Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Thực trạng bệnh đái tháo đường và đặc điểm một số chỉ số sinh lí, sinh hóa ở bệnh nhân điều trị tại khoa nội tiết bệnh viện đa khoa tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.26 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Lê Thị Hồng
THỰC TRẠNG BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ
ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH LÍ, SINH
HÓA Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA NỘI
TIẾT BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC
(Chuyên ngành sinh học thực nghiệm.)
Nghệ An - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Lê Thị Hồng
THỰC TRẠNG BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ
ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH LÍ, SINH
HÓA Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA NỘI
TIẾT BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HÀ TĨNH
Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60.42.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học : TS. Trần Đình Quang
Nghệ An - 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ về mọi mặt của các
cơ quan, đơn vị, các thầy, cô giáo cũng như gia đình và bạn bè.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Sau Đại học Trường Đại học
Vinh đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.


Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Phòng kế hoạch tổng hợp, Khoa
Nội tiết Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh đã hết sức hỗ trợ tôi trong quá trình thực
hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cô giáo Bộ môn Sinh học và các bộ
môn liên quan đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Trần Đình Quang, người
thầy đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ trong suốt thời gian nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, cùng tập thể anh chị
em lớp Cao học 20 Sinh học đã động viên, ủng hộ tôi rất nhiều trong quá trình hoàn
thành luận văn này.
Tác giả
Lê Thị Hồng
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Khái niệm về bệnh đái tháo đường 3
1.2. Tình hình nghiên cứu đái tháo đường trên thế giới và ở Việt Nam 18
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Đối tượng nghiên cứu 26
2.2. Phương pháp nghiên cứu 26
2.3. Vấn đề đạo đức y sinh 30
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 31
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 31
3.1.1. Về phân loại đái tháo đường tuyp 1 và tuyp 2 31
3.1.2. Về tuổi, giới, nghề nghiệp và nơi sống của đối tượng nghiên cứu 32
3.1.3. Tỉ lệ đáo tháo đường mới được chẩn đoán 36
3.1.4. Về thời gian mắc bệnh 37

3.2. Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân đái
tháo đường đang điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh 38
3.2.1. Đặc điểm lâm sàng 38
3.2.2. Đặc điểm cận lâm sàng 45
3.3. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường 51
3.3.1. Tiền sử gia đình, tiền sử sản khoa, thói quen hút thuốc, uống rượu 51
3.3.2.Chỉ số khối cơ thể và chỉ số eo hông 53
3.3.3. Thói quen tập thể dục thể thao, ăn kiêng 57
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 59
1. Kết luận 59
2. Kiến nghị 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
PHỤ LỤC vii
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 2.1. Phân loại thể trạng theo chỉ số khối cơ thể áp dụng cho người châu Á
28
Bảng 2.2. Phân loại tăng huyết áp theo JNC VII - 2003 [13] 29
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và giới 33
Bảng 3.2. Tỷ lệ đái tháo đường mới được chẩn đoán 38
Bảng 3.3. Tỷ lệ các biến chứng ở đối tượng nghiên cứu 42
Bảng 3.4. Tỷ lệ tăng huyết áp ở đối tượng nghiên cứu 44
Bảng 3.5. Chỉ số Glucose máu lúc đói của đối tượng nghiên cứu 46
Bảng 3.6. Mức độ kiểm soát chuyển hóa glucose dựa trên chỉ số HbA1c
của đối tượng nghiên cứu theo tiêu chuẩn của Hội Nội tiết và Đái tháo đường
Việt Nam 2009 49
Bảng 3.7. Chỉ số lipid máu trung bình của đối tượng nghiên cứu 50
Bảng 3.8. Tỷ lệ rối loạn các thành phần lipid máu của đối tượng nghiên cứu 50

Bảng 3.9. Hình thái rối loạn các thành phần lipid máu của đối tượng
nghiên cứu 51
Bảng 3.10. Các chỉ số huyết học của đối tượng nghiên cứu 52
Bảng 3.11. Phân bố tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường theo tiền sử và một số
thói quen của đối tượng nghiên cứu 53
Bảng 3.12. Mức độ tập thể dục thể thao và ăn kiêng của đối tượng nghiên cứu 58
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1. Biều đồ so sánh tỷ lệ phân loại đái tháo đường theo giới tính 31
Hình 3.2. Biểu đồ phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp 35
Hình 3.3. Biểu đồ phân bố đối nghiên cứu theo địa dư 36
Hình 3.4. Biểu đồ phân bố đối tượng theo thời gian mắc bệnh 37
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ các triệu chứng lâm sàng ở đối tượng nghiên cứu 38
Hình 3.6. Biểu đồ so sánh tỷ lệ tăng huyết áp ở đối tượng nghiên cứu 44
Hình 3.7. Biểu đồ mức độ kiểm soát chuyển hóa glucose theo glucose máu
lúc đói của đối tượng nghiên cứu 46
Hình 3.8. Biểu đồ so sánh thể lực của đối tượng nghiên cứu theo chỉ số
BMI và giới tính 54
Hình 3.9. Biểu đồ so sánh chỉ số WHR ở đối tượng nghiên cứu 56
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Cụm từ viết đầy đủ
1 ADA Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ
2 BMI Chỉ số khối cơ thể
3 CDC Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ
4 DCCT Thử nghiệm về biến chứng và kiểm soát đái tháo đường
5 HAL Kháng nguyên bạch cầu
6 HbA1c Hemoglobin A1c
7 HDL-c Cholesterol tỉ trọng cao

8 IDDM Đái tháo đường phụ thuộc insulin
9 IDF Hiệp hội Đái tháo đường Quốc tế
10 JNC Liên ủy ban quốc gia Hoa Kỳ nghiên cứu về tăng huyết áp
11 LDL-c Cholesterol tỉ trọng thấp
12 MCV Thể tích trung bình hồng cầu
13 UKPDS Nghiên cứu tiến cứu về đái tháo đường của Vương quốc Anh
14 RBC Số lượng hồng cầu
15 WBC Số lượng bạch cầu
16 WHO Tổ chức Y tế Thế giới
17 WHR Chỉ số eo hông
1
MỞ ĐẦU
Nói về tình hình bệnh tật thế kỉ XXI, các chuyên gia y tế hàng đầu thế giới
đã đưa ra nhận xét: Bệnh lí của thế kỉ XXI là bệnh lí của các bệnh nội tiết và chuyển
hóa, trong đó đái tháo đường chiếm 60% - 70%. Những năm gần đây bệnh tăng
nhanh theo tốc độ phát triển của nền kinh tế. Dự đoán trong vòng 10 - 20 năm tới, ở
các nước đang phát triển tỉ lệ bệnh sẽ tăng tới 170% [11]. Theo tổ chức Y tế Thế
giới, năm 2000 có khoảng 151 triệu người bị bệnh đái tháo đường, đến năm 2006 là
246 triệu người và dự đoán đến năm 2025 sẽ là 333 triệu người. Hiện nay có
khoảng 5 - 6% người trưởng thành trên thế giới mắc bệnh đái tháo đường, tốc độ trẻ
hóa bệnh ngày càng tăng nhanh [9].
Đái tháo đường là một bệnh mạn tính do thiếu insulin tương đối hay tuyệt
đối mà hậu quả của nó gây tăng glucose máu dẫn tới các rối loạn chuyển hóa
glucide, lipid, protein và các khoáng chất. Các rối loạn chuyển hóa nếu không được
chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến biến chứng gây ra hôn mê và tử vong trong
thời gian ngắn [5].
Hiện nay, đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến
nhất, là nguyên nhân gây tử vong hàng thứ tư ở các nước đang phát triển, là bệnh
mang tính chất xã hội cao ở nhiều nước [11]. Tốc độ phát triển của bệnh đái tháo
đường tỉ lệ thuận với tốc độ phát triển công nghiệp, đô thị hóa, sự thay đổi kinh tế

