những tập thơ “Củi lửa”, “Dâng
mẹ”, “Những thời đại thanh xuân”, “Ngày xuống núi”, “Tựa cửa”, “Tôi
ngắm mãi những ngày thu tận”, “Khúc chuyển mùa”… đã tạo nên tầm vóc
Dương Kiều Minh - một nhà thơ khắc khoải với cuộc đời, không ngừng tìm
kiếm những giá trị mới trên nền tảng của truyền thống phương Đông, 29 tuổi,
đã vẽ lên được một diện mạo Thơ rõ ràng, ngay từ tập thơ đầu tiên, không
phải nhà thơ nào cũng làm được”.
Phần lớn những bài thơ của Dương Kiều Minh đều hiển lộ những hình
ảnh được soi chiếu từ ký ức. Dường như đối với ông, mọi biểu đạt về vẻ đẹp
của đời sống đều được khơi gợi từ ký ức. Đó là hình ảnh người mẹ, cánh đồng
lúa rộ vàng, khu vườn tuổi thơ, ngôi nhà có bậc thềm “giàn giụa ánh trăng
mỗi tối”, những bụi hoa cúc dại, những đồi núi lô xô của vùng đất nơi ông
sinh ra và lớn lên, những tiếng thầm thì của ngày xưa…
PGS.TS Nguyễn Bích Thu đã trình bày những cảm nhận khái quát của
mình về thơ Dương Kiều Minh. Tác giả bài viết khẳng định: “Hành trình thơ
Dương Kiều Minh là hành trình đau đáu tìm đường đi và trải nghiệm, trong
đó nổi bật là những ưu tư đậm chất thế tục về thân phận con người. Điều đó
tạo nên trong thơ ông cảm thức về thời gian rất rõ nét (được ý thức như một
phúng dụ về trạng thái nhân sinh). Đây cũng là lý do để Dương Kiều Minh
lựa chọn hai cách thể hiện hình thức thơ phù hợp nhất nhằm diễn tả những
cảm thức và trạng thái ấy: thơ tự do và thơ văn xuôi”.
11
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp cũng khẳng định: “Dương Kiều Minh thuộc
top 10 nhà thơ hậu chiến mang tinh thần đổi mới và thực sự đổi mới, mặc dù
đó là những con người cô đơn trên hành trình đổi mới của mình. Điều đó đã
tạo nên sự bùng nổ của các nhà thơ thuộc thế hệ sau. Cần thấy và đánh giá
được nỗ lực cách tân thơ ca của một thế hệ từ những trường hợp cụ thể như
Dương Kiều Minh”.
Là một nhà thơ cùng thế hệ, đồng thời là người bạn tâm giao với Dương
Kiều Minh, nhà thơ Trần Anh Thái cũng khẳng định tinh thần đổi mới thơ ca
quyết liệt ở người bạn thơ của mình. Ông cho rằng Dương Kiều Minh không
phải là người tìm tòi về hình thức. Câu chuyện thơ Dương Kiều Minh là câu
chuyện về vẻ đẹp thuần khiết trong sáng, câu chuyện về bản thể con người,
câu chuyện của sự tồn tại. Đó là một tinh thần hoàn toàn tự do, vượt lên tất cả
mọi ràng buộc và sự hư vô của các giá trị vật chất.
Điểm lại các công trình nghiên cứu chúng tôi thấy chưa có công trình
nào đi sâu, nghiên cứu thơ của Dương Kiều Minh từ góc độ ngôn ngữ. Vì
vậy, chúng tôi đã chọn Trường từ vựng ngữ nghĩa về hoa và mẹ trong thơ
Dương kiều Minh để làm đề tài nghiên cứu.
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Trường từ vựng về hoa và trường
vựng về mẹ trong thơ Dương Kiều Minh.
