Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp môn ngữ văn ở các trường trung học phổ thông quận gò vấp thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.64 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HUỲNH THỊ QUỲNH CHI
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
MÔN NGỮ VĂN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 6 / 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HUỲNH THỊ QUỲNH CHI
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
MÔN NGỮ VĂN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học
bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số : 60.14.01.11
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN TỨ
NGHỆ AN - 6 / 2014
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng và chân thành tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc tới Trường Đại học Vinh, Khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện cho chúng
tôi được tham gia học tập, nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ nhằm
đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ được giao.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn, biết ơn sâu sắc tới các giảng viên, các nhà
khoa học đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ chúng tôi trong quá trình học tập
cũng như trong nghiên cứu khoa học. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn
PGS.TS. Nguyễn Văn Tứ đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám hiệu và tập thể GV các


trường THPT ở Quận Gò Vấp các bạn bè đồng nghiệp, người thân đã tận
tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành khoá học và
luận văn.
Mặc dù trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, bản
thân tôi đã nỗ lực và cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót.
Vì vậy, rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học,
các nhà giáo, bạn bè và đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2014
Tác giả
Huỳnh Thị Quỳnh Chi
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
1 HS Học sinh
2 GD Giáo dục
3 CT Chương trình
4 GV Giáo viên
5 NXB Nhà xuất bản
6 SGK Sách giáo khoa
7 THPT Trung học phổ thông
8 THCS Trung học cơ sở
9 HĐGDNGLL Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
10 HĐNGLL Hoạt động ngoài giờ lên lớp
11 KT- ĐG Kiểm tra đánh giá
12 XH Xã hội
13 KNS Kĩ năng sống
14 KN Kĩ năng
15 CNTT Công nghệ thông tin
16 VHDG Văn học dân gian
17 VHNN Văn học nước ngoài

18 NLVHDG Ngữ liệu văn học dân gian
19 TN Thực nghiệm
20 ĐC Đối chứng
21 NTT Nguyễn Trung Trực
22 THĐ Trần Hưng Đạo
23 ĐV Đại Việt
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 5
NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC 5
HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP MÔN NGỮ VĂN 5
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
1.2. Một số khái niệm cơ bản 13
1.3. Chương trình, nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp trong dạy học
môn Ngữ văn ở THPT 20
1.4. Thực trạng việc tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn ở trường THPT ở Quận Gò Vấp 23
Chương 2 32
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC TỔ CHỨC 32
HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP MÔN NGỮ VĂN 32
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUẬN GÒ VẤP 33
2.1. Nguyên tắc và định hướng tổ chức HĐNGLL trong dạy học môn Ngữ văn ở các trường
THPT Quận Gò Vấp 33
2.2. Một số nội dung cơ bản của việc tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn ở trường THPT Quận Gò
Vấp 50
2.3. Một số phương pháp tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn ở trường THPT Quận Gò Vấp 61
2.4. Một số điều kiện đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc, định hướng, nội dung và phương pháp
tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn ở các trường THPT quận Gò Vấp 81
Chương 3 86
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 86

3.1. Mục đích yêu cầu, nội dung và cách thức thực nghiệm 86
3.2. Tổ chức thực nghiệm 88
3.4. Kết luận chung về thực nghiệm 107
KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
PHỤ LỤC 115
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự việc Việt Nam tham gia PISA (Chương trình đánh giá học sinh
quốc tế do Hiệp hội các nước phát triển (OECD) khởi xướng và chỉ đạo) là
một bước tích cực của hội nhập quốc tế về giáo dục nhằm so sánh mặt bằng
giáo dục quốc gia với giáo dục quốc tế góp phần đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Hội nghị
Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 8 (khoá XI) ra nghị quyết về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế. Theo định hướng của Bộ GD-ĐT, việc đổi mới chương trình,
SGK sau 2015 sẽ chủ trương theo hướng tiếp cận năng lực, lựa chọn một số
nội dung cơ bản, thiết thực, gần gũi với cuộc sống nhằm hình thành năng lực,
giúp học sinh biết giải quyết các vấn đề và tình huống trong cuộc sống thường
nhật. Trước những yêu cầu đó, việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ
văn để giáo dục nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh là một yêu cầu tất yếu .
Trong giáo dục học nói chung cũng như trong lí luận dạy học các môn học nói
riêng, HĐNGLL luôn được đề cập như một hoạt động hết sức quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường
tháng 9/1945 đã từng căn dặn: “… Nhưng các em cũng nên ngoài giờ học ở
trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời
sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất

nước”. Trong thư gửi hội nghị các cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc, Hồ
Chủ tịch cũng nhắc đến yêu cầu đó: “Trong lúc học cũng cần làm cho các
cháu vui, trong lúc vui cũng cần làm cho các cháu học. Ở trong nhà trường,
trong xã hội, các cháu đều vui, đều học”. Nội dung của HĐNGLL đã được
2
xác định trong Điều 26, Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ
thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành theo Quyết định số
07/2007/QĐ-BGD ĐT ngày 02/04/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo) nêu: “Nhà trường phối hợp với các tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục
ngoài nhà trường thực hiện các HĐGDNGLL. HĐGDNGLL bao gồm các
HĐNK về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn giao
thông , phòng chống tệ nạn xã hội , giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật
nhằm phát triển toàn diện và bồi dưỡng năng khiếu; các hoạt động vui chơi,
tham quan du lịch, giao lưu văn hóa, giáo dục môi trường; các hoạt động xã
hội, từ thiện phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh” . Nhiệm vụ
của môn Văn nói chung, của người giáo viên dạy văn nói riêng là giúp HS
khám phá, cảm thụ và thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương,
từ đó hình thành thái độ sống, kĩ năng sống, năng lực hoạt động để trở thành
những người lao động tích cực trong điều kiện thế giới phẳng hiện nay. Tuy
nhiên , thực tế dạy học Văn trong nhà trường những năm gần đây ngày càng
khiến HS xa rời môn Văn trong đó có HS ở các trường THPT quận Gò Vấp.
Những vấn đề liên quan đến HĐNGLL cũng chưa được quan tâm thực hiện ở
các cấp học, các địa phương.
Đây cũng là vấn đề mà ngành giáo dục Gò Vấp chủ trương thực hiện
trong các trường Trung học phổ thông từ nhiều năm qua. Những kết quả và
những hạn chế trong việc tổ chức HĐNGLL ở các trường THPT Quận Gò
Vấp nói chung và thông qua dạy học môn Ngữ văn nói riêng cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đổi mới từ chương trình, nội dung đến hình
thức tổ chức,… Chính vì vậy, trên cơ sở lý luận và thực tiễn tổ chức
HĐNGLL bộ môn Ngữ văn, chúng tôi chọn đề tài: “Tổ chức hoạt động

ngoài giờ lên lớp môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông quận Gò
Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài nhằm mục
3
đích nâng cao chất lượng giáo dục và HĐNGLL môn Ngữ văn bằng một số
hình thức tổ chức mới mẻ, bổ ích, hấp dẫn ở các trường THPT trên địa bàn
quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả việc rèn luyện
nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh THPT Quận Gò Vấp trong HĐNGLL
môn Ngữ Văn
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của việc tổ chức HĐNGLL bộ
môn Ngữ văn ở trường THPT
- Đánh giá, khảo sát thực trạng vấn đề nghiên cứu ở trong thực tiễn
(vấn đề tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn ở trường THPT quận Gò Vấp).
- Đề xuất một số nội dung, phương pháp, quy trình tổ chức HĐNGLL
môn Ngữ văn ở trường THPT quận Gò Vấp, TP HCM.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn tại các trường THPT trên địa bàn
quận Gò Vấp, TP HCM.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: để tổng hợp, nghiên cứu những vấn
đề lí luận nói chung về vấn đề nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: để điều tra khảo sát thực trạng tổ
chức HĐNGLL cho học sinh bậc THPT trong dạy học môn Ngữ văn ở quận
Gò Vấp
- Phương pháp thống kê: Để xử lí số liệu trong quá trình nghiên cứu lí
luận, nghiên cứu thực trạng và thực nghiệm tổ chức HĐNGLL.
4

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm : để xác nhận tính hiệu quả và
tính khả thi của việc tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn.
5. Những đóng góp của luận văn
- Đóng góp về mặt lí luận: luận văn góp phần tổng hợp, phân tích, cụ
thể hóa cơ sở lí luận của việc tổ chức HĐNGLL bộ môn Ngữ văn ở trường
THPT
- Đóng góp về mặt thực tiễn: luận văn đưa ra một đánh giá, nhận xét
tổng quát về thực trạng tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn ở trường THPT quận
Gò Vấp; đề xuất và thử nghiệm một số vấn đề liên quan đến nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn ở trường THPT
quận Gò Vấp, TP HCM.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn có
3 chương:
Chương 1. Những cơ sở khoa học của việc tổ chức hoạt động ngoài giờ
lên lớp trong dạy môn Ngữ văn ở trung học phổ thông
Chương 2. Một số vấn đề về việc tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp
trong dạy học môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông Quận Gò Vấp
Chương 3.Thực nghiệm sư phạm
5
Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Việc nghiên cứu về hoạt động ngoài giờ lên lớp ở nước ngoài
Trên thế giới, ở các thời kỳ và các quốc gia, mặc dù có khác nhau về
mục tiêu, nội dung, phương pháp tổ chức, nhưng HĐNGLL đã được tổ chức
nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục. Trong thời kỳ hiện đại, với phương
châm “học để học cách học, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự

khẳng định mình”, HĐNGLL được tiếp tục phát triển để phát triển năng lực
toàn diện cho người học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò, nội
dung, hình thức, phương pháp tổ chức các HĐNGLL và đều khẳng định vai
trò của HĐNGLL trong việc phát triển toàn diện học sinh ở mọi lứa tuổi.
Vì vậy, HĐNGLL trở thành một vấn đề thời sự, đề tài nghiên cứu
phong phú và hấp dẫn đối với các nhà giáo dục, các nhà quản lí, nhà giáo
nhằm góp phần cung cấp, hình thành, mở rộng, củng cố, phát triển nhân cách
toàn diện của con người nói chung cũng như hỗ trợ cho các môn học trong
chương trình dạy học. Hiện nay HĐNGLL là một phần quan trọng trong
chương trình, nội dung giáo dục hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước phát triển.
Xét về bản chất, HĐNGLL thể hiện nguyên lí giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục xã hội, giáo dục gia đình. Khổng Tử (551-479 TCN), một
nhà triết gia, một nhà giáo dục lỗi lạc của Trung Hoa cổ đại cho rằng, thông
qua giáo dục để tạo ra lớp người “trị quốc” muốn vậy học phải đi đôi với
hành, đề cao vai trò của cá nhân trong việc tu dưỡng, học thầy, học bạn, học
6
trong cuộc sống, rằng “tam nhân hành tất hữu ngã sư yên” và khẳng định, đọc
thuộc ba trăm thước kinh thư giỏi, giao cho việc hành chính không làm được,
giao cho việc đi sứ không có khả năng đối đáp, học như vậy chẳng có ích gì.
Nhà triết học Trung Quốc cổ đại Mạc Tử cũng cho rằng mục đích giáo
dục phải tạo nên lớp người “kiêm ái” là những người lao động sống bằng
chính sức lao động của mình và đã đưa ra nguyên tắc giáo dục: học phải mang
tính thực tiễn của mọi người, học đi đôi với hành và miệng nói đi đôi với tay
làm, việc học của trẻ phải hoạt động, phải tri giác thế giới xung quanh, phải
suy nghĩ, thầy phải đàm thoại với trò.
Nhiều nhà giáo dục thời kỳ cận đại đã khẳng định vai trò của các hoạt
động ngoài nhà trường, HĐNGLL. Nhà giáo dục không tưởng đầu thế kỷ 16
là Thomas More (1478-1535) đã cho rằng việc giáo dục con người phải thực
hiện kết hợp giáo dục nhà trường, trong lao động và hoạt động xã hội. Nhà

giáo dục J.A Cômenxki (1592-1670) được coi là người sáng lập nền sư phạm
thời kỳ cận đại, đã có nhiều đóng góp lớn cho nền giáo dục thế giới, đã đặc
biệt chú ý việc kết hợp học tập trên lớp và hoạt động ngoài lớp nhằm thoát
khỏi hình thức học tập giam hãm trong bốn bức tường của lớp học của hệ
thống nhà trường giáo hội thời trung cổ, khẳng định học tập không phải là
lĩnh hội những kiến thức trong sách vở mà còn lĩnh hội kiến thức từ bầu trời,
mặt đất, từ cây sồi, cây dẻ. Nhà giáo dục vĩ đại của Thụy Sĩ, ông Petsxtalozi
(1746-1827) đã dựng ra “trại mới” giúp trẻ vừa học văn hóa, vừa lao động
ngoài lớp, ngoài trường học và cho rằng, hoạt động ngoài lớp không những
tạo ra của cải vật chất mà còn là con đường giáo dục toàn diện cho học sinh;
giáo dục gia đình đi trước, giáo dục trường học là sự tiếp nối giờ nào sinh ra
thì giờ đó bắt đầu sự giáo dục. Robert Owen (1771-1858), nhà giáo dục người
Anh, đã xây dựng một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh trong công xưởng cho
người lao động từ ấu thơ đến lúc trưởng thành, chủ trương kết hợp giáo dục
7
với lao động sản xuất và kết hợp giáo dục trong trường lớp với giáo dục trong
lao động và hoạt động sản xã hội.
Trong thế kỉ phát triển của CNTT, của toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế, với sự thay đổi mục tiêu giáo dục là hình thành phẩm chất và năng lực
công dân, HĐNGLL được nghiên cứu, thực hiện ở các quốc gia, các cấp học,
các lứa tuổi. GD hiện nay đang chuyển từ chú trọng trang bị kiến thức, nâng
cao dân trí sang tập trung phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học, năng lực công dân. Những quốc gia có nền giáo dục tiên tiến như Mĩ,
Đức, Pháp, Nhật, Úc, Singapo,…đều thực hiện một chương trình, nội dung,
phương pháp tổ chức HĐNGLL một cách hiện đại, sinh động, hiệu quả và
thúc đẩy việc nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học. Đó chính là
bài học cho việc tổ chức HĐNGLL ở môn Ngữ văn cũng như đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.

1.1.2. Việc nghiên cứu hoạt động ngoài giờ lên lớp ở Việt Nam
Với nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với
xã hội”, ngay từ khi thành lập Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, qua ba lần
cải cách giáo dục (1950, 1956, 1980), HĐNGLL là một nội dung không thể
thiếu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục “đức - trí – thể - mĩ - kĩ” cho học
sinh ở các cấp học. Vì vậy, nghiên cứu về HĐNGLL cũng trở thành mối quan
tâm của các nhà khoa học, giáo dục học, cán bộ quản lí, giáo viên,… để xác
định những vấn đề liên quan đến mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp
tổ chức HĐNGLL. Nhiều tác giả nghiên cứu về các phương diện của
HĐNGLL, trong đó nhấn mạnh vai trò của HĐNGLL trong việc phát triển
toàn diện cho học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng. Tổ chức các
HĐNGLL một cách sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả là một việc cần phải thực
8
hiện thường xuyên, với phương châm luôn đổi mới về hình thức, phong phú
về nội dung để HĐNGLL thực sự đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao
chất lượng dạy học
Tác giả Đỗ Ngọc Thống từ việc phân tích vai trò, vị trí của môn Ngữ
văn ở trường phổ thông đã đề cập đến một số nội dung của HĐNGLL. Lịch
sử giáo dục dưới chế độ phong kiến, học sinh đến trường, đi học chủ yếu là
học Ngữ văn, để học lễ nghĩa và sau đó là để biết đọc, biết viết, từ đó mà học
đạo lí, luân lí, hình luật, chính trị, triết lý, học đạo đức của người quân tử…
Ngày nay, muốn dạy tốt môn Ngữ văn, giáo viên cần biết tự thay đổi liên tục
để thích nghi với những biến động xã hội, phải làm cho học sinh tiếp cận với
những vấn đề ngoài nhà trường. HĐNGLL cũng lấy học sinh làm trung tâm,
nhằm phát huy tính tự chủ của học sinh, đào tạo một lớp học sinh phát triển
toàn diện về mọi mặt, chuẩn bị hành trang cho các em bước vào cuộc sống
một cách tự tin, năng động, sáng tạo. Tổ chức hoạt động này góp phần bổ
sung, mở rộng cho học sinh phương pháp học, phương pháp tiếp cận tri thức
phong phú luôn luôn phát triển. HĐNGLL phải tạo cho học sinh tính hiếu kì,
tò mò và sự đam mê, tự đi tìm và lý giải để hình thành năng lực con người

