Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện cẩm xuyên, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.29 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRƯƠNG VĨNH TỪ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRƯƠNG VĨNH TỪ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂNCHỦ Ở CƠ SỞ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CẨM XUYÊN,TỈNH HÀ TĨNH
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH TRUNG THÀNH
Nghệ An - 2014
2
Lời cảm ơn
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Giáo dục Chính trị, phòng
Đào tạo Sau đại học cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học
Vinh đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức về lý luận
chính trị, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong qúa trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo TS. Đinh Trung Thành,
Phó trưởng Phòng đào tạo Sau đại học đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Huyện ủy, Ủy ban nhân dân
huyện, các xã Cẩm Bình, Cẩm Thành, Cẩm Thăng, Cẩm Yên, đồng nghiệp,


gia đình và bạn bè đã động viên tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu, khảo sát thực tiển để hoàn thành luận văn này.
Hà Tĩnh, tháng 10 năm 2014
Tác giả
3
MỤC LỤC
4
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Quy chế dân chủ cơ sở : QCDCCS
Nông thôn mới : NTM
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc : UBMTTQ
Hội đồng nhân dân : HĐND
Ủy ban nhân dân : UBND
Trung học cơ sở : THCS
Trung học phổ thông : THPT
Công nghiệp hóa : CNH
Hiện đại hóa : HĐH
Xã hội chủ nghĩa : XHCN
Chủ nghĩa xã hội : CNXH
5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, để tạo thế và lực phát triển trong thời kỳ mới, Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá X) thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 về
nông nghiệp, nông dân và nông thôn; quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày
16/4/2009 của Thủ tướng chính phủ về Ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông
thôn mới (NTM) nhằm phát huy tối đa năng lực tiềm tàng của đất nước trong
nhân dân về nhân lực, vật lực và tài lực. Nhưng để Nghị quyết này đi vào

cuộc sống và thực hiện thắng lợi thì cần phải dựa vào sức mạnh vật chất từ
quần chúng nhân dân, phải phát huy năng lực làm chủ đất nước của nhân dân
hay nói khác hơn chính là thực hiện tốt Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18-02-1998
của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
(QCDCCS). Chỉ thị này chỉ có thể thực hiện tốt khi mỗi đảng viên, từ đảng viên là
cán bộ lãnh đạo đến đảng viên ở cơ sở đều phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của dân, chăm lo đời sống hằng ngày của dân, gần dân, lắng nghe ý kiến của dân,
phục vụ giúp đỡ dân khi gặp khó khăn,… có như vậy QCDCCS mới được thực hiện
triệt để.
Trong những năm qua, nhất là trong hơn 3 năm thực hiện xây dựng
NTM ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, quy chế dân chủ cơ sở
(QCDCCS) đã được phát huy, tạo động lực, kích thích tinh thần tự do sáng
tạo của người dân làm giàu cho bản thân gia đình và quê hương, đóng góp
ý kiến xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Thực tiễn cho
thấy, việc mở rộng dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà
Tĩnh đã đạt được những kết quả rất tích cực, thực sự góp phần tạo động lực
thúc đẩy và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham
6
gia quản lý nhà nước, tham gia giám sát các hoạt động của Nhà nước. Việc
phát huy dân chủ ở nông thôn góp phần khắc phục một phần tệ quan liêu,
tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán
bộ, công chức ở cơ sở; đóng góp tích cực vào việc cải cách hành chính;
tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đóng góp tích
cực vào thành tựu chung của cả nước
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng NTM ở huyện Cẩm Xuyên, việc
thực hiện qui chế DCCS vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Một số cấp uỷ cơ sở còn
chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức, chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm trong
chỉ đạo, thực hiện quy chế dân chủ, đặc biệt trên một số lĩnh vực như quản lý
đất đai; công tác tuyên truyền tại một số đơn vị chưa thường xuyên; một bộ
phận người dân chưa nhận thức đầy đủ về thực hiện dân chủ ở cơ sở; hoạt