Tư liệu khảo sát hai trường từ vựng này là quyển “ tuyển tập thơ Dương
Kiều Minh”, Xuất bản năm 2011. Đây là cuốn tuyển tập tất cả các bài thơ của
Dương Kiều Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thống kê phân loại các tiểu trường từ vựng của hai trường từ vựng lớn là
trường từ vựng về hoa và trường từ vựng về mẹ trong thơ Dương Kiều Minh
12
- Phân tích miêu tả các trường từ vựng về hoa và mẹ.
- Phân tích vai trò của hai trường hoa và mẹ trong tác phẩm thơ Dương
Kiều Minh.
- Rút ra nét đặc sắc trong phong cách ngôn ngữ Dương Kiều Minh qua
hai trường từ vựng về hoa và mẹ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê phân loại: Thống kê các từ thuộc hai chủ đề hoa
và mẹ sau đó phân loại các tiểu trường.
- Phương pháp phân tích miêu tả: Phân tích miêu tả từng trường cụ thể.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: so sánh hai trường với nhau về số từ,
số lần xuất hiện về vai trò.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên đi sâu tìm hiểu trường từ vựng - ngữ nghĩa về
hoa và mẹ trong thơ Dương Kiều Minh. Các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần
làm sáng tỏ thêm nhận định cái tên Dương Kiều Minh là “một hiện tượng văn
học”. Hiện tượng văn học này không phải là người tìm tòi hình thức mà đó là
sự tìm về vẻ đẹp thuần khiết, trong sáng giản dị. Công trình cũng là những tư
liệu bổ ích phục vụ cho việc dạy học tác phẩm văn học trong nhà trường.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài
Chương 2: Trường từ vựng - ngữ nghĩa về hoa trong thơ Dương Kiều
Minh
Chương 3: Trường từ vựng - ngữ nghĩa về mẹ trong thơ Dương Kiều Minh
13
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Từ và nghĩa của từ
1.1.1. Từ
1.1.1.1. Định nghĩa từ
Vấn đề từ rất phức tạp do vậy có rất nhiều định nghĩa về từ.
V. Brondal: “Từ bao giờ và ở đâu cũng phải là một yếu tố của thông báo”.
K. Buhler: “Các từ là những kí hiệu âm thanh của một ngôn ngữ được
cấu tạo từ các âm vị và có thể tạo thành trường”.
W. Schmidt: “Từ không phải là tổng số có tính số học của vật chất âm
thanh và ý nghĩa mà là một chỉnh thể có tổ chức, một đơn vị kết cấu tính vật
chất âm thanh và ý nghĩa”.
E. Sapir: “Từ là một đoạn nhỏ nhất có ý nghĩa hoàn toàn độc lập và
bản thân có thể làm thành một câu tối giản”.
F.F. Fortunatov: “Từ là bất cứ âm nào của lời nói, trong ngôn ngữ từ
có một ý nghĩa khác với ý nghĩa của những âm cũng là từ khác”.
Những định nghĩa ở trên, mỗi định nghĩa đều đề cập đến một mặt của
từ và có những hạn chế nhất định. Định nghĩa của V. Brondal thiên về chức
năng giao tiếp của từ, của K. Buhler thiên về ngữ âm, định nghĩa của
W. Schmidt và F.F. Fortunatov mang tính chung chung không cụ thể,
không bao quát còn định nghĩa của E. Sapir thiên về ngữ nghĩa. Mỗi định
nghĩa đều có những điểm khác nhau, do vậy đòi hỏi phải có một định nghĩa
mang tính khái quát. Một số nhà ngôn ngữ đã định nghĩa theo hướng này.
O.P. Xunik cho rằng nên có những định nghĩa bộ phận: từ ngữ âm, từ
từ vựng, từ ngữ pháp. S.E. Jakhpntov cho rằng có ít nhất năm quan niệm
14
khác nhau về cái gọi là từ: từ chính tả, từ từ điển học, từ ngữ âm, từ biến tố,
từ hoàn chỉnh.