và lối sống. Bệnh phát triển nhanh gấp 6 lần bệnh tim mạch. Tuy nhiên, tỉ lệ mắc
bệnh đái tháo đường thay đổi theo từng nước, và từng vùng địa lí và khu vực có
mức độ phát triển khác nhau [9].
Trước đây, người ta nghĩ rằng đái tháo đường là bệnh không thể phòng được.
Tuy nhiên, với những thay đổi về tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh, với những hiểu biết rõ
hơn về vai trò của các yếu tố nguy cơ, sinh lí bệnh đái tháo đường cũng như các
biến chứng của nó, người ta đã khẳng định rằng đái tháo đường có thể phòng được
bằng cách phát hiện sớm những đối tượng có nguy cơ, nhất là những người thừa cân
béo phì, kiểm soát chế độ dinh dưỡng và áp dụng luyện tập thể dục thể thao hợp lí.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nằm trong khu vực Thái Bình Dương
- khu vực đang có những thay đổi lớn về hình thái bệnh tật [28]. Mặc dù không xếp
vào 10 nước có tỉ lệ mắc đái tháo đường cao nhưng Việt Nam lại là quốc gia có tốc
độ phát triển bệnh nhanh. Nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết Trung ương vào tháng
10 năm 2008 cho thấy tỉ lệ mắc đái tháo đường ở Việt Nam tăng nhanh từ 2,7%
(năm 2001) lên 5 % (năm 2008). Những nghiên cứu mới nhất về đái tháo đường và
các yếu tố nguy cơ ở Việt Nam cho thấy bệnh đái tháo đường đã tác động lên 2,7%
quần thể và có tới 65% người mắc bệnh chưa được phát hiện [11]. Đái tháo đường
đang là vấn đề thời sự cấp bách của sức khỏe cộng đồng. Cho đến nay, nhiều công
trình nghiên cứu về đái tháo đường đã được tiến hành trên phạm vi cả nước.
2
Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh, tỉ lệ bệnh nhân đái tháo đường nhập
viện điều trị ngày một gia tăng. Với đặc trưng là tăng glucose mạn tính, kéo theo
một số rối loạn chuyển hóa khác. Bệnh đái tháo đường gây ra nhiều biến chứng cấp
tính và mạn tính, đang trở thành vấn đề lớn của y học, nó gây nhiều tác động bất lợi
mang tính xã hội như làm tăng gánh nặng chi phí y tế, làm suy giảm sức lao động
xã hội, làm tăng tỉ lệ tử vong và rút ngắn tuổi thọ.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thực trạng bệnh đái tháo đường và đặc
điểm một số chỉ số sinh lí, sinh hóa ở bệnh nhân điều trị tại Khoa Nội tiết Bệnh
viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh" góp phần cung cấp dẫn liệu cho việc tìm hiểu và ngăn
ngừa bệnh đái tháo đường ở tỉnh Hà Tĩnh.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu thực trạng bệnh đái tháo đường thông qua bệnh nhân điều trị nội
trú tại Khoa Nội tiết Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh.
- Phân tích một số chỉ số sinh lí, sinh hóa máu, huyết học của bệnh đái tháo
đường.
- Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường.
Nội dung nghiên cứu của đề tài
1. Điều tra thực trạng bệnh đái tháo đường ở bệnh nhân điều trị nội trú tại
Khoa Nội tiết Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh.
2. Nghiên cứu một số chỉ số sinh học liên quan đến bệnh đái tháo đường:
a. Các chỉ số nhân trắc học: Chỉ số WHR (Waist to Hip Ratio), chỉ số BMI
(Body Mass Index).
b. Các chỉ số huyết áp.
c. Các chỉ số sinh hóa máu:
− Cholesterol toàn phần.
− Chỉ số glucose máu lúc đói.
− HDL-c (High Density Lipoprotein-Cholesterol), LDL-c (Low Density
Lipoprotein-Cholesterol).
− Tryglycerid.
− HbA1c.
− Creatinin.
d. Chỉ số xét nghiệm nước tiểu: - Protein niệu.
e. Chỉ số huyết học: WBC - số lượng bạch cầu (White Blool Cell), RBC - số
lượng hồng cầu (Red Blool Cell), MCV - thể tích trung bình hồng cầu (Mean
Corpuscular Volume).
f. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường.
3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm về bệnh đái tháo đường
1.1.1. Định nghĩa

Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), thì "đái tháo đường là một hội chứng có
đặc tính biểu hiện bằng tăng glucose máu do hậu quả của việc thiếu hoặc mất hoàn
toàn insulin hoặc do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt động của
insulin"[11].
Ngày nay người ta cho rằng đái tháo đường là một rối loạn của hệ thống nội
tiết; bệnh có thuộc tính là tăng glucose máu. Mức độ tăng glucose máu phụ thuộc
vào sự mất toàn bộ hay một phần khả năng bài tiết hoặc khả năng hoạt động của
insulin hoặc cả hai.
Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ đã đưa ra định nghĩa về đái tháo đường:
"Là một rối loạn mạn tính, có những thuộc tính sau: (1) tăng glucose máu; (2) kết
hợp với những bất thường về chuyển hóa carbohydrat, lipid và protein; (3) bệnh
luôn gắn liền với xu hướng phát triển các bệnh lí về thận, đáy mắt, thần kinh và các
bệnh tim mạch khác" [11].
Tháng 1/2003, các chuyên gia thuộc Ủy ban chẩn đoán và phân loại bệnh đái
tháo đường Hoa Kỳ đưa ra một định nghĩa mới về đái tháo đường: "Đái tháo đường
là một nhóm các bệnh chuyển hóa có đặc điểm là tăng glucose máu, hậu quả của sự
thiếu hụt bài tiết insulin; khiếm khuyết trong hoạt động của insulin hoặc cả hai.
Tăng glucose máu mạn tính thường kết hợp với sự hủy hoại, sự rối loạn chức năng
và sự suy yếu chức năng của nhiều cơ quan đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và
mạch máu" [11].
Bệnh đái tháo đường có những đặc điểm nổi trội sau:
Bệnh có tốc độ phát triển nhanh. Theo một báo cáo của Hiệp hội Đái tháo
đường quốc tế (IDF):
- Năm 1994 cả thế giới có 110 triệu người mắc bệnh đái tháo đường.
- Năm 2000 có 151 triệu người mắc bệnh đái tháo đường.
- Năm 2006 con số này lên tới 246 triệu người.
- Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2025 sẽ có 300 - 330
người mắc bệnh đái tháo đường chiếm 5,4% dân số toàn cầu [11].
Bệnh có liên quan đến các yếu tố nòi giống, dân tộc và khu vực địa lí. Tỉ lệ
đái tháo đường tuyp 2 cao nhất ở người châu Mỹ và các đảo Thái Bình Dương, tiếp

theo là người Mỹ gốc Mêhicô, người Mỹ gốc Ấn rồi người Đông Nam Á, người Mỹ
gốc Phi [9]. Ảnh hưởng của các yếu tố về yếu tố địa lí, xã hội, đặc điểm văn hóa của
từng dân tộc tới sự phát triển của đái tháo đường đã được chứng minh. Điều tra dịch
4
tễ học ở khu đô thị Madras - Đông Nam Ấn Độ, tỉ lệ đái tháo đường tăng lên 40%
trong khoảng thời gian từ năm 1988 - 1989 đến 1994 - 1995 và tỉ lệ bệnh là 16%
(năm 2000) nhưng trong đó tỉ lệ bệnh ở vùng nông thôn chỉ tăng có 2% [11]. Nhiều
nghiên cứu dịch tễ đã dự đoán ở các quốc gia đang phát triển tỉ lệ bệnh sẽ tăng gấp
1,5 lần vào những năm 2000 và sẽ tăng gấp 3 lần vào khoảng năm 2025 [9].
Đái tháo đường tuyp 2 ở trẻ nhỏ, tuổi dậy thì và tuổi trưởng thành đang là
một thực tại đáng lo ngại. Đái tháo đừng tuyp 2 ở lứa tuổi trẻ đang có xu hướng
phát triển nhanh ở Mỹ, Nhật Bản, các đảo ở Thái Bình Dương, Hồng Kông,
Australia và Vương quốc Anh [1]. Ở Mỹ, tỉ lệ đái tháo đường tuyp 2 ở lứa tuổi từ
12 - 19 là 4,1/1000. Từ năm 1967 - 1976 đến năm 1987 - 1996, tỉ lệ đái tháo đường
trẻ em nữ tăng từ 2,7% lên 5,3% và trẻ em nam tăng từ 2,4% lên 2,7% [11].
Bệnh đái tháo đường đã, đang và sẽ là gánh nặng cho nền kinh tế, xã hội của
cả thế giới và mỗi quốc gia vào thế kỉ 21 bởi chi phí điều trị của người bệnh.
Đái tháo đường không được chẩn đoán là vấn đề đang giành được mối quan
tâm. Người ta thấy việc chẩn đoán đái tháo đường giống như một tảng băng, phần
nổi - phần được chẩn đoán chiếm một phần nhỏ, còn phần lớn chưa được chẩn đoán
là phần chìm của tảng băng này. Nghiên cứu AusDiab - Australia (2003), khẳng
định rằng ở lứa tuổi ≥ 25, cứ một người được chẩn đoán đái tháo đường thì có một
người chưa được chẩn đoán. Ở các nghiên cứu khác ở Nam Á hoặc châu Phi tỉ lệ
này từ 22- 23% [1]. Ở Việt Nam, theo Tạ Văn Bình (2007), có khoảng 60% người
mắc bệnh không được chẩn đoán [11].
1.1.2. Chẩn đoán bệnh đái tháo đường
Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định:
Theo Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) năm 1997 và được Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) công nhận năm 1998, tuyên bố áp dụng vào năm 1999, đái tháo
đường được chẩn đoán xác định khi có bất kỳ một trong ba tiêu chuẩn sau:

- Tiêu chuẩn 1: Glucose máu bất kì ≥ 11,1 mmol/l. Kèm theo các triệu chứng uống
nhiều, đái nhiều, sút cân không nguyên nhân.
- Tiêu chuẩn 2: Glucose máu lúc đói ≥ 7,0 mmol/l, xét nghiệm lúc bệnh nhân đã
nhịn đói sau 6 - 8 giờ không ăn.
- Tiêu chuẩn 3: Glucose máu ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp tăng
Glucose máu ≥11,1 mmol/l.
Các xét nghiệm trên phải được lặp lại 1 - 2 lần trong những ngày sau đó [11].
1.1.3. Phân loại bệnh đái tháo đường
1.1.3.1. Đái tháo đường tuyp 1
5
Đái tháo đường tuyp 1, trước đây thường gọi là đái tháo đường phụ thuộc
insulin (IDDM) hoặc đái tháo đường tuổi vị thành niên, là một bệnh tự miễn. Hệ
thống miễn dịch của cơ thể đã sinh ra các kháng thể chống lại và phá hủy tế bào
beta của tiểu đảo tụy sản xuất ra insulin, gây nên sự thiếu hụt insulin tuyệt đối cho
cơ thể (nồng độ insulin giảm thấy hoặc mất hoàn toàn). Sự thiếu hụt insulin dẫn đến
tăng glucose máu và thường dẫn đến những biến chứng lâu dài. Các kháng nguyên
bạch cầu người (HAL) chắc chắn có mối liên quan chặt chẽ với sự phát triển của đái
tháo đường tuyp 1 [55].
Đái tháo đường tuyp 1 chiếm tỉ lệ khoảng 5 - 10 % tổng số bệnh nhân đái
tháo đường trên thế giới, là một trong những bệnh nguy hiểm phổ biến ở lứa tuổi trẻ
[51].
Đái tháo đường tuyp 1 phụ thuộc nhiều vào yếu tố gen và thường được phát
hiện trước 40 tuổi. Theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình (2004) tỉ lệ mới mắc đái tháo
đường tuyp 1 ở lứa tuổi dưới 20 cao hơn tỉ lệ mắc các bệnh khác như ung thư,
chứng xơ hóa túi mật, xơ cứng bì, viêm khớp dạng thấp hoặc loạn dưỡng cơ [6].
Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành niên biểu hiện nhiễm toan ceton
là triệu chứng đầu tiên của bệnh. Đa số các trường hợp được chẩn đoán bệnh đái
tháo đường tuyp 1 thường là người có thể trạng gầy, tuy nhiên người béo cũng
không loại trừ [9]. Người bệnh đái tháo đường tuyp 1 sẽ có đời sống phụ thuộc
insulin hoàn toàn.

Có thể có các dưới nhóm:
- Đái tháo đường qua trung gian miễn dịch.
- Đái tháo đường tuyp 1 không rõ nguyên nhân.
1.1.3.2. Đái tháo đường tuyp 2
Đái tháo đường tuyp 2 chiếm tỉ lệ 90% đái tháo đường trên thế giới, thường
gặp ở người trưởng thành trên 40 tuổi. Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Tuy
nhiên, do có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, về thói quen ăn uống, đái tháo
đường tuyp 2 ở lứa tuổi trẻ đang có xu hướng phát triển nhanh [1].
Đặc trưng của đái tháo đường tuyp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt
tiết insulin tương đối. Đái tháo đường tuyp 2 thường được chẩn đoán rất muộn vì
giai đoạn đầu tăng glucose máu tiến triển âm thầm không có triệu chứng. Không có
biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về chuyển hóa lipid, các biểu
hiện bệnh lí về tim mạch, thần kinh, thận …, nhiều khi các biến chứng này đã ở
mức độ rất nặng.
Theo Tạ Văn Bình, đặc điểm lớn nhất trong sinh lí bệnh của đái tháo đường
tuyp 2 là có sự tương tác giữa yếu tố gen và yếu tố môi trường trong cơ chế bệnh
sinh [11]. Người mắc bệnh tháo đường tuyp 2 có thể điều trị bằng cách thay đổi thói
6
quen, kết hợp dùng thuốc để kiểm soát glucose máu, tuy nhiên nếu quá trình này
thực hiện không tốt thì bệnh nhân cũng sẽ phải điều trị bằng cách dùng insulin.
1.1.3.3. Đái tháo đường thai kỳ
Cho tới nay đái tháo đường thai kỳ đang là một vấn đề đáng quan tâm của y
tế cộng đồng vì tỉ lệ mắc bệnh cũng như các biến chứng của bệnh cho cả bà mẹ và
thai nhi.
Đái tháo đường thai kỳ được định nghĩa là tình trạng không dung nạp
carbohydrat được phát hiện lần đầu khi mang thai. Thường gặp ở phụ nữ có thai, có
glucose máu tăng, gặp khi có thai lần đầu [9]. Đái tháo đường thai kỳ thường xuất
hiện vào khoảng tuần thứ 24 - 28 của thai kỳ khi nhau thai bắt đầu sản xuất một
lượng lớn các hormon gây kháng insulin.
Nhìn chung, cũng giống như can thiệp cho người mắc đái tháo đường không

mang thai, với 3 biện pháp chính: Chế độ ăn uống, luyện tập và sử dụng thuốc. Việc
đầu tiên, người bệnh phải thực hiện chế độ ăn uống của người bệnh đái tháo đường.
Tuy nhiên, nhu cầu năng lượng của người mẹ được cung cấp phải tùy thuộc vào
trọng lượng trước khi có thai cũng như tình trạng tăng cân kể từ lúc mang thai, và
tùy thuộc vào sự đánh giá nhu cầu năng lượng trước đó. Đối với đái tháo đường thai
kỳ thì việc tập luyện phải hết sức thận trọng. Khi đang tập luyện, người bệnh cảm
thấy mệt mỏi thì phải ngừng tập và cần được nghỉ ngơi. Người phụ nữ đái tháo
đường thai kỳ có thể luyện tập ở mức trung bình và tránh một số hoạt động nhất
định cho đến sau khi sinh nở. Nếu chế độ luyện tập và ăn uống vẫn không kiểm soát
được đường huyết, bắt buộc người bệnh phải dùng thuốc. Người bệnh đái tháo
đường thai kỳ phải được điều trị bằng insulin với liều lượng do bác sĩ chỉ định, cần
được theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình điều trị, tránh gây hạ đường huyết và
các tai biến khác.
Freinkel (1994) đã chứng minh ở người đái tháo đường thai kỳ, trong thời kỳ
mang thai insulin tăng tiết gấp 1,5 - 2 lần khi đáp ứng với nghiệm pháp dung nạp
glucose bằng đường ống hay truyền tĩnh mạch. Rõ ràng cả lượng insulin dự trữ lẫn
khả năng đáp ứng bài tiết mới của tế bào beta bị giới hạn. Đây cũng chính là nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng không dung nạp glucose ở người mẹ [11].
Các bất thường về chuyển hóa bao gồm tiết insulin mất cân đối và các tác
động của nó đến quá trình thu nhận glucose, ngăn chặn sản xuất glucose ở gan và
giảm tuyệt đối sử dụng glucose được insulin hoạt hóa [5].
Các nghiên cứu dịch tễ học về đái tháo đường thai kỳ phát hiện nhiều điểm
chung giống với đái tháo đường tuyp 2. Những phụ nữ mắc đái tháo đường thai kỳ
có xu hướng hay gặp ở lớp người nhiều tuổi hơn (trên 25 tuổi), có thừa cân, béo phì
so với những phụ nữ có dung nạp glucose bình thường khi mang thai. Cũng như đái
7
tháo đường tuyp 2, tần suất mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ tăng lên cùng với tuổi
và chỉ số khối cơ thể (BMI) thường gặp hơn ở các quần thể không phải da trắng [3].
Trong các nghiên cứu khác nhau, nguy cơ tương đối tăng từ 1,6 - 3,5 lần ở
người da đen, tăng 1,8 lần ở người có nguồn gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tăng