động của một số ban chỉ đạo quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thường xuyên,
chưa cụ thể hoá sát với tình hình của địa phương. Công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, giải quyết kiến nghị của người dân chưa được chỉ đạo thực
hiện ráo riết, kịp thời. Chất lượng các tổ hòa giải còn thấp, còn hạn chế về
nghiệp vụ, kỹ năng; vai trò tự quản của nhân dân chưa được phát huy. Bên
cạnh đó, đội ngũ cán bộ trực tiếp tiếp dân và giải quyết thủ tục hồ sơ cho nhân
dân chưa đồng đều về trình độ chuyên môn; tác phong, thái độ trong quan hệ
cộng tác với nhân dân của một bộ phận cán bộ công chức chưa đúng mực,
một số thủ tục chưa được giải quyết kịp thời, gây phiền hà cho nhân dân.
Trong giai đoạn tới, để triển khai thực hiện ngày càng sâu rộng và
mạnh mẽ hơn QCDCCS trong quá trình xây dựng NTM ở huyện Cẩm Xuyên,
cần phải đánh giá nghiêm túc những kết quả đã làm được cũng như chỉ ra
những tồn tại, yếu kém, những nguyên nhân sâu xa và bài học kinh nghiệm để
khắc phục sửa chữa khuyết điểm, làm lan tỏa hơn những nhân tố tích cực
trong đời sống.
7
Do đó, nâng cao hiệu quả thực hiện QCDC ở cơ sở trong xây dựng
NTM trên địa bàn huyện Cẩm Xuyển tỉnh Hà Tĩnh là một nhu cầu cấp thiết,
nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Từ những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn Thạc sỹ chuyên ngành
Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ, QCDC ở cơ sở và ý thức, trách nhiệm thực hiện
QCDC ở cơ sở cũng như nguyên nhân, hậu quả của việc vi phạm QCDC ở
cơ sở và các giải pháp cần khắc phục là một trong những chủ đề thu hút sự
chú ý và quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý, của giới lý luận, các tổ
chức quốc tế trong và ngoài nước từ nhiều năm nay. Đã có nhiều văn bản,
Chỉ thị về vấn đề dân chủ, QCDC ở cơ sở và ý thức, trách nhiệm thực hiện

QCDCCS được triển khai.
Ngày 18/02/1998 Bộ Chính trị ra “Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và
thực hiện QCDC ở cơ sở”, chỉ thị đã khẳng định: “Mở rộng dân chủ
XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là
động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới”.
Thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW và các quy định, hướng dẫn của Trung ương,
trong những năm qua, các địa phương trong cả nước đã tích cực đưa QCDC
ở cơ sở vào cuộc sống, góp phần tạo nên những bước chuyển biến mạnh mẽ
trên tất cả các lĩnh vực.
Ngày 4-3-2010, thay mặt Ban Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí
Trương Tấn Sang đã ký ban hành Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư về
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây
dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở.
8
Do tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn của thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở, đã có nhiều công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí của
Trung ương và địa phương, đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, quán triệt, học tập và thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng, tháng 5/2011, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -
Sự thật xuất bản cuốn sách "Về quá trình dân chủ hóa XHCN ở Việt Nam hiện
nay". Sách do PGS, TS Lê Minh Quân, Viện Chính trị học, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn. Ngoài lời mở đầu và kết
luận, cuốn sách gồm 9 chương. Trên cơ sở tìm hiểu các quan niệm và khái
niệm lý thuyết và mô hình dân chủ hóa, những yếu tố tác động và quá trình
dân chủ hóa trên thế giới, cuốn sách phân tích nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện nay. Tác giả đã phân
tích làm rõ dân chủ luôn là ước vọng của con người trong mọi thời đại. Nó
cần như cơm ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày. Dân chủ là thước đo chất
lượng cuộc sống văn minh xã hội và năng lực quản lý của một nhà nước. Dân
chủ không phải tự nhiên mà có. Nhận thức về vấn đề dân chủ đã khó khăn và