trong thời kỳ hiện đại. Sáng tạo, đa dạng trong các hoạt động trong và ngoài
nhà trường, trong và ngoài giờ chính khóa là để không nhồi nhét kiến thức,
không bắt nhớ máy móc, sao chép. HĐNGLL giúp học sinh có niềm yêu
thích, say mê văn chương, mong muốn tìm tòi, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của
thế giới nghệ thuật rồi sau đó mới là những yêu cầu khác.
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết, cho rằng người viết sách cần tham khảo
cấu trúc mới của một số SGK nước ngoài để tăng cường các nội dung liên
quan đến HĐNGLL như là một biện pháp để phát triển năng lực của học sinh.
Các tác giả Nguyễn Thanh Hùng, Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Lê Phương
Nga, Đỗ Việt Hùng,… cũng đã nghiên cứu HĐNGLL trong mối quan hệ với
9
phương pháp dạy học môn Văn và tiếng Việt ở các cấp học. Từ góc độ nghiên
cứu về văn học dân gian, tác giả Nguyễn Văn Tứ đã đề cập đến việc sử dụng
ngữ liệu văn học dân gian như một hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp
trong giáo dục học sinh nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng[4,30].
Trong những năm gần đây cũng có nhiều luận văn , bài viết về kinh
nghiệm thực tiễn của các trường phổ thông trong tổ chức HĐGDNGLL mà
tác giả là giáo viên, cán bộ quản lí. Các tác giả đi sâu nghiên cứu về
HĐGDNGLL, nghiên cứu thực nghiệm, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm
xây dựng quy trình tổ chức và đổi mới nội dung phương pháp HĐGDNGLL.
Năm 1999, tác giả Ngô Văn Phước đã bảo vệ luận văn thạc sĩ “Người
Hiệu trưởng tổ chức HĐGDNGLL ở trường THPT” nghiên cứu thực trạng
quản lí HĐGDNGLL ở trường THPT ở tỉnh Thừa Thiên – Huế. Luận văn đã
phân tích lí luận về HĐGDNGLL, nội dung hoạt động ngoại khóa và đề ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này ở trường THPT ở
tỉnh Thừa Thiên – Huế. Luận văn thạc sĩ “Một số giải pháp phối hợp giữa
Hiệu trưởng và BCH Đoàn TNCS HCM trong công tác giáo dục đạo đức học
sinh ở trường THPT tỉnh Bình Phước” (2003) của tác giả Lê Hồng Quảng đã
nghiên cứu về việc phối hợp giữa Hiệu trưởng và tổ chức Đoàn thanh niên
trong công tác giáo dục đạo đức, một khía cạnh rất quan trọng của

HĐGDNGLL, đồng thời cung cấp nhiều kinh nghiệm về việc tổ chức các
HĐGDNGLL cho HS ở trường THPT. Một giáo viên THCS ở Quận Gò Vấp
đã nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ (2013) về việc “Tổ chức hoạt động ngoài
giờ lên lớp môn Ngữ văn ở trường THCS quận Gò Vấp Tp HCM” cũng đã
đưa ra một số định hướng đổi mới về phương pháp nhằm đem đến những hiệu
quả tích cực trong việc dạy học Ngữ văn ở nhà trường THCS hiện nay, giúp
HS có nhiều hứng thú và phát triển kĩ năng đọc hiểu qua giờ học Ngữ văn.
10
Các bài báo trên tạp chí ngành giáo dục như : Giáo dục thời đại, Giáo
dục thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Giáo dục,… cũng có nhiều bài đề cập
đến đề tài này như : “Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng tổ chức hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh trung học phổ thông” [18, 9] “Biện
pháp tổ chức HĐGDNGLL cho học sinh trung học phổ thông” [30, 25] “Tổ
chức hoạt động ngoại khóa giáo dục vì sự phát triển bền vững với trò chơi
giải ô chữ kiến thức cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm” [56, 18]
Khi bàn về phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” theo Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT, ngày 22 tháng 7 năm
2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động trong các trường THPT giai
đoạn 2008 – 2013, ông Lê Quán Tần (nguyên cán bộ Bộ Giáo dục – Đào tạo)
đã nhận định: Thứ nhất, chương trình giáo dục phổ thông, HĐGDNGLL,
HĐNK (hoạt động ngoại khóa) thực sự là một bộ phận quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu giáo dục. Một mặt, nó kiểm nghiệm kiến thức đã có, bổ
sung những kiến thức còn thiếu hụt và việc mở rộng kiến thức; mặt khác
thông qua các HĐGDNGLL, HĐNK người học nâng cao tầm hiểu biết và
nhận thức đầy đủ hơn về xã hội, gắn kiến thức đã học với thực tế trong cuộc
sống, tăng cường phát triển trí lực, thể lực, rèn luyện kĩ năng sống và tính
thẩm mĩ. Đây là con đường dẫn dắt các em từng bước đến với nền văn hóa, xã
hội của dân tộc và nền văn hóa văn minh của nhân loại, học tập những cái
hay, cái đẹp mà thế giới và dân tộc đã để lại. Thứ hai, với những đặc điểm
riêng biệt về tâm lí, về xã hội của tuổi học trò việc tổ chức các HĐGDNGLL,