8,5 lần ở người sống ở vùng Đông Nam Á, tăng 10,9 lần ở người Đông Ấn và gấp
15 lần ở người Mỹ bản địa. Những phát hiện này cũng tương tự như đối với tỉ lệ đái
tháo đường tuyp 2 ở các nhóm chủng tộc tương ứng, cũng như sự liên hệ với tuổi và
sự béo phì [trích từ 11].
Ở Việt Nam cũng đã có một vài nghiên cứu về vấn đề này. Lứa tuổi hay gặp
của những sản phụ được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ thường trên 35 tuổi,
thường gặp ở người thừa cân, béo phì (BMI trên 23). Đái tháo đường thai kỳ cũng
hay gặp ở phụ nữ đã từng sinh đẻ nhiều lần [11]. Một số công trình nghiên cứu tại
Việt Nam công bố tỉ lệ đái tháo đường trong nhóm mang thai chiếm khoảng 3,9%
của các tác giả Ngô Thị Kim Phụng - 1994 [3], 3,6% của Nguyễn Thị Kim Chi
-2000 [11], 5,7% của Tạ Đình Bình - 2004 [6], 10,6% của Tô Thị Minh Nguyệt -
2007 [1]. Từ các nghiên cứu trên có thể thấy tỉ lệ đái tháo đường thai kỳ ở nước ta
không thấp và có xu hướng tăng.
1.1.3.4. Các thể đái tháo đường khác (hiếm gặp)
Nguyên nhân liên quan đến một số bệnh, thuốc, hóa chất.
- Khiếm khuyết chức năng tế bào bê - ta.
- Khiếm khuyết gen hoạt động của insulin.
- Bệnh tụy ngoại tiết: Viêm tụy, chấn thương, carcinom tụy…
- Thuốc hoặc hóa chất.
- Các thể ít gặp qua trung gian miến dịch.
1.1.4. Biến chứng bệnh đái tháo đường
Đái tháo đường nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh sẽ
tiến triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh nhân có
thể tử vong do các biến chứng này. Biến chứng của bệnh đái tháo đường thường
được chia ra theo thời gian xuất hiện và mức độ của các biến chứng.
1.1.4.1. Biến chứng cấp tính
Các biến chứng cấp tính của bệnh đái tháo đường thường là hậu quả của
chẩn đoán muộn, điều trị không thích hợp hoặc do nhiễm khuẩn cấp tính. Biến
chứng cấp tính có thể đe dọa tính mạng người bệnh, thường hay gặp ở các nước
đang phát triển.

Các biến chứng cấp tính thường gặp gồm có:
- Nhiễm toan ceton và hôn mê nhiễm toan ceton.
- Hạ đường huyết và hôn mê hạ đường huyết.
8
- Hôn mê tăng đường huyết không nhiễm toan ceton.
- Nhiễm khuẩn cấp, ví dụ viêm phổi, lao kê
* Nhiễm toan ceton và hôn mê nhiễm toan ceton do đái tháo đường
Là một biến chứng nguy hiểm đến tính mạng người bệnh xảy ra khi cơ thể
sản xuất các cấp rất cao của acid máu gọi là ceton. Nhiễm toan ceton do đái tháo
đường phát triển khi có quá ít insulin trong cơ thể. Insulin thường đóng một vai trò
quan trọng trong việc giúp đỡ đường (glucose) - một nguồn năng lượng cho cơ bắp
và các mô khác nhập các tế bào. Nếu không có đủ insulin, cơ thể bắt đầu phân hủy
chất béo như một nhiên liệu thay thế. Đổi lại, quá trình này sản xuất axit độc hại
trong máu gọi là ceton, cuối cùng dẫn đến nhiễm ketoacid bệnh tiểu đường nếu
không được điều trị.
Hôn mê nhiễm toan ceton là hậu quả của hai yếu tố kết hợp chặt chẽ, đó là
thiếu insulin và tăng tiết các hormon đối kháng với insulin của hệ thống hormon đối
lập, làm tăng glucose máu.
Trong nhiễm toan ceton, hệ thống thăng bằng glucose máu thông qua vai trò
điều hòa hormon bị rối loạn: Các hormon như Catecholamin, Cortisol, GH đều tăng
rõ rệt. Về mặt sinh học chúng là những chất đối kháng với insulin, có tác dụng thúc
đẩy quá trình toan hóa làm cho bệnh nặng lên. Trong số này glucogan có vai trò đặc
biệt quan trọng, vì glucogan kích thích quá trình phân hủy glucose ở gan, tăng thủy
phân lipid, kích thích bài tiết acid béo vào tuần hoàn [9].
* Hạ glucose máu
Triệu chứng hạ glucose máu thường xảy ra khi lượng glucose huyết tương
còn khoảng 2,7 - 3,3 mmol/l, tùy theo mức glucose trong huyết tương sẽ có những
biểu hiện lâm sàng tương ứng.
Hạ glucose máu là hậu quả của tình trạng mất cân bằng giữa hai quá trình
cung cấp (ví dụ từ gan và dinh dưỡng hấp thu qua đường tiêu hóa) và tiêu thụ

glucose (chủ yếu bởi cơ vân) trong tuần hoàn. Các nguyên nhân thường gặp là:
- Tăng bài tiết insulin (chất có tác dụng ức chế sản xuất glucose tại gan, kích
thích tiêu thụ glucose ở cơ vân và mô mỡ).
- Giảm tiếp nhận thức ăn (do chế độ ăn uống khắt khe hoặc có vấn đề về rối
loạn hấp thu).
- Tăng mức độ luyện tập (làm tăng sử dụng glucose ở cơ vân) [8].
* Hôn mê tăng glucose máu không nhiễm toan ceton
Theo Tạ Văn Bình, đây là hội chứng thường gặp ở người mắc đái tháo đường
tuyp 2 trên 60 tuổi, nữ thường gặp hơn nam [11].
Bệnh có tiên lượng xấu, tỉ lệ tử vong cao ngay cả khi được cấp cứu ở những
trung tâm có đầy đủ phương tiện và có những chuyên gia giỏi, nếu có qua khỏi cũng
9
thường để lại di chứng. Hôn mê tăng glucose máu chiếm 5 - 10%. Ở bệnh nhân đái
tháo đường tuyp 2 nhiều tuổi, tỉ lệ tử vong từ 30 - 50% [55].
Tăng glucose máu không nhiễm toan ceton có thể gặp ở người chưa bao giờ
được chẩn đoán đái tháo đường tuyp 2 và thường là nguyên nhân phải vào viện cấp
cứu của những người đái tháo đường tuyp 2.
Hôn mê tăng glucose máu có nhiều điểm giống với hôn mê nhiễm toan
ceton. Tuy nhiên có nhiều điểm khác nhau, nhất là về mức độ các tổn thương. Đặc
điểm chính của bệnh là tăng glucose máu, mất nước và điện giải. Người hôn mê do
tăng glucose máu không nhiễm toan ceton có đặc điểm lớn nhất là mất nước, đa
phần là mất nước nặng. Thường khi đã có triệu chứng rối loạn ý thức lâm sàng,
lượng nước mất có thể chiếm tới 25% trọng lượng cơ thể [9].
Đặc điểm quan trọng để phân biệt với hôn mê nhiễm toan ceton là không có
thể ceton hoặc có rất nhẹ trong nước tiểu. Đó là do:
- Do nồng độ insulin tăng cao ở hệ thống cửa làm tăng khả năng tạo ra thể
ceton tại gan.
- Do hệ thống hormon đối lập không tăng tiết (do không giảm lượng insulin
máu), nên giảm khả năng bẻ gãy các mẫu lipid, giảm kích thích tạo ra các thể ceton
ở gan.