phức tạp, nhưng nhận thức về dân chủ hóa hay quá trình hiện thực hóa những
mơ ước, những giá trị dân chủ trong đời sống còn khó khăn và phức tạp hơn.
Những vấn đề về mục tiêu, động lực, nội dung, hình thức và phương pháp;
nguyên nhân, kinh nghiệm, nguyên tắc, phương châm và bước đi của dân chủ
hóa luôn là những vấn đề khó khăn và mới mẻ đòi hỏi phải giải quyết.
Tác giả Hồ Sĩ Vịnh với bài viết: “Dân chủ - một giá trị văn hoá”, Tạp
chí Tuyên giáo, Thứ Sáu 25/11/2011 khẳng định, ở nước ta không có chuyện
nhân quyền, dân chủ cao hơn chủ quyền quốc gia như một số kẻ xấu thường
rao giảng. Truyền thống cộng đồng nhà, làng, nước là một cấu trúc bền vững
có quan hệ hữu cơ với nhau. Nước mất thì nhà tan, dân khổ; nước thịnh thì
9
nhà yên, dân cường. Truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông cho
chúng ta bài học về quyền dân chủ, quyền con người…
GS, TS. Phạm Ngọc Quang có bài viết: “Dân chủ XHCN là mục tiêu
và động lực của công cuộc đổi mới đất nước”, Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số 4 năm 2010. Bài viết nêu rõ, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là
bản chất của chế độ ta; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Quan điểm đó là sự kế thừa, bổ sung, phát triển sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN và là
kết quả phù hợp với lôgíc phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về dân chủ
trong quá trình đổi mới đất nước.
GS. TS Hoàng Chí Bảo có bài viết: “Dân chủ XHCN – Bản chất của
chế độ, mục tiêu và động lực phát triển đất nước” đăng trên báo Nhân Dân số
ra ngày 29 tháng 2 năm 2010. Bài viết khẳng định, qua thực tiễn đổi mới, tư
duy lý luận của Đảng cũng đã vươn tới những quan điểm mới, mở ra một khả
năng và triển vọng tốt đẹp để xây dựng xã hội ta thành một xã hội dân chủ,
trong đó nhân dân là người chủ chân chính của Nhà nước và xã hội, là chủ thể
quyền lực. Vấn đề đặt ra là cần phải thực hành dân chủ rộng rãi và nghiêm
túc, trước hết là dân chủ trong Đảng. Sự phát triển lành mạnh dân chủ trong

Đảng chẳng những làm tăng sức mạnh của Đảng, mà còn nêu gương, thúc đẩy
dân chủ trong xã hội.
Tác giả Nguyễn Thanh Minh với bài viết: “Tìm hiểu việc thực hiện
QCDCCS tại TP. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Pháp luật số 6/2002,
trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh đánh giá, không ít người dân tại
TP.HCM mới chỉ biết khẩu hiệu mang nội dung dân chủ “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”; còn nội hàm của từng khái niệm thì họ chưa hiểu
tường tận. Vì vậy, phải tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nội dung QCDCCS,
10
làm cho nhân dân ý thức được việc thực hiện Quy chế là vì mình, vì một xã
hội tốt đẹp; hạn chế tới mức tối đa việc hiểu và vận dụng sai tinh thần Quy
chế, huy động quá khả năng đóng góp về vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tác giả Nguyễn Văn Quang, Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại
học Sư phạm Huế có bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong
chính trị”, Tạp chí Xây dựng Đảng số ra ngày 01 tháng 3 năm 2011, tác giả
bài viết nhấn mạnh, trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực hóa hệ
thống quan điểm về dân chủ trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các
lĩnh vực. Tư tưởng của Người về dân chủ trong chính trị đã trở thành một bộ
phận văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đồng chí Huỳnh Đảm, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc
Việt Nam trên Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 9/7/2008 với bài viết: “Nhìn
lại 10 năm thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn” đã làm rõ thực trạng 10
năm thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn, quyền làm chủ của nhân dân ở
các địa phương trong cả nước được phát huy mạnh mẽ.
Ngày 16/9/2010 Bộ NN&PTNT phối hợp với Quỹ Quốc tế phát triển
nông nghiệp tổ chức hội thảo về “Xây dựng NTM giai đoạn 2010 – 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030”. Tại hội thảo, các chuyên gia trong và ngoài nước về
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đều có cùng quan điểm, nông thôn Việt Nam
do có những đặc thù riêng vì vậy xây dựng NTM phát triển bền vững và mang

đậm bản sắc văn hóa là cần thiết và phải tập trung chủ yếu vào 5 nội dung cơ
bản: Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; Phát triển hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn; Hỗ trợ phát triển sản xuất và xây dựng các
hình thức sản xuất có hiệu quả trong nông thôn; Xây dựng đời sống văn hóa
phong phú, lành mạnh ở nông thôn và Bảo vệ, phát triển nâng cao chất lượng
môi trường nông thôn. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai
11
đoạn 2010 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” nêu rõ vai trò của đội ngũ cán
bộ cơ sở trong phổ biến chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, ý thức
trách nhiệm thực hiện QCDC ở cơ sở là nhân tố quan trọng để thực hiện
thắng lợi chương trình này.
Ngày 13/10/2009 Cẩm Xuyên tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ
thị 30 CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện
QCDC ở cơ sở. Trong báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Cẩm
Xuyên (khóa XXIX) nêu rõ: “Qua 10 năm thực hiện Chỉ thị, chính quyền
ở cơ sở đã không ngừng đổi mới cung cách làm việc theo hướng ngày
càng gần dân, hiểu dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân; vai
trò làm chủ của nhân dân qua cơ chế làm chủ trực tiếp ngày càng được
thực hiện rộng rãi, nhiều xã, thị trấn đảm bảo đủ và đúng những nội dung
dân biết, dân bàn, dân kiểm tra giám sát, vì vậy, đã tạo được sự đồng
thuận cao của nhân dân với chính quyền địa phương và đội ngũ cán bộ
thôn xóm, khối phố; phát động được đông đảo lực lượng và huy động hợp
lý nội lực trong nhân dân để phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng,
xây dựng các công trình phúc lợi, phát triển GD- YT, xây dựng đời sống
văn hoá ở nông thôn; giữ vững trật tự trên địa bàn thôn xóm.
Như vậy trên phương diện lý luận và thực tiễn, công trình khoa học của
các tác giả nêu trên đã phân tích khá thấu đáo vấn đề dân chủ, vai trò của thực
hiện dân chủ trong đời sống xã hội. Những công trình khoa học đó đã cung
cấp cơ sở phương pháp luận hết sức quan trọng trong việc tiếp cận vấn đề dân
chủ và QCDCCS. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập một