Còn đối với vấn đề từ tiếng Việt cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Đến nay đã có nhiều định nghĩa về từ tiếng Việt của các tác giả như Lê Văn
Lý, Phan Khôi, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Kim Thản,
Hoàng Tuệ, Đỗ Hữu Châu… Các định nghĩa về từ tiếng Việt có thể chia làm
hai hướng quan niệm. Quan niệm coi tiếng là từ như hai tác giả Nguyễn Tài
Cẩn, Nguyễn Thiện Giáp. Quan niệm thừa nhận từ với ba đặc điểm: hoàn
chỉnh về âm và nghĩa, có tính độc lập, chức năng ngữ pháp. Các tác giả tiêu
biểu cho quan niệm này là Nguyễn Kim Thản, Đỗ Hữu Châu, Hoàng Tuệ, Đỗ
Thị Kim Liên,v.v…
Nguyễn Kim Thản cho: từ là đơn vị của ngôn ngữ, có thể tách khỏi các
đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn
chỉnh về âm và nghĩa, có chức năng ngữ pháp.
Đỗ Hữu Châu cho: Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố
định bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức cấu tạo
nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong
tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu [6; 336].
Luận văn của chúng tôi lấy định nghĩa từ theo hướng quan niệm thứ hai
làm cơ sở để khảo sát trường từ vựng.
1.1.1.2. Phân loại từ
Vốn từ của một ngôn ngữ được phân thành các lớp khác nhau dựa vào các
cơ sở phân loại khác nhau như về cấu tạo, về nguồn ngốc, về phạm vi sử dụng.
a. Các lớp từ xét về mặt cấu tạo
Xét về mặt cấu tạo, từ tiếng Việt được phân loại thành từ đơn, từ láy, từ
ghép. Sự phân loại này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện ra cơ chế
ngữ nghĩa thống nhất trong những từ cùng thuộc một kiểu loại.
15
- Từ đơn: là những từ do một hình vị tạo nên. Đặc điểm về mặt ngữ
pháp của chúng là có thể dùng độc lập (độc lập về vị trí và độc lập về ngữ
pháp). Từ đơn có hai loại là từ đơn nguyên gốc và từ đơn suy phỏng. Xét về
mặt ý nghĩa, các từ đơn đại bộ phận đều có ý nghĩa hết sức khái quát. “Không
kể các trường hợp đồng âm, tính khái quát của các từ đơn thể hiện ở hai
phương diện: thứ nhất, có ý nghĩa loại lớn (génerique), ngoại diên (extension)
của mỗi từ bao quát rất nhiều sự vật, hiện tượng thường thì đồng tính, nhưng
cũng có khi không đồng tính; thứ hai, ở khả năng tương ứng với một số cấu
trúc biểu niệm khác nhau, sự phức hóa sẽ có tác dụng cố định hóa từng cấu
trúc biểu niệm đó” [6; 359].
- Từ láy: Phương thức láy là phương thức tác động vào một hình vị rồi
tự thân có nghĩa (hoặc một đơn vị phức hợp có nghĩa) làm xuất hiện một hình
vị láy có hình thức ngữ âm giống hoặc gần giống với nó. Hình vị có nghĩa sẽ
được gọi là hình vị cơ sở. Phương thức láy có thể tạo ra hình thái của từ, biểu
thị các ý nghĩa tình thái và quan hệ ngữ pháp hoặc tạo ra từ mới, tức là tạo ra
những từ có cấu trúc nghĩa mới, khác so với cấu trúc của đơn vị cơ sở.
Phân loại từ láy dựa vào mức độ láy ta có từ láy hoàn toàn và láy bộ
phận, dựa vào số lần láy ta có từ láy đôi, láy ba, láy tư.
- Từ ghép: Phương thức ghép tác động cùng một lúc vào hai vị trí rồi tự
thân có nghĩa, kết hợp chúng với nhau, sản sinh ra một từ mới. Sự tác động
này được tiến hành theo một số quy tắc sau.