- Bản thân sự tăng cao của áp lực thẩm thấu ức chế sự phân hủy lipid, mà
chính sự phân hủy lipid là nguồn tạo ra các acid béo tự do để gan tổng hợp nên các
thể ceton, vì thế lượng ceton cũng không tăng lên [8].
* Nhiễm khuẩn cấp
Bệnh nhân bị đái tháo đường thường nhạy cảm với tất cả các loại nhiễm
khuẩn do có các yếu tố thuận lợi. Có thể gặp nhiễm khuẩn ở nhiều cơ quan như:
Viêm đường tiết niệu, viêm răng lợi, viêm tủy xương, viêm túi mật sinh hơi, nhiễm
nấm
Các bệnh nhiễm khuẩn cấp:
- Nhiễm trùng ngoài da rất hay gặp. Đặc điểm là tổn thương khởi phát rất nhỏ và
nhẹ, nhưng nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng thì sẽ nhanh chóng
dẫn đến nhiễm trùng hoại tử lan rộng, có tiên lượng xấu.
- Viêm mô tế bào đơn độc hoặc kết hợp với lở loét do tổn thương mạch ở đoạn xa
phần thấp - chi dưới. Loại này phải đề phòng tổn thương xương, gây hậu quả cắt
cụt.
- Nhiễm khuẩn đường tiết niệu chiếm 20% người bệnh đái tháo đường, thường là
không có triệu chứng. Những người bệnh tổn thương thần kinh bàng quang chắc
chắn sẽ bị nhiễm trùng tiết niệu và có thể là nguyên nhân gây nhiễm trùng máu.
- Viêm tai hiếm gặp, nếu có thì thường là ở người bệnh cao tuổi [9].
10
1.1.4.2. Biến chứng mạn tính
* Biến chứng tim mạch
Bệnh lí tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường là biến chứng thường gặp và
nguy hiểm. Mặc dù có nhiều yếu tố tham gia gây bệnh mạch vành, nhưng các
nghiên cứu cho thấy nồng độ glucose máu tăng cao làm tăng nguy cơ mắc bệnh
mạch vành và các biến chứng tim mạch khác. Người đái tháo đường có bệnh tim
mạch là 45% (so với 25% ở người bình thường), nguy cơ mắc bệnh tim mạch gấp 2
- 4 lần so với người bình thường. Nghiên cứu ở người bệnh suy tim sung huyết sau
3 năm thấy 30% xuất hiện đái tháo đường. Nguyên nhân tử vong do bệnh tim mạch
chung chiếm khoảng 70% tử vong ở người bệnh đái tháo đường, thiếu máu cơ tim

và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất. Nguy cơ tử vong ở
người đái tháo đường do bệnh lí mạch vành so với người không bị đái tháo đường
cao gấp 3 - 4 lần [9].
Một nghiên cứu được tiến hành trên 353 bệnh nhân đái tháo đường tuyp 2 là
người Mỹ gốc Mêhicô trong 8 năm cho thấy có 67 bệnh nhân tử vong và 60% là do
bệnh mạch vành [9].
Một nghiên cứu liên tục trong 9 năm ở Hoa Kỳ, lứa tuổi 65 - 74 (số liệu năm
1993):
- Tử vong do bệnh tim - đái tháo đường ở nam là 4,9%, ở nữ là 3,2% (người
không bị đái tháo đường tỉ lệ này ở nam là 1,9%, nữ là 0,9%).
- Tử vong do thiếu máu cục bộ - đái tháo đường là 3,8% ở nam, ở nữ 2,3%
(người không đái tháo đường tỉ lệ này ở nam là 1,3%, ở nữ là 0,7%).
Tăng huyết áp thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường, tỉ lệ mắc bệnh chung
của tăng huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường gấp đôi so với người bình thường.
Trong đái tháo đường tuyp 2, 50% đái tháo đường mới được chẩn đoán có tăng
huyết áp. Tăng huyết áp ở người dái tháo đường tuyp 2 thường kèm theo các rối
loạn chuyển hóa và tăng lipid máu [6], [59].
Ngoài ra, tỉ lệ biến chứng mạch não ở bệnh nhân đái tháo đường tăng gấp 1,5
- 2 lần, viêm động mạch chi dười gấp 5 - 10 lần so với người bình thường.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình, khoảng 80% bệnh nhân đái
tháo đường mắc thêm các bệnh liên quan đến tim mạch [11].
Tuổi thọ của người mắc bệnh đái tháo đường giảm đi đáng kể khi so sánh với
tuổi thọ trung bình của người không bị mắc đái tháo đường. Tuổi thọ càng giảm
nhiều đặc biệt với người đái tháo đường mắc thêm các bệnh về tim mạch [9].
* Biến chứng thận
Biến chứng thận do đái tháo đường là một trong những biến chứng thường
gặp, tỉ lệ biến chứng tăng theo thời gian. Bệnh thận đái tháo đường khởi phát bằng
11
protein niệu, sau đó khi chức năng thận giảm xuống, ure và creatinin sẽ tích tụ trong
máu.

Bệnh thận do đái tháo đường là nguyên nhân thường gặp nhất gây suy thận
giai đoạn cuối. Với người đái tháo đường tuyp 1, mười năm sau biểu hiện bệnh thận
rõ ràng, khoảng 50% tiến triển tới suy thận giai đoạn cuối và sau 20 năm sẽ có
khoảng 75% số bệnh nhân trên cần chạy thận lọc máu chu kỳ. Khả năng diễn biến
đến suy thận giai đoạn cuối của bệnh nhân đái tháo đường tuyp 2 ít hơn so với bệnh
nhân đái tháo đường tuyp 1, song số lượng bệnh nhân đái tháo đường tuyp 2 chiếm
tỉ lệ rất lớn nên thực sự số bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối chủ yếu là bệnh nhân
đái tháo dường tuyp 2.
Để theo dõi bệnh thận đái tháo đường có thể định lượng microalbumin niệu,
đo mức lọc cầu thận, định lượng protein niệu/24 giờ. Ngày nay, nhiều phòng xét
nghiệm chọn phương pháp định lượng protein niệu trong mẫu nước tiểu qua đêm.
Tại Việt Nam, theo một điều tra năm 1998, tỉ lệ có microalbumin niệu dương
tính khá cao chiếm 71% trong số người mắc bệnh đái tháo đường tuyp 2 [8].
* Bệnh lí mắt ở bệnh nhân đái tháo đường
Đái tháo đường là một bệnh gây ảnh hưởng hàng đầu đến thị lực. Theo
Francosic Rousselie, trong số những nguyên nhân gây mù khác thì bệnh đái tháo
đường là nguyên nhân gây mù đầu tiên gặp ở các lứa tuổi từ 20 - 60 tuổi. Bệnh biểu
hiện nhẹ bằng tăng tính thấm mao mạch, ở giai đoạn muộn hơn bệnh tiến triển dẫn
đến tắc mạch máu, tăng sinh mạch máu với thành mạch yếu dễ xuất huyết gây mù
lòa. Sau 20 năm mắc bệnh, hầu hết bệnh nhân đái tháo đường tuyp 1 và khoảng
60% bệnh nhân đái tháo đường tuyp 2 có bệnh lí võng mạc do đái tháo đường [8].
Trong 1000 người mù mới thì 7% do đái tháo đường, trong đó 92% ở tuổi 50 và
44% trên 72 tuổi. Tác giả cho rằng người bị đái tháo đường thì nguy cơ bị mù tăng
gấp 11 lần so với người không bị đái tháo đường và nguy cơ đó tăng gấp 29 lần ở
người bị bệnh võng mạc đái tháo đường.
Đục thủy tinh thể là tổn thương mắt thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường,
có vẻ tương quan với thời gian mắc bệnh và mức độ tăng đường huyết kéo dài. Đ ục
thủy tinh thể ở người đái tháo đường cao tuổi sẽ tiến triển nhanh hơn người không
đái tháo đường. Hiện tai người ta không thể phân biệt được đục thủy tinh thể do đái
tháo đường với đục thủy tinh thể do tuổi già với người không mắc đái tháo đường.