cách toàn diện vấn đề “Thực hiện QCDC ở cơ sở trong xây dựng NTM
trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh”. Công trình nghiên cứu của
tác giả không trùng lắp với các công trình khoa học đã được công bố.
12
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện QCDC ở cơ sở trong xây dựng NTM trên địa bàn huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về dân chủ, QCDC CS và các quan điểm,
chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về thực hiện QCDC ở cơ sở trong quá trình
xây dựng NTM hiện nay.
- Làm rõ tình hình thực hiện QCDCCS trong xây dựng NTM trên địa
bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trong những năm qua.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt QCDCCS trên
địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trong xây dựng NTM thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà
nước ta về vấn đề dân chủ và thực hiên QCDC ở cơ sở trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài Luận văn, trong quá trình
thực hiện luận văn tác giả sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên
cứu sau: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận như: phân tích, tổng hợp, hệ
thống hoá; Nhóm phương pháp nghiên cứu thực nghiệm như: phương pháp
quan sát, phân tích kinh nghiệm, điều tra phỏng vấn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện QCDCCS trong những năm
gần đây (2010 - 2013) để làm cơ sở trong xây dựng NTM trên địa bàn huyện

13
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2014-2015, định hướng đến năm
2020.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài với những giải pháp đề xuất sẽ là cơ sở lý
luận và thực tiễn trong việc thực hiện QCDCCS thời kỳ triển khai chủ trương
xây dựng NTM của huyện huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, các
tỉnh Bắc Trung bộ và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
14
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Vấn đề dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây
dựng nông thôn mới
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là một vấn đề vô cùng quan trọng và bức thiết từ xưa đến nay,
đó là nội dung vừa mang tính chính trị, vừa mang tính nhân văn của con
người. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên tại Hy Lạp cổ đại với cụm từ
dimokratia là “quyền lực của nhân dân” được ghép từ chữ demos là “nhân
dân” và kratos là “quyền lực”. Vào thế kỉ thứ IV trước công nguyên, tại
Thành bang Aten (Hy Lạp) đã xuất hiện thể chế chính trị tiến bộ, mang dáng
dấp nền dân chủ sơ khai: Mọi công dân (nam) từ 18 tuổi đều được tham gia
vào cơ quan quản lý nhà nước theo hình thức rút thăm. Từ đó đến nay, khái
niệm “dân chủ” ngày càng trở thành một ý tưởng chủ đạo cho niềm mơ ước
của con người, đó là cơ sở để con người được thể hiện "nhân quyền" và "dân