Sử dụng hình tố vị trí làm phương tiện để tạo lập các đơn vị định danh
theo hai quy tắc: Quy tắc một là những yếu tố có đánh dấu đứng trước, yếu tố
có đánh dấu đứng sau chó má, áo xống, ruộng nương,… những yếu tố đứng
trước có nghĩa chung, bao quát, không hạn chế về mặt phong cách và phạm vi
sử dụng còn những yếu tố đứng sau thường có nghĩa hẹp, hoặc mờ nghĩa. Quy
tắc hai là yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau) từ ghép thuần Việt và
16
một phần Hán Việt) như bàn ăn, thưởng công, giải lao, chúc thọ, xe máy,
phòng ngủ,… Yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau như quốc ca, văn
sĩ, văn học, quốc kì,…
Quy tắc đồng nhất và dị biệt về nghĩa còn gọi là quy tắc tuyển chọn các
nguyên tố đồng nhất hoặc dị biệt về mặt ngữ nghĩa. Để tạo các đơn vị định
danh với nghĩa khái quát thì phải lựa chọn những yếu tố thuộc cùng phạm trù
ngữ nghĩa như thương yêu, đợi chờ, phải trái, sướng khổ, ruộng vườn,… Còn
để tạo ra các đơn vị định danh mang nghĩa chuyên biệt hóa thì lại phải lựa
chọn những cặp nguyên tố dị biệt trong đó có một yếu tố biểu thị ý nghĩa
phạm trù, còn yếu tố còn lại biểu thị đặc trưng khu biệt được lựa chọn như xe
đạp, xe ủi, xe lam, xe rùa, xe lăn,…
Quy tắc về cách tạo lập nên các đơn vị định danh phái sinh. Đó chính là
quy tắc ghép. Có hai kiểu ghép: ghép đẳng lập và ghép chính phụ. Tuy nhiên
để làm rõ quy tắc này thì chúng ta phải nói đến quy tắc tổ hợp và chuyển di
ngữ nghĩa. Đây là quy tắc cơ bản để tạo ra nghĩa phái sinh trong từ ghép.
a + b = AB
Ví dụ: áo + quần = áo quần
đồ mặc che phần trên đồ mặc che phần dưới trang phục - đồ mặc
Sự tổ chức này được tiến hành theo nguyên tắc: Bước một là tổ hợp
ngữ nghĩa, đó là hợp nhất nét đồng nhất lược bỏ nét dị biệt trong cơ cấu nghĩa
của các thành tố. Bước hai chuyển di ngữ nghĩa theo hướng biểu trưng hóa,
khái quát hóa.
b. Các lớp từ xét về nguồn gốc
- Từ thuần Việt: là bộ phận từ vựng gốc của tiếng Việt. Chúng biểu thị
những sự vật hiện tượng cơ bản nhất, tồn tại từ rất lâu đời.
- Từ vay mượn: từ vạy mượn trong tiếng Việt chủ yếu là vay từ ngôn
ngữ Hán và từ ngôn ngữ Châu Âu. c. Các lớp từ xét về phạm vi sử dụng
17
- Từ toàn dân: là những từ toàn dân hiểu và sử dụng, nó là vốn từ chung
cho tất cả những người nói tiếng Việt thuộc các địa phương khác nhau trên
toàn lãnh thổ.
- Từ địa phương: là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói hàng ngày ở một
địa phương nào đó.
Trên đây là những khái quát về từ và từ tiếng Việt. Có thể nói lý
thuyết về từ rất phong phú đây chỉ là những hiểu biết sơ bộ để phục vụ cho
luận văn này.
1.1.2. Nghĩa của từ
1.1.2.1. Quan điểm về nghĩa của từ
Nghĩa của từ là một khái niệm quan trọng của ngôn ngữ học. Giống
như từ, nghĩa của từ cũng được giải thích theo nhiều cách khác nhau.