Nhưng cũng thấy rằng khi bị đái tháo dường, đục thủy tinh xảy ra nhanh hơn, sớm
hơn, hai mắt đục không đều, mắt đục trước, mắt đục sau. Theo Leonard Goffe, có
rất nhiều bằng chứng cho thấy những bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ xảy ra
những biến đổi thủy tinh thể do tuổi già và những biến đổi này thường xảy ra ở lứa
tuổi trẻ hơn so với người không mắc đái tháo đường. Tỉ lệ đục thủy tinh thể theo
12
nghiên cứu của Lê Huy Hiệu là 22,8%, Thái Hồng Quang là 17,5% và Phạm Thị
Hồng Hoa là 30%.
Theo nghiên cứu của Tô Văn Hải, Phạm Hoài Anh (2006) tại Bệnh viện
Thanh Nhàn - Hà Nội, số bệnh nhân có bệnh về mắt chiếm 72,5%, trong đó tỉ lệ
bệnh võng mạc đái tháo đường 60,5%, đục thủy tinh thể 59% [32].
Nghiên cứu của Đặng Văn Hòa và Nguyễn Kim Lương (2007) tại Bệnh viện
Đa khoa Trung ương Thái Nguyên cho thấy 52,94% bệnh nhân đục thủy tinh thể,
22,94% bệnh nhân bị bệnh võng mạc đái tháo đường [36].
* Bệnh thần kinh do đái tháo đường
Bệnh lí thần kinh ngoại vi là một biến chứng mãn tính quan trọng của bệnh
đái tháo đường. Tỉ lệ bệnh này càng tăng theo thời gian mắc bệnh. Ở người bệnh đái
tháo đường tuyp 1 biến chứng thần kinh thường có sau 5 năm kể từ khi được chẩn
đoán. Nhiều khi có các triệu chứng của tổn thương thần kinh bắt đầu từ khi có liệu
pháp insulin. Người bệnh nhân đái tháo đường tuyp 2 thường có biểu hiện thần kinh
ngay tại thời điểm chẩn đoán. Thực tế bệnh có khi còn có trước đó nhiều năm.
Bệnh thần kinh do đái tháo đường gặp khá phổ biến, ước tính khoảng 30%
bệnh nhân đái tháo đường có biểu hiện biến chứng này.
Bệnh thần kinh do đái tháo đường thường được phân chia thành các hội
chứng lớn sau: Viêm đa dây thần kinh, bệnh đơn dây thần kinh, bệnh thần kinh thực
vật, bệnh thần kinh vận động gốc chi [9].
* Bệnh lí bàn chân do đái tháo đường
Bệnh lí bàn chân đái tháo đường ngày càng được quan tâm do tính phổ biến
của bệnh. Bệnh lí bàn chân đái tháo đường do sự phối hợp của tổn thương mạch
máu, thần kinh ngoại vi và cơ địa dễ nhiễm khuẩn do glucose máu tăng cao.

Một thông báo của WHO tháng 3 - 2005 cho thấy có tới 15% số người mắc
bệnh đái tháo đường có liên quan đến bệnh lí bàn chân, 20% số người phải nhập
viện do nguyên nhân bị loét chân. Nếu theo dõi trên phạm vi toàn cầu thì cứ 30 giây
lại có một người mắc bệnh đái tháo đường có biến chứng bàn chân buộc phải cắt cụt
chi. Bệnh nhân đái tháo đường phải cắt cụt chi dưới nhiều gấp 15 lần so với người
không bị đái tháo đường, chiếm 45 - 70% tổng số các trường hợp cắt cụt chân [11].
Tỉ lệ bệnh lí bàn chân đái tháo đường của người mắc bệnh đái tháo đường
cũng khác nhau tùy theo tình trạng kinh tế, xã hội, nếu ở các quốc gia phát triển
bệnh lí bàn chân đái tháo đường của người bệnh đái tháo đường chỉ vào khoảng 5%,
thì tỉ lệ này ở các nước đang phát triển là 40% [26].
Một nghiên cứu biến chứng bàn chân đái tháo đường của Bệnh viện Nội tiết,
Hà Nội cho thấy thường người đái tháo đường Việt Nam có biến chứng bàn chân
vào viện ở những giai đoạn muộn. Điều này dẫn đến những hậu quả nặng nề, ngoài
13
việc chi phía cao, thì thời gian điều trị nội trú cũng dài hơn người đái tháo đường
không bị biến chứng bàn chân trung bình là hai tháng. Tỉ lệ cắt cụt của người bị
biến chứng bàn chân đái tháo đường của Việt Nam cũng rất cao, khoảng 40% tổng
số người có bệnh lí bàn chân đái tháo đường [9].
1.1.5. Rối loạn chuyển hóa lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường
Rối loạn lipid máu là tình trạng rối loạn và tăng nồng độ các thành phần lipid
trong máu, hậu quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch, làm gia tăng
nguy cơ biến chứng tim mạch và đột qụy, tăng các biến chứng mạch máu khác.
Ngày nay, người ta xem đã có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ các thành phần
của lipid trong máu có sự thay đổi [9].
Rối loạn lipid máu chủ yếu ở người đái tháo đường tuyp 1 là lượng
lipoprotein huyết tương thấp, tăng mức LDC - c hạt nhỏ, đậm đặc. Các bất thường
này sẽ được cải thiện song hành với mức kiểm soát glucose máu.
Người đái tháo đường tuyp 2 thường có tăng triglycerid máu và giảm HDL -
c (loại lipoprotein được xem là có chức năng bảo vệ thành mạch), đôi khi không
phụ thuộc vào mức độ kiểm soát đường máu. Người bệnh mới mắc đái tháo đường

tuyp 2 thường có mức HDL - c thấp ở nam từ 20 - 50%, nữ 10 - 25%. Chuyển hoá
LDL - c cũng bị rối loạn ở người đái tháo đường tuyp 2, chỉ cần LDL - c tăng nhẹ
cũng đã là yếu tố nguy cơ làm bệnh mạch vành tăng rõ rệt [2].
1.1.6. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường
1.1.6.1. Tuổi
Yếu tố tuổi (đặc biệt là độ tuổi 55 trở lên) được A. Timothy xếp lên vị trí đầu
tiên trong số các yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường, nhất là đái tháo đường
tuyp 2 [9]. Khi cơ thể già, chức năng tụy nội tiết cũng bị già theo và khả năng tiết
insulin của tụy cũng bị giảm. Khả năng tiết insulin của tụy giảm, nồng độ glucose
máu có xu hướng tăng, nồng độ glucose máu tăng đồng thời giảm sự nhạy cảm của
tế bào với các kích thích của insulin, giảm khả năng tiết insulin, khi tế bào tụy
không còn khả năng tiết insulin đủ với nhu cầu cần thiết của cơ thể, glucose máu
khi đói tăng và đái tháo đường thực sự xuất hiện.
Qua nhiều nghiên cứu thấy tuổi có sự liên quan đến sự xuất hiện bệnh đái
tháo đường tuyp 2. Tuổi càng tăng, tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường càng cao.
Ở châu Á, đái tháo đường tuyp 2 có tỉ lệ cao ở những người trên 30 tuổi. Ở
châu Âu, thường xảy ra sau tuổi 50 chiếm 85 - 90% các trường hợp đái tháo đường
[11]. Từ 65 tuổi trở lên, tỉ lệ bệnh đái tháo đường lên tới 16% [46].
Sự gia tăng đái tháo đường tuyp 2 theo tuổi có nhiều yếu tố tham gia, các
thay đổi chuyển hóa hydrate liên quan đến tuổi, điều này giải thích tại sao nhiều
14
người mang gen di truyền đái tháo đường mà lại không bị đái tháo đường từ lúc còn
trẻ đến khi về già mới bị bệnh.
Tuy nhiên với tốc độ phát triển cuộc sống hiện nay, ngày càng có nhiều
người trẻ tuổi mắc đái tháo đường tuyp 2. Quan sát sự xuất hiện bệnh đái tháo
đường týp 2 trong gia đình có yếu tố di truyền rõ ràng, người ta thấy rằng ở thế hệ
thứ nhất mắc bệnh ở độ tuổi 60 - 70, ở thế hệ thứ 2 tuổi xuất hiện bệnh giảm xuống
còn 40 - 50 tuổi và ngày nay người được chẩn đoán đái tháo đường tuyp 2 dưới 20
tuổi không còn là hiếm [55].
1.1.6.2. Giới tính