quyền", hướng tới một xã hội trong tương lai - xã hội không có người bóc lột
người. Trải qua các thời kì lịch sử, khái niệm “dân chủ” có những hình thức
và tên gọi khác nhau như: Dân chủ chủ nô; Dân chủ quân sự; Dân chủ lập
hiến; Dân chủ tư sản; Dân chủ nhân dân; Dân chủ XHCN. Dù có các trạng
thái khác nhau, song khái niệm "dân chủ" được dùng để chỉ tính chất chế độ
xã hội mà trong đó người dân được thể hiện quyền làm chủ của mình.
Trong học các thuyết chính trị, dân chủ dùng để mô tả cho một số ít
hình thức nhà nước và cũng là một loại triết học chính trị. Mặc dù chưa có
15
một định nghĩa thống nhất về dân chủ, nhưng có hai nguyên tắc mà bất kỳ
một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào:
Thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền
tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng;
Thứ hai là tất cả mọi thành viên (công dân) đều được hưởng các quyền
tự do được công nhận rộng rãi.
Với C.Mác và Ph.Ăngghen thì cách mạng XHCN lấy việc giải phóng
con người khỏi mọi sự tha hoá, bất công, giành trở lại cho con người cái bản
chất vốn có của nó - lao động và hoà bình - làm mục tiêu cơ bản của mình.
Muốn vậy, trong giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng đó, giai cấp vô sản
phải trở thành giai cấp thống trị, phải "giành lấy dân chủ". Chỉ bằng việc thiết
lập Nhà nước XHCN, sử dụng Nhà nước ấy như là một công cụ đắc lực để
phát triển toàn diện xã hội mới, trong đó, phát triển triệt để nền dân chủ
XHCN là trọng tâm, giai cấp vô sản mới hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử
của mình: nhân dân trở thành người chủ đích thực của xã hội, là chủ thể tối
cao và duy nhất của mọi quyền lực. Tư tưởng này nói lên bản chất dân chủ
của xã hội mới mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang hướng tới.
Phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ,
V.I.Lênin đã khẳng định sự cần thiết phải kết hợp giữa cuộc đấu tranh cho
dân chủ với thắng lợi của CNXH. Đấu tranh cho dân chủ, theo ông, cũng
không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sau khi thiết lập chính quyền, việc phát

triển triệt để nền dân chủ XHCN là tiền đề để thực hiện thắng lợi hoàn toàn và
triệt để mục tiêu của CNXH. Bởi vậy, khi làm rõ nội dung quan điểm về sự
thống nhất hữu cơ giữa dân chủ và CNXH, V.I.Lênin chỉ ra rằng, mối quan hệ
đó phải được hiểu trên hai phương diện:
Một là, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng XHCN,
nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc
16
đấu tranh cho chế độ dân chủ.
Hai là, CNXH sẽ không duy trì được thắng lợi, nếu không thực hiện
đầy đủ chế độ dân chủ.
Như vậy, dân chủ không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của quá
trình xây dựng CNXH. Bởi lẽ, nhờ có dân chủ, mọi tiềm năng sáng tạo của
con người sẽ được phát huy, sức mạnh vật chất và tinh thần được giải phóng
nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển cá nhân lành mạnh cũng như thúc đẩy
xã hội phát triển.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng nêu trên của chủ nghĩa Mác-
Lênin, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ không tách rời quan niệm
“Dân là gốc”, “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, "Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”. Người đã nhiều lần nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”. Mặt khác, Người đã chỉ rõ: “Dân là chủ thì
Chính phủ phải là đầy tớ”. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền
đuổi Chính phủ

[ 20;152, 282 - 283]. Ngay từ khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-
Lênin, rồi truyền bá vào Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: các cuộc
cách mạng xã hội theo khuynh hướng tư sản như của Anh, Mỹ, Pháp đều
chưa triệt để, vì nhân dân lao động chưa thực sự được giải phóng; áp bức bất
công vẫn tồn tại, quyền lợi vẫn tập trung vào tay giai cấp tư sản. Chính vì thế,
Người đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng
mà giai cấp vô sản Nga đã tiến hành. Hiện nay, tiếp thu sâu sắc tư tưởng Hồ