P.A. Budagov lại viết: …có thể gọi nghĩa của từ là mối liên hệ được
hình thành về mặt lịch sử giữa âm thanh của từ và sự phản ánh của sự vật
hoặc hiện tượng, sự phản ánh đó nảy sinh trong nhận thức của chúng ta và
được biểu hiện trong bản thân từ.
A.A. Reformatskiy cho rằng: Nghĩa, đó là quan hệ của từ với sự vật,
hiện tượng mà nó biểu thị, đó là quan hệ của sự kiện ngôn ngữ với sự kiện
ngoài ngôn ngữ.
B.N. Golovin cũng phát biểu tương tự P.A.Budagov: …Sự thống
nhất của sự phản ánh vỏ vật chất của từ và sự vật tương ứng chúng tôi sẽ
gọi là nghĩa.
Theo Ju.D.Aprecjan thì “nội dung ngữ nghĩa của từ không phải là cái
gì tự thân. Nó hoàn toàn bị quy định bởi những mối quan hệ được hình thành
trong hệ thống những sự đối lập của từ này với các từ khác cùng thuộc
trường ấy”.
Trên đây là một số định nghĩa về nghĩa của từ. Nhìn vào những định
nghĩa đó ta thấy hiện lên những vấn đề chính sau: định nghĩa của
18
A.A. Reformatskiy nhấn mạnh vai trò của sự vật, hiện tượng trong việc
quyết định nghĩa của từ, bởi ngôn ngữ không phải là “một bảng tên gọi, nghĩa
là một cái bảng có bao nhiêu từ ngữ thì tương ứng với bấy nhiêu sự vật” (F.de
Saussure). Định nghĩa của Ju.D.Aprecjan lại gạt đi sự vật ra khỏi lĩnh vực ý
nghĩa của từ.
Từ hiện thực của các định nghĩa về từ, Ogden và Richard đã đi tới mối
quan hệ giữa ba nhân tố: sự vật, khái niệm về sự vật và từ trong sự hình thành
nên ý nghĩa. Tiếp nhận quan điểm đó, Stern đã vẽ ra tam giác nghĩa nổi tiếng,
cho đến nay nó vẫn được nhắc lại khi thảo luận về ý nghĩa của từ, dưới đây là
tam giác nghĩa đó đã được Ju.X.Xtepanov dẫn lại:
Hình 1.1 Hình 1.2
Từ tam giác nghĩa này, có nhiều tác giả cho rằng ý nghĩa của từ được
tạo thành từ ba nhân tố giống quan niệm của Ogden, Richard và Stern. Tuy
nhiên, sau đó nhiều thiếu sót của tam giác nghĩa này đã bị chỉ ra. Cụ thể là ba
nhân tố nghĩa tác giả đưa vào chưa thực sự cụ thể và đúng trong mọi trường
hợp. Như ở nhân tố từ ngữ âm, chỉ đưa mỗi nemyx, trong khi ở một số ngôn
19
ngữ mỗi từ có thể có rất nhiều hình thức ngữ âm. Thiếu sót thứ hai ở chỗ tác
giả chỉ đưa từ - ngữ âm mà không đưa các hình thức khác cũng liên hệ trực
tiếp đến nghĩa như từ - ngữ pháp, từ - cấu tạo. Cuối cùng, tam giác nghĩa này
không thể giải thích được tất cả các kiểu loại từ, nó chỉ có thể giải thích được
thực từ mà không thể giải thích các tiểu từ, quan hệ từ. Mặt khác, có thể nhận
thấy Stern đã trình bày từ như là những sự kiện riêng rẽ. Zveginxhev đã chỉ ra
thiếu sót này và sửa đổi tam giác nghĩa như sau:
Hình 1.3
Nhưng sự thay đổi này cũng không đem lại nhiều kết quả, bởi dù thay
đổi hay không thì tam giác nghĩa đó cũng tồn tại một nhược điểm nữa là
không chỉ ra được quan hệ giữa những thực thể đặt ở mỗi đỉnh với nhau và
quan hệ giữa mỗi thực thể đó với những nhân tố bên ngoài.