Tỉ lệ mắc đái tháo đường ở hai giới nam và nữ thay đổi tuỳ thuộc vào các
vùng dân cư khác nhau. Ảnh hưởng của giới tính đối với bệnh đái tháo đường
không theo quy luật, nó tuỳ thuộc vào chủng tộc, độ tuổi, điều kiện sống, mức độ
béo phì.
Ở các vùng đô thị Thái Bình Dương tỉ lệ nữ/nam là 3/1, trong khi ở Trung
Quốc, Malaysia tương đương nhau [9].
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Hoàng Kim Ước (2007), tỉ lệ mắc đái
tháo đường ở nam là 3,5%; ở nữ là 5,3% [59]. Nghiên cứu về tình hình đái tháo
đường và yếu tố nguy cơ được tiến hành trên cả nước năm 2002 - 2003 cho thấy
không có sự khác biệt về tỉ lệ mắc bệnh theo giới [11].
1.1.6.3. Yếu tố di truyền
Những đối tượng có mối liên quan huyết thống với người bị bệnh đái tháo
đường như có bố, mẹ hoặc anh chị em ruột bị bệnh đái tháo đường có nguy cơ bị
bệnh đái tháo đường cao gấp 4 - 6 lần người bình thường (trong gia đình không có
ai mắc đái tháo đường). Đặc biệt nhất là những người mà cả bên nội và ngoại đều
có người mắc đái tháo đường. Hai trẻ sinh đôi cùng trứng, một người bị mắc đái
tháo đường người kia sẽ bị xếp vào nhóm đe dọa thực sự bị đái tháo đường, con cái
có cả bố và mẹ mắc đái tháo đường thì 40% có nguy cơ bị mắc đái tháo đường [1].
Di truyền đóng vai trò rất quan trọng trong bệnh đái tháo đường tuyp 2. Khi
bố hoặc mẹ bị đái tháo đường thì đứa trẻ có nguy cơ bị đái tháo đường là 30%, khi
cả bố và mẹ bị đái tháo đường thì nguy cơ này tăng lên là 50%. Sự trùng hợp bệnh ở
những người sinh đôi cùng trứng là 90% [19].
Trong họ hàng cấp đầu tiên với người đái tháo đường tuyp 2 (anh em sinh
đôi không cùng trứng), khá năng phát bệnh đái tháo đường tuyp 2 là 20 - 40%, tỉ lệ
này lớn hơn rất nhiều so với 5% trong quần thể dân cư [19].
Tỉ lệ mắc bệnh và tuổi mắc bệnh đái tháo đường thay đổi theo sắc tộc, ở Tây
Âu tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường tuyp 2 ở người da vàng cao hơn người da trắng 2 -
15
4 lần, tuổi mắc bệnh ở người da vàng trẻ hơn người thường trên 30 tuổi, ở người da
trắng thường trên 50 tuổi [7].

Theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình (2004), người có tiền sử gia đình có người
bị bệnh đái tháo đường có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 19,5 lần so với người không
có tiền sử gia đình mắc bệnh đái tháo đường [6].
1.1.6.4. Béo phì
“Béo phì là trạng thái thừa mỡ của cơ thể” [56]. Theo các chuyên gia của
WHO, béo phì là yếu tố nguy cơ mạnh mẽ nhất tác động lên khả năng mắc đái tháo
đường tupp 2. Có nhiều phương pháp chẩn đoán và phân loại béo phì, trong đó chẩn
đoán béo phì bằng chỉ số khối cơ thể và chỉ số bụng mông được áp dụng khá rộng
rãi. Cho tới nay, tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì đã được WHO thống nhất. Tuy nhiên
tiêu chuẩn này là khác nhau cho các vùng địa lí, châu lục khác nhau.
Trong bệnh béo phì, tích lũy mỡ xảy ra trong một thời gian dài, do đó sự suy
giảm khả năng tự bảo vệ chống lại quá trình nhiễm mỡ có thể xảy ra ở một số thời
điểm và triglycerid dần được tích lũy lại. Ở người béo phì, đái tháo đường lâm sàng
thường xuất hiện sau khi 50 - 70% tiểu đảo Langerhans bị tổn thương [9].
Béo bụng còn được gọi là béo dạng nam, là một thuật ngữ chỉ những người
mà phân bố mỡ ở bụng, nội tạng và phần trên cơ thể chiếm tỉ trọng đáng kể. Béo
bụng, ngay cả với những người cân nặng không thực sự xếp vào loại béo phì hoặc
chỉ béo vừa phải là một yếu tố nguy cơ độc lập gây ra rối loạn mỡ máu, tăng huyết
áp và rối loạn chuyển hóa đường.
Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng béo phì là nguyên nhân quan trọng nhất
dẫn đến sự kháng insulin do thiếu hụt sau thụ thể trong tác dụng của insulin. Béo sẽ
đưa đến sự thiếu hụt insulin tương đối do giảm số lượng thụ thể ở tổ chức cần
insulin. Do tính đối kháng insulin cộng với sự giảm tiết insulin dẫn tới sự giảm tính
thấm của màng tế bào với glucose ở tổ chức cơ và mỡ, ức chế quá trình photphorin
hóa và oxi hóa glucose, làm chậm quá trình chuyển hydratcacbon thành mỡ, giảm
tổng hợp glycogen ở gan, tăng tạo đường mới và đái tháo đường xuất hiện [20],
[62]. Nghiên cứu của Colditz G.A và cộng sự (1995) kết luận béo phì và tăng cân
đột ngột làm tăng nguy cơ của đái tháo đường [53].
Ở Pháp, 40 - 60% người bị béo phì thì bị đái tháo đường tuyp 2 và 70 - 80%
người đái tháo đường tuyp 2 bị béo phì [9].

Frank B và cộng sự (1980 - 1986) nghiên cứu trên 84941 phụ nữ trong thời
gian 6 năm là những người không bị đái tháo đường tại thời điểm nghiên cứu. Theo
dõi và quan sát thấy xuất hiện 3300 ca mắc bệnh đái tháo đường tuyp 2, kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng thừa cân và béo phì là nguy cơ số một của đái tháo đường
tuyp 2 [trích từ 2].
16
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Hoàng Kim Ước (2007) cho thấy những
người có BMI > 23 có nguy cơ đái tháo đường tuyp 2 gấp 2,89 lần so với người
bình thường [59].
Theo nghiên cứu của Thái Hồng Quang (2003), ở những người béo phì độ I
tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường tăng lên 4 lần, béo phì độ II tỉ lệ mắc bệnh đái tháo
đường tăng lên gấp 30 lần so với người bình thường [49].
Ngày nay, béo phì đang ngày càng gia tăng, kéo theo sự gia tăng của bệnh
đái tháo đường tuyp 2 và bệnh tim mạch. Tuy nhiên béo phì là một trong những
nguy cơ có thể phòng tránh được của đái tháo đường tuyp 2.
1.1.6.5. Tăng huyết áp
Đái tháo đường và tăng huyết áp là hai bệnh lí bên ngoài có vẻ khác biệt
nhưng thực tế luôn xảy ra trên cùng bệnh nhân đái tháo đường, đặc biệt bệnh nhân
đái tháo đường tuyp 2. Trên lâm sàng khó phân biệt bệnh nhân tăng huyết áp ở bệnh
nhân đái tháo đường. Thật vậy, tăng huyết áp trong đái tháo đường tuyp 2 thường là
một trong những biểu hiện của hội chứng chuyển hóa liên quan kháng insulin và
tăng huyết áp trong đái tháo đường tuyp 1 liên quan đến bệnh thận đái tháo đường.
Phối hợp tăng hyết áp và đái tháo đường làm gia tăng nguy cơ biến chứng và tử
vong tim mạch ở quần thể bệnh nhân đái tháo đường.
Theo nghiên cứu của Whitehall ở Anh theo dõi trong 10 năm (1985 - 1995)
bởi giáo sư Michael Marmot và cộng sự tại Đại học Lôn Đôn cho thấy nguy cơ tử
vong do bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường có tăng huyết áp tăng gấp đôi
bệnh nhân đái tháo đường không tăng huyết áp [11].
Theo Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) xác định tăng huyết áp ở bệnh
nhân đái tháo đường là ≥ 130/80.