Chí Minh, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân hướng tới xây dựng chế độ xã hội
XHCN, với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với
những trải nghiệm lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta
ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về “dân chủ”.
Những yêu cầu dân chủ của nhân dân được thể chế hoá thành các chuẩn
17
mực mang tính nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận
hành của Nhà nước cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo thành chế độ
dân chủ.
Vấn đề dân chủ và phát huy dân chủ được Đảng ta nhận thức và thực
hiện ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn
Trước đổi mới, Đảng ta đã dày công nghiên cứu lý luận và đến Đại hội
IV xác lập quan điểm về chế độ làm chủ tập thể XHCN. Song sự biến đổi của
thực tiễn đã và đặt ra nhiều vấn đề mới cần bổ sung, phát triển. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta xác định: “Dân chủ XHCN là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước”[13;47]
Đảng ta đã tiếp thu, phát triển những giá trị tư tưởng về dân chủ của
nhân loại, đặc biệt là quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN là một
hình thức chính trị - nhà nước thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công
dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Quyền làm chủ của nhân dân
được thể chế hóa thành quy định, nguyên tắc tổ chức, vận hành của nhà nước
và thể chế chính trị tạo nên chế độ dân chủ.
Qua gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã có những phát triển mới, quan
trọng trong nhận thức về dân chủ . Quan niệm về dân chủ được mở rộng. Dân
chủ được xem xét nhiều khía cạnh: Dân chủ là chế độ chính trị; dân chủ là giá
trị; dân chủ là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối
với xã hội và dân chủ với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Dân chủ phản ánh một bước chuyển từ thể chế
chính trị dựa trên áp lực, tuân thủ mệnh lệnh sang thể chế hợp tác, đồng thuận
đầy trách nhiệm. Với việc đưa “dân chủ” - một mục tiêu của XHCN, Đảng ta
đã quán triệt sâu sắc và hoàn thiện hơn hệ mục tiêu XHCN: “Dân giàu, nước
18
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đặc biệt dân chủ không chỉ là mục
tiêu, mà còn là động lực phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì nó phát
huy tính tích cực, chủ động, tự giác, giải phóng năng lực sáng tạo của con người.
Từ những quan điểm và tư tưởng của các nhà kinh điển, có thể khẳng
định rằng: Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội
mang bản chất của giai cấp thống trị, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực. Để có dân chủ, nhân dân phải là chủ thể của quyền lực,
nếu ngược lại sẽ là chuyên chế .
Dân chủ cơ sở cũng chính là dân chủ, là quyền lực, quyền làm chủ
thuộc về nhân dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, khái
niệm dân chủ cơ sở có phạm vi hẹp hơn nhưng lại cụ thể hơn khái niệm dân
chủ, đó là quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở nơi cư trú: xã,
phường, thị trấn,… và cơ quan, đơn vị công tác của từng người dân, đó chính là
việc người dân được quyền tham gia đóng góp ý kiến của mình vào các vấn đề
chính trị, kinh tế, xã hội ở địa phương mình như: Chuyển đổi ruộng đất, việc
chuyển đổi giống cây trồng hay công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, làm giao
thông nông thôn… trong triển khai xây dựng NTM.
1.1.1.2. Quy chế dân chủ và quy chế dân chủ cơ sở
Có nhiều cách hiểu và nhiều học giả đã đưa ra khái niệm quy chế, song
nó luôn gắn với các quy chế cụ thể như quy chế xuất bản, quy chế kinh doanh,
quy chế làm việc , Trong Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học do
nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2007 đã giải thích “Quy chế là những
điều đã được quy định thành chế độ để mọi người theo đó mà thực hiện trong
những hoạt động nhất định nào đó” [32;1260].
Quy chế là chế độ được quy định bởi một cơ quan, đơn vị, tổ chức có

thẩm quyền trong một phạm vi nhất định, được ban hành có văn bản và có
hiệu lực thi hành trong phạm vi cơ quan, đơn vị tổ chức đó.
19
Quy chế cũng chính là quy phạm điều chỉnh liên quan đến chế độ chính
sách, các tổ chức hoạt động, công tác nhân sự, phân công và phân cấp nhiệm
vụ, quyền hạn, định mức, đơn giá áp dụng. Đồng thời quy chế đưa ra yêu cầu
cần đạt được và có tính đính khung mang tính nguyên tắc.
Quy chế dân chủ là những quy định thuộc phạm vi ngành pháp luật
hành chính do người đứng đầu các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành ban
hành để làm công cụ chỉ dẫn, đồng thời là cơ sở pháp lý để giám sát, kiểm tra
đối với các cơ quan và cán bộ viên chức thuộc quyền trong việc thực hiện mỡ
rộng dân chủ với nhân dân, quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước ngành mình, cấp mình, địa phương mình. Quy chế dân chủ được
ban hành và áp dụng là sự thế hiện bằng việc làm cụ thể nhằm bảo vệ và phát
triển bản chất dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa làm cho phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được thể chế hóa, pháp luật hóa
thành những quy phạm hành động cụ thể trong đời sống.
Khái niệm quy chế thực hiện dân chủ cơ sở là quyền dân chủ của công
dân được quy quy định trong Hiến pháp (2013), luật và các văn bản dưới luật,
để thực hiện quyền dân chủ của công dân đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, các nhân viên nhà nước, các cán bộ công chức và mọi công dân
phải triệt để tuân thủ pháp luật. Nói cách khác, thực hiện quyền dân chủ là tất
cả các quyền dân chủ do pháp luật quy định được tôn trọng và thực hiện trên
thực tế. Thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở là việc của chính quyền (hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân) và các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn phải thực
hiện một số hành vi nhất định để công dân thực hiện được các quyền dân chủ
của mình. Việc thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở được tiến hành trên cơ sở các
quy định của pháp luật hiện hành. Hiện nay các văn bản quy phạm về thực
hiện dân chủ ở cơ sở là quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (ban hành kèm theo
Nghị định 79/2003/NĐ – CP, ngày 07/7/2003 của Chính phủ): Quy chế thực