HĐNK thì đây là dịp tạo cho các em có cơ hội tham gia các hoạt động thực
tiễn để có thêm những hiểu biết, tích luỹ được kinh nghiệm giao tiếp, làm
giàu thêm vốn sống cho mình. Thứ ba, HĐGDNGLL, HĐNK nếu tổ chức các
hoạt động trò chơi dân gian, tham gia lễ hội ở địa phương, văn hóa nghệ thuật
truyền thống dân tộc và chăm sóc đài tưởng niệm, nghĩa trang liệt sĩ thì
11
càng có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ về tình cảm, đạo lý :
“Uống nước nhớ nguồn , Ăn quả nhớ người trồng cây, Lòng tự hào dân
tộc”…
Một yêu cầu lớn đặt ra trong việc bồi dưỡng học sinh có năng khiếu nói
riêng , dạy học đối với học sinh phổ thông nói chung là luôn phải nuôi dưỡng,
phát triển hứng thú của các em đối với các môn học. Việc bồi dưỡng niềm say
mê ấy được thực hiện trước hết là thông qua các hoạt động chính khoá trên
lớp, nhưng do những đặc trưng của bộ môn, các HĐNGLL cũng đóng vai trò
rất quan trọng.
HĐNGLL không là vấn đề mới. Từ lâu, nó đã trở thành một bộ phận
cấu thành không thể tách rời của quá trình giáo dục, do tập thể sư phạm của
nhà trường tổ chức và lãnh đạo, thông qua hoạt động của tập thể giáo viên bộ
môn. Nhất là trong bối cảnh cuộc cải cách giáo dục ở nước ta đang diễn ra
toàn diện, sôi nổi thì HĐNGLL ở trường THPT với những hình thức phong
phú, thiết thực,phù hợp tâm lí lứa tuổi HS càng trở nên quan trọng và bổ ích.
1.1.3. Việc nghiên cứu về hoạt động ngoài giờ lên lớp môn Ngữ văn ở
trường trung học phổ thông
Trong những năm đổi mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những chỉnh
lí về chương trình và cơ cấu môn học chính thức, tăng cường HĐNK nhằm
rèn luyện năng lực toàn diện cho học sinh. Vì vậy, nghiên cứu về nhiệm vụ,
chương trình, nội dung, phương pháp tổ chức HĐNGLL ở trường THPT cũng
đã được nhiều người quan tâm. Học sinh THPT là một lứa tuổi bắt đầu bước
vào tuổi trưởng thành, hiếu động và thích thể hiện những khả năng và năng
khiếu vốn có của mình. Các em học sinh không còn là trẻ nhỏ nhưng chưa

phải là người lớn thực sự. Vì vậy, tổ chức HĐNGLL phải phù hợp để đạt hiệu
quả cao nhất.
12
Tác giả Đặng Vũ Hoạt đã nghiên cứu vấn đề này qua công trình “Hoạt
động GDNGLL ở trường THCS” (2001), trong đó đã đề cập đến việc nối tiếp,
phát triển hoạt động này ở bậc THPT [5,11]. Các tác giả của Sở Giáo dục và
Đào tạo Hà Nội đã xây dựng một chương trình, nội dung HĐNGLL trong
“Phân phối chương trình HĐGDNGLL năm học 2008-2009”. Đặc biệt, trong
nhiều năm, tác giả Bùi Sỹ Tụng (tổng chủ biên) đã thể hiện một cách toàn
diện qua các tài liệu về “Hoạt động GDNGLL - sách giáo viên lớp 10, 11,12”.
Nghiên cứu về việc sử dụng ngữ liệu Văn học dân gian trong dạy học môn
Ngữ văn, tác giả Nguyễn Văn Tứ đã đề cập đến các vấn đề như: phát triển
năng lực tổ chức HĐNK môn Tiếng Việt cho sinh viên ở trường sư phạm; tổ
chức ngoại khoá chuyên đề môn Tiếng Việt trong nhà trường; hoạt động
ngoại khoá môn Tiếng Việt ở trường phổ thông;…[7, 30]
Tóm lại, việc nghiên cứu HĐNGLL trong dạy học môn Ngữ văn đã có
những kết quả về nhiều phương diện, đã góp phần xác định mục tiêu, nhiệm
vụ, chương trình, nội dung, phương pháp tổ chức cũng như việc kiểm tra đánh
giá kết quả. Những kết quả ấy đã góp phần làm cho HĐNGLL trong dạy học
môn Ngữ văn ở trường THPT thực hiện tốt mục tiêu cung cấp tri thức, rèn
luyện kỹ năng, giáo dục nhân cách, hình thành nên những phẩm chất của con
người lao động mới.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, việc tổ chức
HĐNGLL cũng cần phải có những đổi mới về nhiều phương diện. Trong khi
đó, với các trường THPT trên địa bàn Quận Gò Vấp, cũng chưa có một công
trình nghiên cứu nào đầy đủ, hệ thống, phù hợp với điều kiện thực tế dạy học
của nhà trường. Vì vậy, vận dụng các kết quả nghiên cứu nói trên để cụ thể
13