Bệnh tim mạch, tăng huyết áp, béo phì được coi là những nguy cơ phát triển
thành đái tháo đường, nhất là ở thành thị. Theo một số tác giả nước ngoài cho thấy
50% số người đái tháo đường tuyp 1 bị cao huyết áp và hầu hết bệnh nhân đái tháo
đường tuyp 2 bị cao huyết áp. Tỉ lệ cao huyết áp ở người bị bệnh đái tháo đường
tuyp 2 cao hơn rất nhiều so với người bình thường.
Tăng huyết áp có thể xuất hiện trước hoặc sau khi có đái tháo đường lâm
sàng, tỉ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường tuyp 2 đều tăng theo tuổi đời,
tuổi bệnh, BMI, nồng độ glucose máu và một số biến chứng tim mạch hoặc biến
chứng thận.
Qua nghiên cứu của Trần Hữu Dàng (2007), tỉ lệ đái tháo đường trên bệnh
nhân tăng huyết áp là 31,5%, tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose là 37%. Tất cả các
trường hợp này đều không biết mình bị đái tháo đường [21]. Vì vậy những người
17
cao huyết áp nên kiểm tra glucose máu thường xuyên để phát hiện sớm đái tháo
đường.
1.1.6.6. Tiền sử rối loạn dung nạp glucose
Ở những người có tiền sử rối loạn dung nạp glucose thì khả năng tiến triển
thành đái tháo đường thực sự là rất cao. Tỉ lệ giữa đái tháo đường và rối loạn dung
nạp glucose là một chỉ số của giai đoạn bệnh tiềm tàng trong dân số. Độ lưu hành
tiền sử rối loạn dung nạp glucose là một yếu tố dự đoán gia tăng hay giảm của đái
tháo đường tuyp 2. Ở những người giảm dung nạp glucose máu nếu biết sớm chỉ
cần can thiệp bằng chế độ ăn và luyện tập thì sẽ ít có nguy cơ chuyển thành đái tháo
đường thực sự. Theo Harin và cộng sự nghiên cứu năm 1989 ở Mỹ cho thấy, tỉ lệ
rối loạn dung nạp glucose gặp khá nhiều và tăng dần theo tuổi, từ 6,4% ở lứa tuổi
20 - 44 tăng lên 41% ở lứa tuổi 65 - 74 [5].
Theo Saad và cộng sự (1998), rối loạn dung nạp glucose có nguy cơ phát
triển thành bệnh đái tháo đường tuyp 2 cao gấp 6,3 lần so với người bình thường
[9].
Theo quan điểm của các chuyên gia đái tháo đường thì 1/3 sẽ tiếp tục tình
trạng này và 1/3 sẽ trở về tình trạng bình thường [9].

Nguy cơ phát triển thành bệnh đái tháo đường ở những người rối loạn dung
nạp glucose rất lớn và đặc biệt là ở những đối tượng cao tuổi, vì vậy cần quản lí, tư
vấn về chế độ ăn uống, sinh hoạt, ăn hạn chế đường, ăn nhiều chất xơ để giảm nguy
cơ mắc bệnh và phát hiện sớm những người mới mắc bệnh để điều trị và phòng
tránh các biến chứng do bệnh gây nên.
1.1.6.7. Lối sống và môi trường
Các nghiên cứu tỉ lệ mắc đái tháo đường đều cho thấy lối sống công nghiệp
hiện đại ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mắc bệnh đái tháo đường. Tỉ lệ mắc đái
tháo đường tăng gấp 2 - 3 lần ở những người nội thành so với những người sống ở
ngoại thành theo các công bố nghiên cứu dịch tễ ở Tunisia, Úc Một số nghiên cứu
của Việt Nam cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Cường
(2006) tại Hà Nội cho thấy tỉ lệ mắc đái tháo đường ở nội thành là 1,4%, ngoại
thành là 0,6% [11]. Nghiên cứu của Trần Hữu Dàng (2007) tại Quy Nhơn thấy tỉ lệ
mắc bệnh ở nội thành là 9,5% cao hơn so với ngoại thành là 2,1% có ý nghĩa thống
kê với p <0,01 [21].
Yếu tố địa dư ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc đái tháo đường thực chất là sự thay
đổi lối sống: Ít vận động, ăn uống nhiều dẫn đến béo phì gây ra .
1.1.6.8. Thuốc lá và bia rượu
Thuốc lá và bia rượu là những chất gây hại cho cơ thể, làm nặng thêm các rối
loạn chuyển hoá.
18
Một số nghiên cứu ở châu Âu cho thấy tỉ lệ hút thuốc lá ở bệnh nhân đái tháo
đường khá cao, có nhiều vùng trên 50% [63]. Trường đại học Lausanne (Anh) đã
tiến hành 25 cuộc nghiên cứu trên 1,2 triệu bệnh nhân và nhận thấy những người
hút thuốc có 44% nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường tuyp 2 [9]. Những người hút
thuốc có xu hướng hình thành những thói quen không có lợi khác, chẳng hạn như
không tập thể dục thể thao hoặc ăn những thực phẩm không có lợi cho sức khỏe.
Rượu có tác động rất xấu đến sức khỏe con người, gây ảnh hưởng đến toàn
bộ các cơ quan trong cơ thể. Những người bệnh đái tháo đường nếu uống nhiều
rượu thì hậu quả thường nặng hơn so với người bình thường. Theo nghiên cứu của

Tô Văn Hải và cộng sự (2006), bệnh nhân nam đái tháo đường có tỉ lệ uống bia
rượu 22,3% và hút thuốc lá 16,8% [34].
1.2. Tình hình nghiên cứu đái tháo đường trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Trên thế giới
Trong các bệnh chuyển hóa, đái tháo đường là bệnh lí thường gặp nhất và có
lịch sử nghiên cứu rất lâu năm nhưng những thành tựu nghiên cứu về bệnh chỉ có
được trong vài thập kỉ gần đây.
Trước công nguyên, bệnh đã được các danh y của nền Y học Ai Cập, Hy Lạp
và Ấn Độ đề cập đến với triệu chứng điển hình đái nhiều, uống nhiều và côn trùng
đến đậu trên nước tiểu người bệnh, mặc dù lúc đó người ta chưa biết đó là bệnh gì
[9].
Thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, Diabetes (tiếng Hy Lạp là siphon), được
Aretaeus (năm 81- 138 sau công nguyên) dùng để mô tả những người mắc bệnh đái
nhiều. Aretaeus cho rằng bệnh có thể là hậu quả của sự nén các cơ quan trong cơ thể
đã gây ra bệnh đái nhiều [11].
Thời kỳ 100 sau công nguyên, các triệu chứng như đái nhiều uống nhiều tiếp
tục được ghi nhận. Về điều trị, ngoài việc dùng rượu vang đỏ, thuốc lợi tiểu, tắm
bồn nước nóng, rạch tĩnh mạch, các phương pháp trị liệu khác còn được sử dụng
thêm: Đó là phương pháp tẩy xổ, dùng emetine, các loại thảo mộc và cả rượu
whisky nấu từ ngô [9].
Năm 1674 sau công nguyên, Thomas Willis là người đầu tiên so sánh vị ngọt
của đường trong nước tiểu giống như mật, từ đó thuật ngữ Diabetets mellitus được
dùng phổ biến cho đến nay. Tuy nhiên cũng cần hiểu rằng, theo quan niệm hiện nay
nếu đái tháo đường đến mức đã có đường trong nước tiểu thì bệnh đã ở giai đoạn
muộn [4].
Năm 1775, Dobson lần đầu tiên hiểu được vị ngọt trong nước tiểu ở những
bệnh nhân đái tháo đường là do sự có mặt của glucose [4].

×