Khắc phục hầu hết những hạn chế đó, Giáo sư Đỗ Hữu Châu đã đưa ra
hình tháp nghĩa hình học không gian dưới đây. Với những ưu điểm của nó có
thể nói đây là cách hiểu khá hoàn hảo cho thuật ngữ “nghĩa của từ”.
20
Hình 1.4
Ở đỉnh cao nhất của hình tháp là từ (trừu tượng) với hai thành phần
hình thức và ý nghĩa. Ở mỗi đỉnh của đáy là những nhân tố góp phần làm
thành ý nghĩa, lần lượt là sự vật, hiện tượng, những hiểu biết của tư duy (khái
niệm), nhân tố người sử dụng (nhân tố lịch sử - xã hội), các chức năng tín
hiệu học, cấu trúc của ngôn ngữ.
Ưu điểm của hình tháp nhọn này là một mặt tách được những thực thể
đang xem xét (từ, các nhân tố) ra khỏi nhau, đồng thời vạch ra được những
quan hệ giữa chúng. Từ mối quan hệ giữa từ và sự vật hình thành ý nghĩa biểu
vật, từ với khái niệm hình thành nghĩa biểu niệm, từ nhân tố người dùng hình
thành ý nghĩa phong cách, liên hội, mối quan hệ với chức năng hình thành giá
trị chức năng, mối quan hệ với cấu trúc (với từ khác) sẽ tạo thành ý nghĩa cấu
trúc, và từ quan hệ giữa ý nghĩa với các thành phần hình thức mà hình thành
các ý nghĩa cấu tạo từ, các ý nghĩa ngữ pháp.
Như vậy, có thể hiểu về ý nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ là nội
dung tinh thần mà từ biểu hiện, nó được hình thành do sự kết hợp và tác động
của nhiều nhân tố. Trong số đó có những nhân tố nằm ngoài ngôn ngữ và
21
những nhân tố nằm trong ngôn ngữ. Nhân tố ngoài ngôn ngữ như: sự vật, hiện
tượng trong thực tế khách quan, tư duy và người sử dụng. Nhân tố trong ngôn
ngữ như: chức năng tín hiệu học, hệ thống (cấu trúc) của ngôn ngữ.
1.1.2.2. Các thành phần ý nghĩa của từ
a. Ý nghĩa biểu vật
Những sự vật, quá trình, tính chất hoặc trạng thái mà từ biểu thị được
gọi là ý nghĩa biểu vật của từ. Hay nói cách khác, ý nghĩa biểu vật của từ là
các ánh xạ của các sự vật, thuộc tính ngoài ngôn ngữ vào ngôn ngữ. Có một
điều cần chú ý là ánh xạ của các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan
được phản ánh vào ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất với các ánh xạ được
phản ánh trong tự nhiên.Ánh xạ trong ngôn ngữ có sự cải tạo lại, sáng tạo
những cái có trong thực tế theo cách nhận thức của từng dân tộc. Ta có thể
chứng minh điều này dựa vào phạm vi biểu vật của các thực từ trong một
ngôn ngữ cụ thể và dựa vào việc so sánh, đối chiếu phạm vi biểu vật giữa các
ngôn ngữ.