hóa, linh hoạt hóa trong điều kiện của các trường THPT Quận Gò Vấp là
nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Môn Ngữ văn
“Văn học có ý nghĩa rất lớn, nó là gia sư của xã hội” (Belinsky). Bởi vì
không chỉ dừng lại ở chức năng giải trí, Văn học còn có chức năng nhận thức,
giáo dục và thẩm mĩ. Mỗi tác phẩm văn học đem đến cho người đọc những
hiểu biết về thế giới để từ đó hiểu rõ về mình, tự nhận thức về mình sâu sắc
hơn. Bằng việc ngợi ca điều thiện và cái đẹp, văn học nuôi dưỡng niềm tin,
niềm lạc quan của con người…Do đó, “dạy Văn ở nhà trường phổ thông về
căn bản, không nhằm đào tạo các học giả, nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn
học mà là đào tạo ra những độc giả thông thường có thể qua văn mà hiểu rõ
tâm hồn mình và thấu hiểu tâm tư của người khác để có cách ứng xử giàu tính
nhân văn hơn; biết cách diễn đạt sáng tỏ tư tưởng và cảm xúc của mình; linh
hoạt và sáng tạo trong cuộc sống và công việc; biết yêu và thích đọc văn”
[44,20]. GS Lê Trí Viễn cũng khẳng định : “Sở dĩ ở nhà trường phổ thông,
môn Văn được đặt ở vị trí hàng đầu, trước hết đó là công cụ cho tất cả các
môn, công cụ tư duy, công cụ diễn đạt, công cụ học tập. Đứng về loại khoa
học cơ bản mà nói thì nó là ngữ ngôn, ở nước ta nó là tiếng Việt. Đứng về mặt
phong cách thì có thể coi đó là Văn – công cụ, có liên quan nhưng khác với
Văn – thẩm mĩ của văn học. Không có tiếng Việt tốt, không có Văn – công cụ
tốt thì tư duy diễn đạt làm sao tốt được…”
GS. TS Lê Ngọc Trà viết: “Môn Văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong
nhà trường. Nó là môn học gắn bó nhiều nhất với nghệ thuật – một lĩnh vực
của tình cảm, của trực giác, của tưởng tượng và cái đẹp…Học Văn không chỉ
là học những tri thức về ngôn ngữ, về lí luận, về lịch sử văn chương mà quan
trọng là bồi dưỡng và phát triển năng lực văn ở mỗi con người…Phát triển
14
năng lực văn là phát triển năng lực sống, phát triển cá nhân và do đó cũng là
phát triển con người, năng lực làm người…Học Văn vừa là học, vừa là sống.

Trong cái sống đó, tri thức, điều học là cần nhưng chưa phải là cái quan trọng
nhất… mà cái quan trọng nhất là khi rời ghế nhà trường phải viết được một lá
đơn theo đúng văn phạm, phải thảo cho được một tờ báo cáo công việc cho rõ
ràng, mạch lạc, và cao hơn là có khả năng nhạy cảm với cái xấu, cái đẹp, có
khả năng tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật một cách sáng tạo…” [45, 27]
Từ năm 1973, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đưa ra một tư tưởng
về dạy văn rất có ý nghĩa: Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện. Rèn
luyện ở đây là rèn luyện con người, rèn luyện học sinh trong việc dạy Văn,
toàn diện là tất cả các mặt, rèn luyện học sinh ở tất cả các mặt. Đó là tận dụng
giờ giảng Văn, giờ làm văn để giáo dục đạo đức, rèn luyện tính tình, rèn luyện
suy nghĩ , diễn đạt và cách đọc văn cho học sinh, để từ đó gợi suy nghĩ, tìm
tòi, rèn luyện bộ óc, trí thông minh, tài sáng tạo.
Đất nước ta đang trong thời kì hội nhập toàn cầu, giáo dục đào tạo giữ
một vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và
xây dựng nền kinh tế trí thức, cho nên môn Ngữ văn đòi hỏi người dạy –
người học năng lực cảm thụ văn học, cảm thụ cái đẹp phong phú, tinh tế hơn.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay tình trạng học sinh thiếu hụt vốn sống, vốn
văn hóa, văn học và kinh nghiệm thưởng thức nghệ thuật ngày càng trở nên
trầm trọng, chính khoảng cách này đã khiến các em gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp nhận văn chương. Vai trò của người giáo viên là truyền cho các em
tình yêu văn học, nâng cao tầm đón nhận cho học sinh, giúp các em biết cách
tự tìm kiến thức, không ngừng bổ sung và trang bị cho mình những kiến thức
văn hóa, văn học, trở thành người đọc sáng tạo qua những giờ sinh hoạt ngoại
khóa Văn học hay những HĐNGLL môn Ngữ văn.
15
1.2.2. Trường trung học phổ thông
THPT là một bậc trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay, cao
hơn tiểu học, trung học cơ sở và thấp hơn cao đẳng hoặc đại học. Trung học
phổ thông kéo dài 3 năm (từ lớp 10 đến lớp 12). Để tốt nghiệp bậc học này,
học sinh phải vượt qua kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông vào cuối năm