20
hiện dân chủ cơ sở là văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính quyền cơ sở với công dân trong việc
phải thông tin kịp thời và công khai những việc để dân biết, những việc dân
bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan
Nhà nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và việc xây dựng
công đồng dân cư thôn, xóm.
1.1.1.3. Nông thôn mới - khái niệm và tiêu chí
Nông thôn là khu vực mà người nông dân sinh sống, đó là nơi mà dân cư
tập trung thành từng khối thường được gọi là xã, thôn, làng, xóm Mọi người
đều cùng làm những việc thuộc lĩnh vực nông nghiệp: sản xuất lương thực,
thực phẩm như: trồng lúa, rau màu, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng
thủy hải sản, các làng nghề Cuộc sống của họ thanh bình không ồn ào, tấp
nập, không có nhiều nhà máy, công trường xí nghiệp, nhà cao tầng,… Nông
thôn nước ta là khu vực rộng lớn có sự đa dạng về thành phần tộc người, về
văn hóa và là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập quán của cộng đồng. Ở
nông thôn có sự tập trung dân số đông nhất ở nước ta hiện nay mà chủ yếu là
nông dân. Trong thời chiến tranh họ chính là giai cấp cách mạng, đồng hành
cùng với giai cấp công nhân trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Nhưng hiện nay lại đang gặp nhiều khó khăn trong đời
sống và ít được hưởng lợi do thành quả của cách mạng mang lại. Mặt khác,
trình độ học vấn của nông dân nước ta hiện nay còn thấp, nặng về kinh
nghiệm, sản xuất nhỏ lẽ mang tính “tự túc, tự cấp”, nên cần kiên trì, lâu dài
hỗ trợ nông dân về khoa học - kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào nông
nghiệp, nông thôn.
Nắm bắt được yêu cầu của thực tiễn, trải qua quá trình nghiên cứu, tổng
kết kinh nghiệm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị
quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008 “Về nông nghiệp, nông dân, nông
21
thôn”; Chính phủ đã có Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 về

Ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; xác định “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM”,
đồng thời Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04-6-
2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 –
2020 nhằm khai thác tiềm lực trong nông thôn, đưa nông thôn nước ta hiện nay trở
thành NTM.
Theo thông tư số 54/TT-NNPTNT, ngày 21-8-2009 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn quy định: “vùng/khu vực NTM Việt
Nam XHCN là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị
xã, thị trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã". Như vậy,
NTM trước hết phải là nông thôn, chứ không phải là thị tứ, thị trấn NTM
vừa bao hàm chức năng lịch sử vốn có của nông thôn là vùng nông dân quần
tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông nghiệp, vừa có những thuộc tính
khác với nông thôn truyền thống, đó là: làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng
hiện đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hoá; đời sống
vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; giá
trị văn hoá truyền thống được bảo tồn, phát triển; xã hội nông thôn có an ninh
tốt, quản lý dân chủ,… thể hiện rõ bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ xã hội
chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Xây dựng NTM là làm cho nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được
nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn
dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân,
22
củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng
kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.

Mô hình NTM chính là nội dung cơ bản của Nghị quyết số 26-NQ/TW,
ngày 05-8-2008 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn” và Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, ngày 28-10-2008
của Chính phủ, ban hành chương trình hành động thực hiện nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X). Trên thực tế thì
chưa có một đơn vị nào ở nông thôn trong cả nước ta là NTM nên không có
một khuôn mẫu nào cho mô hình NTM để xây dựng, dựa trên quan điểm chỉ
đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ mà lãnh đạo đơn vị
cơ sở đã cụ thể hóa thành mô hình NTM phù hợp với đặc điểm của từng vùng
ở địa phương mình.
Ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491
QĐ/ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM, nó được chia thành 5
nhóm cụ thể: Nhóm tiêu chí về quy hoạch; về hạ tầng kinh tế – xã hội; về
kinh tế và tổ chức sản xuất; về văn hóa – xã hội – môi trường và về hệ thống
chính trị. Đó là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng NTM và chỉ đạo thí điểm xây dựng mô hình NTM trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đồng thời là cơ sở để kiểm tra, đánh giá công nhận xã,
huyện, tỉnh đạt NTM.
Bộ tiêu chí đưa ra chỉ tiêu chung cả nước và các chỉ tiêu cụ thể theo
từng vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung
Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng
sông Cửu Long phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể của
mỗi vùng. Tuy nhiên, dù áp dụng cho vùng nào thì bộ tiêu chí ấy cũng không
nằm ngoài những nội dung cụ thể sau đây: Quy hoạch và thực hiện quy
23
hoạch; giao thông; thủy lợi; điện; trường học; cơ sở vật chất văn hóa; chợ
nông thôn; bưu điện; nhà ở dân cư; thu nhập bình quân đầu người/năm; tỷ lệ
hộ nghèo; cơ cấu lao động; hình thức tổ chức sản xuất; giáo dục; y tế; văn
hóa; môi trường; hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và an ninh; trật
tự xã hội. Trên cơ sở bộ tiêu chí, bước đầu có thể nêu một số nhân tố chính