Biểu hiện thứ nhất của sự không trùng nhau đó là: trong thực tế, sự vật
luôn luôn tồn tại trong dạng cá thể và cụ thể, còn ý nghĩa biểu vật trong ngôn
ngữ lại mang tính đồng loạt, khái quát
Biểu hiện thứ hai của sự không trùng nhau đó là sự chia cắt hiện thực
khách quan khác nhau về nghĩa biểu vật của các ngôn ngữ.
b. Ý nghĩa biểu niệm
Sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan có các thuộc tính, các
thuộc tính đó phản ánh vào tư duy hình thành các khái niệm. Hay nói cách
khác, khái niệm là một phạm trù của tư duy, được hình thành từ những hiểu
biết trong thực tế. Ðấy là những dấu hiệu bản chất về sự vật, hiện tượng. Các
thuộc tính đó phản ánh vào ngôn ngữ hình thành các nét nghĩa. Tập hợp của
các nét nghĩa đó trong ngôn ngữ, hình thành ý nghĩa biểu niệm. Như vậy, ý
22
nghĩa biểu niệm một mặt thông qua các ý nghĩa biểu vật mà liên hệ với hiện
thực khách quan, mặt khác, lại có quan hệ với khái niệm, qua khái niệm mà
liên hệ với hiện thực ngoài ngôn ngữ.
Các nét nghĩa bắt nguồn từ các thuộc tính của các sự vật trong thực tế,
tuy nhiên ngôn ngữ của mỗi dân tộc chỉ chọn một số thuộc tính cơ bản có tác
dụng xác lập ý nghĩa của từ trong hệ thống.
Phân loại các nét nghĩa:
- Nét nghĩa phạm trù (phạm trù vị): Là nét nghĩa lớn nhất, không thuộc
một loại nét nghĩa nào lớn hơn.
- Nét nghĩa loại (loại vị): Sự phân hóa tiếp theo của phạm trù vị là loại
vị. Ðây là nét nghĩa cũng có ở nhiều từ nhưng nhỏ hơn phạm trù vị. Hay nói
cách khác, loại vị là sự cụ thể hóa của phạm trù vị.
- Biệt vị: Tương tự sự phân hóa ở loại vị, biệt vị là sự biệt loại hóa của
loại vị. Có 2 loại biệt vị:
+ Biệt vị tận cùng: Kết quả của sự phân hóa một loại vị nào đó ở mức
thấp nhất.
+ Biệt vị đặc hữu: Những nét nghĩa thấp nhất chỉ xuất hiện ở 1 từ,
không phải là sự phân hóa của loại vị.
Vậy, ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và
riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét
nghĩa có những quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một số ý nghĩa biểu
vật của từ. Chính vì ý nghĩa biểu niệm của từ là một tập hợp có tổ chức, có
quan hệ, cho nên còn có thể gọi nó là cấu trúc biểu niệm.
Phân biệt ý nghĩa biểu niệm và khái niệm: Có thể chỉ ra sự khác nhau
giữa ý nghĩa biểu niệm như sau:
Khái niệm là sản phẩm của tư duy, do đó chung cho mọi dân tộc còn ý
nghĩa của từ là riêng cho từng ngôn ngữ. Chính vì vậy, có những ý nghĩa biểu
23
niệm chỉ có trong ngôn ngữ này mà không có trong ngôn ngữ kia. Ví dụ,
ýnghĩa của các từ ghép đẳng lập phi cá thể (chợ búa, con cái, gà qué, ) hay ý
nghĩa của các từ ghép chính phụ sắc thái hóa (xanh lè, đỏ au, ) có trong tiếng
Việt mà không có trong tiếng Nga, tiếng Pháp.