học lớp 12 (trước đây thường gọi là Thi tú tài). (Thi tốt nghiệp cấp3). Trường
trung học phổ thông, là một loại hình đào tạo chính quy ở Việt Nam, dành cho
lứa tuổi từ 15 tới 18 không kể một số trường hợp đặc biệt. Nó gồm các khối
học: lớp 10, lớp 11, lớp 12. Sau khi tốt nghiệp hệ giáo dục này, học sinh được
nhận bằng Tốt nghiệp Phổ thông trung học, có một tên gọi khác cho loại bằng
này là "Bằng Tú Tài".
Mục tiêu , nhiệm vụ của giáo dục THPT :
- Giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và
các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
- Giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục
THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ
thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn
hướng phát triển tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
1.2.3. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Nhân cách của HS được hình thành và phát triển thông qua các hoạt
động và giao tiếp. Trong nhà trường phổ thông, các hoạt động giáo dục được
tổ chức có kế hoạch, có sự lựa chọn về nội dung , phương pháp và hình thức
nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của HS dưới tác động chủ
16
đạo của giáo viên. Thực tế hiện nay nhiều nhà trường phổ thông đã tổ chức
các HĐGDNGLL, bao gồm các hoạt động chủ yếu như: hoạt động dạy học;
hoạt động lao động; hoạt động xã hội – chính trị - nhân đạo; hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí; hoạt động ngoại khóa, câu
lạc bộ; hoạt động tham quan, du lịch;…
HĐGDNGLL là hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn văn
hóa ở trên lớp nhằm hình thành và phát triển những năng lực và phẩm chất

nhân cách cho HS đáp ứng được những yêu cầu mới của cuộc sống hiện nay.
Đây là những hoạt động không thể thiếu được trong nhà trường. Nếu quá
trình giáo dục HS chỉ được thực hiện qua các hoạt động lên lớp thì rất hạn
chế, không thể đảm bảo được chất lượng giáo dục toàn diện.
Tất cả các hoạt động giáo dục được tổ chức trong nhà trường phổ thông
đều nhằm thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho
HS ; giúp HS lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học về thế giới, rèn luyện được
những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, phát triển được tư duy sáng tạo và những
phẩm chất tích cực của nhân cách. Mục tiêu này có thể diễn tả theo 3 loại :
kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Về kiến thức, HĐGDNGLL ở trường THPT giúp cho HS củng cố , bổ
sung, mở rộng, nâng cao và vận dụng các kiến thức học được trên lớp. Nâng
cao nhận thức về các giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc và
nhân loại. Tiếp thu các giá trị khoa học – công nghệ và tư tưởng – văn hóa
tiến bộ của thế giới. Tìm hiểu về các ngành nghề khác nhau trong xã hội và
nâng cao khả năng định hướng nghề nghiệp cho bản thân.
Về kĩ năng, HĐGDNGLL giúp HS rèn luyện được các kĩ năng : kĩ
năng giao tiếp, hợp tác nhóm, kĩ năng tổ chức và quản lí, kĩ năng nhận xét
đánh giá, kĩ năng tự điều chỉnh và thích ứng…
17
Về thái độ, HĐGDNGLL giúp HS hình thành thái độ tích cực học tập,
rèn luyện và hoạt động xã hội, bồi dưỡng thái độ đúng đắn trước những vấn
đề của cuộc sống, lao động và học tập, thái độ không đồng tình và phê phán
những biểu hiện sai trái của người khác và của bản thân, biết đồng cảm và
giúp đỡ người khó khăn, có cảm xúc tích cực đối với cái tốt, cái đẹp…
Ở trường THPT, HĐGDNGLL thống nhất biện chứng với hoạt động
trên lớp. Quan hệ biện chứng của các hoạt động này thể hiện ở quá trình biện
chứng của sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho HS thông qua
hoạt động và giao tiếp. Hoạt động lên lớp thường hiểu là hoạt động dạy học
được tiến hành theo chương trình và kế hoạch dạy học các môn học.