của mô hình NTM như sau:
+ Về kinh tế: Nông thôn có nền sản xuất hàng hoá mở, hướng đến thị
trường và giao lưu, hội nhập. Để đạt được điều đó, kết cấu hạ tầng của nông
thôn phải hiện đại, tạo điều kiện cho mở rộng sản xuất giao lưu buôn bán;
thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, khuyến khích mọi người
tham gia vào thị trường, hạn chế rủi ro cho nông dân, điều chỉnh, giảm bớt sự
phân hoá giàu nghèo, chênh lệch về mức sống giữa các vùng, giữa nông thôn
và thành thị; hình thức sở hữu đa dạng, trong đó chú ý xây dựng mới các hợp
tác xã theo mô hình kinh doanh đa ngành; hỗ trợ các hợp tác xã ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ phù hợp với các phương án sản xuất kinh doanh, phát
triển ngành nghề ở nông thôn; sản xuất hàng hoá có chất lượng cao, mang nét
độc đáo, đặc sắc của từng vùng, địa phương. Tập trung đầu tư vào những
trang thiết bị, công nghệ sản xuất, chế biến bảo quản, chế biến nông sản sau
thu hoạch.
+ Về chính trị: Phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật,
gắn lệ làng, hương ước, quy ước với pháp luật để điều chỉnh hành vi con
người, đảm bảo tính pháp lý, tôn trọng kỷ cương phép nước, phát huy tính tự
chủ của làng xã; phát huy tối đa QCDCCS, tôn trọng hoạt động của các hội,
đoàn thể, các tổ chức hiệp hội vì lợi ích cộng đồng, nhằm huy động tổng lực
vào xây dựng NTM.
+ Về văn hoá xã hội và con người: Xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư, giúp nhau xoá đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Xây
24
dựng hình mẫu người nông dân sản xuất hàng hoá khá giả, giàu có; kết tinh
các tư cách: công dân, thể nhân, dân của làng, người con của các dòng họ,
gia đình.
+ Về môi trường: Xây dựng, củng cố, bảo vệ môi trường, du lịch sinh
thái. Bảo vệ rừng đầu nguồn, chống ô nhiễm nguồn nước, ô nhiểm đất, môi
trường không khí và chất thải từ các khu công nghiệp để nông thôn phát triển
bền vững.

Các nội dung trên nằm trong cấu trúc mô hình NTM chúng có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau trong đó Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều
hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo
hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện, động viên
tinh thần; Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch
định chính sách. Trên tinh thần đó, các chính sách kinh tế - xã hội sẽ tạo hiệu
ứng tổng thể nhằm xây dựng thành công mô hình NTM.
Như vậy bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM là mô hình tổng quát
về NTM, sự cụ thể hóa của bộ tiêu chí ấy chính là các đề án xây dựng NTM
cho từng địa phương, giúp cho địa phương từng bước trở thành NTM.
Xây dựng NTM là một chủ trương có ý nghĩa to lớn cả về chính trị,
kinh tế, xã hội; thực hiện thắng lợi chủ trương này sẽ tạo động lực mạnh mẽ
cho phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nền kinh tế của đất nước.
Ban Bí thư đã thành lập Ban Chỉ đạo và thông qua Ðề án về
chương trình xây dựng thí điểm mô hình NTM với mục tiêu là: Xây dựng
mô hình thực tế về NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH như Nghị quyết
Trung ương đã đề ra; Trên cơ sở tổng kết chương trình thí điểm, xác định
rõ nội dung, phương pháp, cách làm, cơ chế, chính sách xây dựng NTM
để nhân rộng sau này.
Ðề án nêu 5 quan điểm trong thực hiện Chương trình xây dựng thí
25

×