Khái niệm có chức năng nhận thức nên tiêu chuẩn đánh giá nó là tính
chân lí, chính vì vậy cho nên những dấu hiệu trong khái niệm là những dấu
hiệu phản ánh các thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng trong thực tế
khách quan, đồng thời mỗi khái niệm chỉ ứng với một và chỉ một loại sự vật,
hiện tượng trong thực tế mà thôi. Còn ngôn ngữ có chức năng giao tiếp và tư
duy nên tiêu chuẩn đánh giá nó là sự phù hợp hay không phù với hệ thống ngôn
ngữ của từng dân tộc. Nghĩa biểu niệm chỉ tiếp nhận những nét nghĩa nào cần
thiết để lập nên cấu trúc nghĩa của từ trong mối quan hệ với toàn bộ từ vựng,
do đó nó chấp nhận cả hiện tượng nhiều nghĩa, đồng nghĩa. Ví dụ, cắt trong hệ
thống từ vựng tiếng Việt có quan hệ chặt chẽ với các từ chặt, chém, cưa, thái,
hái, xẻ, ; đồng thời cắt không những chỉ có thể diễn đạt được những hoạt động
có tính chất vật lí mà còn có thể diễn đạt được những hoạt động xã hội mang
tính chất trừu tượng (trong cắt hộ khẩu, cắt quan hệ, ).
Song những điều vừa nói chỉ đúng với ý nghĩa biểu niệm của những từ
thông thường. Trường hợp thuật ngữ khoa học và kĩ thuật, ý nghĩa biểu niệm
trùng với khái niệm.
Tóm lại, ý nghĩa biểu niệm và khái niệm vừa giống nhưng cũng vừa
khác nhau. Cả hai cùng sử dụng những vật liệu tinh thần mà tư duy con người
đạt được. Song nếu khái niệm bị chi phối bởi các quy luật của nhận thức thì ý
nghĩa biểu niệm lại bị chi phối bởi quy luật của giao tiếp và tư duy. Có thể nói
khái niệm quan hệ với ý nghĩa biểu niệm ở chỗ nó cung cấp những (vật liệu)
tinh thần để ngôn ngữ xây dựng nên ý nghĩa biểu niệm theo những quy tắc
cấu trúc của mình. Do đó, dù mọi dân tộc đều biết tư duy, nhưng hệ thống từ
vựng ngữ nghĩa của các dân tộc khác nhau.
24
c.Ý nghĩa biểu thái
Thuộc phạm vi ý nghĩa biểu thái của từ bao gồm những nhân tố đánh
giá như to, nhỏ, mạnh, yếu, nhân tố cảm xúc như: dễ chịu, khó chịu, sợ
hãi, nhân tố thái độ như: trọng, khinh, yêu, ghét, mà từ gợi ra cho người
nói và người nghe.
1.2. Đặc điểm hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa
1.2.1. Hệ thống trong ngôn ngữ
Trước khi các lý thuyết về trường ra đời thì tư tưởng về mối quan hệ
ngữ nghĩa của các từ trong ngôn ngữ đã được phát biểu. Có thể đây là những
gợi ý bước đầu để hoàn thiện lý thuyết về trường.
M.M. Pokrovxki (1896) viết: “Từ và ý nghĩa của chúng không tồn tại
tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng của chúng ta và độc lập với
ý thức chúng ta thành những nhóm nhất định. Cơ sở để tập hợp những nhóm
như vậy là sự đồng nhất hay trái ngược trực tiếp giữa chúng về ý nghĩa.
Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các từ như vậy hoặc giống nhau
hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý nghĩa và trong lịch sử của
chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng biết rằng những từ này
được dùng trong những tổ hợp cú pháp giống nhau” [6; 873].
H. Osthoff (1900) cho: “Có những hệ thống nhất định ý nghĩa phụ
thuộc lẫn nhau và vị trí ngữ nghĩa của từng yếu tố chỉ có thể được hiểu rõ
nhờ vào cấu trúc của từng hệ thống đó” [6; 873].
Nhưng nguyên lý của F.de. Saussure mới là bước quyết định hình thành
nên lý thuyết về các trường: “giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng do những yếu
tố ở xung quanh quy định” và “chính phải xuất phát từ cái toàn thể làm
thành một khối để phân tích ra những yếu tố mà nó chứa đựng” (dẫn theo Đỗ
Hữu Châu) [6; 873].
Lý thuyết trường chính thức được đưa ra là nhờ công lao của hai nhà
ngôn ngữ người Đức J.Trier và L.Weisgerber.
25