HĐGDNGLL thực hiện theo chương trình và kế hoạch giáo dục ngoài giờ học
các môn văn hóa.
HĐGDNGLL có hình thức đa dạng và nội dung phong phú với phương
tiện, điều kiện, hoàn cảnh gần gũi với HS, có thể đáp ứng nhu cầu, hứng thú
và nguyện vọng hoạt động của các em. Lứa tuổi học sinh THPT có nhiều đặc
điểm tâm lí rất phức tạp, đòi hỏi sự tác động khéo léo, kịp thời và đúng đắn,
lôi cuốn các em vào hoạt động nhằm phát huy khả năng tự lập, tính sáng tạo,
tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỉ luật. Vì vậy, HĐGDNGLL ở trường THPT
có thể tiếp nối, mở rộng các hoạt động lên lớp và gắn giáo dục với cuộc sống,
với kinh nghiệm của HS ; có thể định hướng và điều chỉnh quá trình tự học, tự
giáo dục đạt chất lượng và hiệu quả cao.
1.2.4. Hoạt động ngoài giờ lên lớp môn Ngữ văn
HĐNGLL môn Ngữ văn là một bộ phận của hoạt động dạy học Ngữ
văn. Hoạt động này sẽ giúp cho việc dạy và học có cơ sở thực tế, tạo hưng
phấn cho giờ học chính khóa; vốn sống, vốn hiểu biết của giáo viên và học
sinh đều được mở rộng. Với các HĐNGLL môn Ngữ văn, HS không chỉ học
chay, học một cách thụ động mà các em còn trực tiếp được tìm hiểu các vấn
18
đề còn giới hạn trong khuôn khổ sách giáo khoa và giờ dạy học chính khóa
của GV. Có rất nhiều hình thức tổ chức HĐNGLL phù hợp với niềm đam mê
và năng khiếu của HS như : tham quan, dã ngoại, sân khấu hóa, trò chơi ô
chữ, kể chuyện sáng tạo, thuyết trình, thảo luận…
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn ban hành theo quyết
định số 16/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ra ngày 05 tháng 5 năm 2006
ghi rõ : Môn Ngữ văn là môn học về khoa học xã hội và nhân văn có nhiệm
vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức về tiếng Việt, Văn học và Làm
văn, hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng
lực tiếp nhận tác phẩm văn học. Qua môn học này, học sinh còn có thêm
những hiểu biết về văn hóa, xã hội, lịch sử, đời sống nội tâm của con người và
bản thân.

Môn Ngữ văn là môn học công cụ. Năng lực sử dụng tiếng Việt và tiếp
nhận tác phẩm văn học mà môn học này trang bị cho học sinh là công cụ để
HS học tập và sinh hoạt, nhận thức về xã hội và con người, bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm và nhân cách.
Môn Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực giáo dục thẩm mĩ. Thông qua
việc tiếp cận với tiếng Việt, văn hóa và những hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm văn học, HS được bồi dưỡng năng lực tưởng tượng , sáng tạo, được làm
giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh nhằm hoàn thiện
nhân cách của mình .
Vì lẽ đó, để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục thì việc tổ chức HĐNGLL
môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông là vô cùng cần thiết. Thông qua
HĐNGLL , HS có nhiều cơ hội thể hiện năng lực bản thân , hoặc những khả
năng đặc biệt mà trong giờ học chính khóa không có điều kiện để bộc lộ. Từ
xa xưa, người phương Đông đã có câu: “Tôi nghe thì tôi quên, tôi nhìn thì tôi
nhớ, tôi làm thì tôi hiểu”. Những kết quả nghiên cứu khoa học hiện đại cũng
19
đã cho thấy, HS chỉ có thể nhớ được 5% nội dung kiến thức thông qua đọc tài
liệu. Nếu ngồi thụ động nghe thầy giảng thì nhớ được 15% nội dung kiến
thức. Nếu quan sát có thể nhớ 20%. Kết hợp nghe và nhìn thì nhớ được 25%.
Thông qua thảo luận với nhau, HS có thể nhớ được 55%. Nhưng nếu HS được
trực tiếp tham gia vào các hoạt động để qua đó tiếp thu kiến thức thì có khả
năng nhớ tới 75%. Còn nếu giảng lại cho người khác thì có thể nhớ tới được
90%. Điều này cho thấy tác dụng tích cực của HĐNGLL môn Ngữ văn nếu
được áp dụng phổ biến trong nhà trường THPT hiện nay.
Bên cạnh đó, trong thời đại toàn cầu hóa , trước sự bùng nổ của khoa
học công nghệ và sự giao lưu văn hóa đa quốc gia hiện nay, việc tiếp thu tinh
hoa văn hóa nước ngoài là cần thiết nhưng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là
nhiệm vụ quan trọng trên hết. HĐNGLL môn Ngữ văn góp phần chống lại sự
xâm nhập từ bên ngoài của những yếu tố văn hóa phi nghệ thuật, văn hóa
ngoại lai đối với thế hệ thanh thiếu niên – đối tượng chịu ảnh hưởng nhanh

chóng bởi những cái mới. Về lâu dài, HĐNGLL môn Ngữ văn trong nhà
trường THPT có nhiệm vụ hướng dẫn, giáo dục thị hiếu văn hóa đúng đắn,
rèn luyện năng lực thẩm mĩ, lối sống năng động tích cực, sáng tạo, bản lĩnh
cho HS. Sự đa dạng của các hình thức HĐNGLL của môn Ngữ văn sẽ có tác
dụng giáo dục HS một cách tế nhị, sâu sắc và hiệu quả.
HĐNGLL môn Ngữ văn so với các môn học khác, giống nhau ở hình
thức tổ chức là diễn ra ngoài giờ học chính khóa, nhưng khác nhau ở đặc
trưng môn học. Môn Ngữ văn không chỉ cung cấp và giáo dục năng lực văn
mà còn hướng tới giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ứng xử …
cho HS. Do đó, khi tổ chức HĐNGLL môn Ngữ văn, GV cần chú trọng đến
tính đặc thù bộ môn để đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất.

×